Một tiếng trước khi tới văn phòng của Martin Friel để báo cáo tình hình, Sean và Whitey dừng lại ở nhà Whitey để Whitey thay chiếc áo bị dính thức ăn.
Whitey sống với con trai Terrance trong một căn hộ xây bằng gạch màu trắng ở tận cùng phía Nam thành phố. Căn hộ có sàn lót thảm màu be, tưởng màu trắng ngà và một thứ mùi không khí lưu cữu, ngột ngạt giống như các phòng khách sạn ven đường và hành lang bệnh viện. Khi họ bước vào, vô tuyến vẫn đang bật kênh thể thao ESPN với âm lượng nhỏ mặc dù trong nhà không có ai. Các thiết bị chơi game Sega vứt ngổn ngang trên thảm đằng trước một dàn máy điện tử đồ sộ màu đen. Đối diện với dàn máy là một chiếc trưởng kỷ xộc xệch và Sean đoán trong sọt rác hẳn là những vỏ hộp, giấy gói đồ ăn nhanh McDonald và tủ lạnh thì chật cứng đồ ăn sẵn.
“Terry đâu?” Sean hỏi.
“Chắc lại đi chơi khúc côn cầu rồi,” Whitey bảo. “Hoặc là bóng chày, vào mùa này, nhưng mà khúc côn cầu vốn là món tủ của cậu chàng. Có thể chơi quanh năm ngày tháng.”
Sean đã gặp Terry một lần. Ở tuổi mười bốn, đó là một đứa trẻ cao lớn phi thường, một tảng băng lừng lững và Sean có thể hình dung ra nỗi khiếp sợ mà thằng bé sẽ gây ra cho những đứa trẻ khác khi lao trên đường băng với vận tốc tối đa trong hai năm nữa.
Whitey có được quyền nuôi dạy Terry vì vợ ông đã từ chối. Mấy năm trước bà đã bỏ hai cha con họ để đi theo một luật sư dân sự, một gã nghiện ma túy nặng tới mức sớm muộn cũng sẽ bị tước quyền luật sư và truy tố vì tội biển thủ công quỹ.
Nhưng vợ ông hình như vẫn ở lại với gã đó, Sean nghe nói thế, và vẫn giữ quan hệ gần gũi với Whitey. Đôi khi nghe ông kể về vợ mình người ta suýt quên là hai người đã ly hôn.
Giống như lúc này đây, khi ông dẫn Sean vào phòng khách, nhìn đám thiết bị chơi game Sega trên sàn và cởi cúc áo sơ mi. “Suzanne bảo tôi và Terry đúng là cuồng lên vì đám game này, cứ như là trẻ con. Mắt bà ấy trợn tròn lên nhưng tôi có cảm giác là bà ấy có chút ghen tị. Cậu muốn uống bia hay gì đó không?”
Sean nhớ tới những gì Friel nói về vụ nghiện rượu của Whitey và hình dung ra vẻ mặt của ông ta nếu Whitey xuất hiện tại cuộc họp với mùi Altoids hay Budweiser. Vả lại, vì biết quá rõ Whitey, Sean hiểu đây cũng chính là một bài kiểm tra của ông đối với anh.
“Nước đi, hay Coca cũng được,” anh nói.
“Ngoan đấy,” Whitey vừa nói vừa cười như thể đúng là ông ta vừa có ý định thử thách Sean nhưng Sean cũng nhìn thấy vẻ hụt hẫng trong đôi mắt đờ đẫn và cái liếm mép vô tình của ông. “Hai suất Coca tới liền đây.”
Whitey trở ra từ trong bếp với hai lon Coca và đưa cho Sean một lon. Rồi ông bước về phía buồng tắm nhỏ phía cuối hành lang phòng khách và Sean nghe thấy tiếng ông cởi áo sơ mi và vặn vòi nước.
“Vụ này càng lúc càng trở nên tùy hứng,” ông nói vọng ra từ buồng tắm. “Cậu có cảm thấy thế không?”
“Có chút,” Sean thừa nhận.
“Bằng chứng ngoại phạm của O’Donnell và Fallow khá vững chắc.”
“Nhưng không loại bỏ việc chúng có thể thuê người làm chuyện đó.”
“Đúng vậy. Cậu đang nghĩ theo hướng đó phải không?”
“Cũng không hẳn. Nếu sát thủ ra tay thì có vẻ hơi lộn xộn, không được chuyên nghiệp.”
“Nhưng đúng là cũng không được loại trừ khả năng này.”
“Đúng vậy.”
“Chúng ta cần phải kiểm tra thằng bé Harris một lần nữa vì thằng bé không có bằng chứng ngoại phạm nhưng mà nói thật tôi không thấy nó có khả năng làm chuyện đó. Một đứa ngoan ngoãn nhu mì như thế?”
“Nhưng nó lại có động cơ như ghen tuông với O’Donnell chẳng hạn.”
Whitey ra khỏi phòng tắm, vừa đi vừa lau mặt bằng một chiếc khăn tắm, trước bụng trắng lốp có một vết sẹo màu đỏ ngoằn ngoèo vắt từ bên này sang bên kia mạng sườn.
“Đúng, nhưng mà một thằng bé như nó ư?” Ông nói và đi về phía phòng ngủ bên cạnh.
Sean bước ra hành lang. “Tôi cũng chả thích thú gì ý nghĩ đó nhưng chúng ta phải thận trọng, không bỏ qua bất kỳ nghi vấn nào.”
“Thế thì cả ông bố và các ông cậu điên rồ quái dị của cô ấy nữa. Nhưng tôi đã cử người tới nói chuyện với hàng xóm láng giềng và không thấy có khả năng này.”
Sean dựa vào tường, nhấp một ngụm Coca. “Nếu đây chỉ là một vụ giết người ngẫu nhiên thì trung sĩ ơi, sẽ nhọc đấy…”
“Ờ, cậu nói rõ hơn một chút được không.” Whitey trở ra hành lang, một chiếc áo sơ mi sạch vắt vai. “Bà Prior có nói là bà ấy không nghe thấy tiếng hét nào.” Ông vừa nói vừa bắt đầu cài cúc áo.
“Bà ấy chỉ nghe thấy tiếng súng nổ.”
“Là chúng ta bảo đó là tiếng súng nổ. Cũng có lý. Nhưng bà ấy lại không nghe thấy tiếng la hét nào cả.”
“Có thể là vì cô bé nhà Marcus còn đang bận tông cửa xe vào người gã đó rồi tìm cách thoát thân.”
“Cậu có lý. Nhưng khi cô bé nhìn thấy hắn lần đầu tiên là lúc nào? Khi hắn lại gần trước mũi xe của cô ấy?”
Whitey đi qua chỗ Sean rồi rẽ vào trong bếp.
Sean rời khỏi bức tường và đi theo ông. “Điều đó có nghĩa là cô bé có thể quen biết hắn. Đó là lý do tại sao cô ấy nói xin chào.”
“Đúng vậy.” Whitey gật đầu. “Thế nhưng trước tiên cô bé tự dưng dừng xe lại là vì lẽ gì?”
“Đâu có,” Sean nói.
“Đâu có?” Whitey dựa vào quầy bếp nhìn Sean. “Cô ấy đâu có tự dưng dừng xe lại. Chiếc xe rõ ràng là bị đâm mà, bánh xe ngoặt lên vỉa hè.”
“Nhưng lại không có vết trượt nào trên lòng đường.”
Sean gật đầu. “Có lẽ vì cô bé đang lái xe với tốc độ ba mươi cây số một giờ và có cái gì đó đã khiến cô ấy đánh ngoặt tay lái lên vỉa hè.”
“Cái gì mới được chứ?”
“Tôi biết thế quái nào được. Sếp nói xem.”
Whitey mỉm cười và uống một hơi cạn lon Coca của mình. Ông mở tủ lạnh lấy ra một lon nữa. “Điều gì có thể khiến người ta đánh ngoặt tay lái mà không nhấn vào phanh?”
“Có gì đó ở giữa đường,” Sean nói.
Whitey nâng lon Coca của mình lên cao tỏ vẻ tán thành. “Nhưng lúc chúng ta tới đó thì ở giữa đường có thấy gì đâu.”
“Thì đã là sáng hôm sau rồi còn gì.”
“Vậy là một thứ gì đó giống như một viên gạch chẳng hạn?”
“Gạch thì hơi nhỏ, sếp không nghĩ vậy sao? Vào lúc trời tối như thế?”
“Thì một chồng gạch vậy.”
“OK.”
“Nói chung là có một cái gì đó,” Whitey nói.
“Đúng vậy,” Sean tán thành. “Cô bé ngoặt tay lái, tông lên vỉa hè, chân bật ra khỏi côn khiến xe tắt máy.”
“Và vào lúc đó, thủ phạm xuất hiện.”
“Một người mà cô ấy quen biết. Và rồi, sao nữa, hắn từ từ tiến tới và bắn cô ấy?”
“Và cô ấy mở cửa xe tông vào hắn và…”
“Cậu đã bao giờ bị tấn công bằng cửa xe ô tô chưa?” Whitey dựng cổ áo lên tròng chiếc cà vạt vào và bắt đầu thắt nút.
“Vẫn chưa có cơ hội thử nghiệm.”
“Giống như một cú thụi nhẹ. Nếu bị một phụ nữ nặng năm lăm cân mở cửa chiếc xe Toyota nhỏ nhắn của cô ta vào người ở khoảng cách gần thì cũng không đau đớn gì lắm, chỉ hơi khó chịu một chút thôi. Karen Hughes nói thủ phạm nổ phát súng đầu tiên chỉ cách xe có khoảng mười lăm phân. Mười lăm phân.”
“OK. Nhưng có thể cô ấy bị ngã ra phía sau và dùng hai chân đạp cửa xe. Không phải là không có khả năng.”
“Cửa xe chắc là đã mở từ trước rồi. Vì nếu cửa đóng thì có đạp cả ngày nó cũng chẳng xê dịch. Cô ấy hẳn đã mở cửa xe rồi lấy cánh tay đẩy nó ra. Thủ phạm hoặc phải lùi lại hoặc bị cửa xe đập vào người hoặc là…”
“Một người nhẹ cân.”
Whitey gập cổ áo lại. “Khiến tôi lại nghĩ tới các dấu chân.”
“Lại đám dấu chân chết tiệt”
“Đúng thế!” Whitey la lên. “Đám dấu chân chết tiệt.” Ông cài chiếc nút áo trên cùng, siết chặt nút cà vạt. “Sean này, thủ phạm đã đuổi theo cô gái đó khắp công viên. Cô ấy bỏ chạy hết tốc lực còn hắn điên cuồng bám theo như một kẻ mất trí. Ý tôi nói là hắn chạy sùng sục khắp cái công viên ấy nhưng lại không để lại bất kỳ một dấu chân nào, dù chỉ một lần?”
“Trời mưa cả đêm mà.”
“Nhưng chúng ta vẫn tìm thấy ba dấu chân của cô gái. Cậu không thấy chuyện này có gì đó rất lạ lùng sao?”
Sean dựa đầu vào tủ bếp phía sau cố hình dung ra quang cảnh lúc đó – Katie Marcus, hai tay vùng vẫy trong lúc lao xuống con dốc tối tăm dẫn tới khu chiếu bóng cũ, da dẻ trầy xước vì những bụi cây ven đường, tóc sũng mồ hôi và nước mưa, máu chảy từng giọt trên ngực và cánh tay. Còn tên sát thủ trong trí tưởng tượng của Sean là một bóng đen không nhìn rõ mặt xuất hiện trên đỉnh dốc vài giây sau đó, vừa chạy vừa thở hồng hộc đầy vẻ khát máu. Trong đầu Sean, đó là một gã to lớn, một dạng quái thai. Lại có phần tinh khôn. Tinh khôn ở chỗ biết đặt chướng ngại vật giữa đường để Katie phải ngoặt lái đâm lên vỉa hè. Tinh khôn ở chỗ chọn đúng đoạn đường vắng trên phố Sydney nơi rất ít người có thể nghe thấy hay nhìn thấy nếu có chuyện gì xảy ra. Việc bà Prior nghe thấy tiếng động lạ chỉ là ngẫu nhiên, nằm ngoài dự tính của thủ phạm vì ngay cả Sean cũng ngạc nhiên khi biết rằng ở khu nhà bị cháy đó hóa ra vẫn còn người sống. Ngoài chi tiết ấy ra thì thủ phạm đúng là một gã rất thông minh.
“Hay là hắn đủ thông minh để xóa hết các dấu vết của mình?” Sean hỏi.
“Gì cơ?”
“Thủ phạm ấy. Có lẽ hắn giết cô bé rồi quay lại và đạp bùn lên các vết chân của mình.”
“Cũng có thể, nhưng làm sao mà hắn có thể nhớ hết được tất cả những nơi mà hắn đã bước qua? Hắn chạy trong bóng tối. Thậm chí nếu hắn có đèn pin đi nữa thì sao? Diện tích quá rộng, có quá nhiều dấu chân để xác định rồi phải làm chúng biến mất nữa chứ.”
“Nhưng trời mưa mà.”
“Đúng thế.” Whitey thở dài. “Tôi sẽ phải chấp nhận lý thuyết trời mưa đã xóa hết dấu vết này nếu gã chúng ta đang truy tìm nặng khoảng bảy mươi cân trở xuống. Còn nếu không thì…”
“Trong trường hợp đó, cân nặng của Brendan Harris có vẻ tương ứng, không vượt mốc này là mấy.”
“Cậu thực sự nghĩ là thằng bé đó có khả năng làm chuyện này sao?” Whitey rên lên.
“Không.”
“Tôi cũng không nghĩ vậy. Thế còn anh chàng bạn cậu thì sao? Anh ta trông cũng gầy gò.”
“Ai cơ?”
“Boyle.”
Sean rời khỏi quầy bếp, “Thế nào mà lại thành ra cậu ấy được?”
“Thì chúng ta đang siết lại gần cậu ta đấy thôi.”
“Không thể nào. Chờ chút…”
Whitey giơ tay lên ngăn Sean lại rồi nói tiếp. “Cậu ta nói cậu ta rời quán bar vào lúc một giờ đúng không? Vớ vẩn. Vì chiếc chìa khóa kia đã khiến chiếc đồng hồ vỡ dừng lại lúc một giờ kém mười. Katherine Marcus rời quán bar lúc một giờ kém mười lăm. Mốc thời gian này hoàn toàn chính xác, Sean. Bằng chứng ngoại phạm của cậu ta có mười lăm phút sơ hở. Chúng ta không thể biết cậu ta về nhà vào lúc nào. Thực sự về tới nhà ấy.”
“Whitey, cậu ấy chỉ là một người có mặt trong quán bar lúc đó.” Sean cười.
“Là nơi cuối cùng cô gái xuất hiện. Là địa điểm cuối cùng, Sean. Chính cậu đã nói vậy.”
“Tôi nói gì cơ?”
“Rằng chúng ta đang tìm một gã phải ở nhà trong đêm dạ hội cuối năm ở trường trung học.”
“Tôi chỉ…”
“Tôi không nói cậu ta là thủ phạm. Tôi cũng chưa định buộc tội gì cả. Tuy nhiên cậu ta có cái gì đó không bình thường. Ý tôi là cậu ta nói lăng nhăng cái gì về thành phố này cần tới một làn sóng tội phạm kinh hoàng. Lại có vẻ rất nghiêm túc.”
Sean đặt lon Coca rỗng của mình lên quầy bếp. “Ông có sọt rác dành riêng cho những đồ có thể tái chế không?”
Whitey cau mày. “Không.”
“Ngay cả khi mỗi lon đáng giá 5 xu.”
“Sean.”
Sean ném lon Coca vào sọt rác. “Ông đang bảo tôi là một gã như Dave Boyle có thể giết một người họ hàng gần của vợ mình chỉ vì sự bất mãn với quá trình chỉnh trang đô thị? Phải nói là lý do ngớ ngẩn nhất tôi từng nghe thấy.”
“Tôi từng bắt một gã giết vợ chỉ vì bị chê nấu ăn chán.”
“Nhưng đó chính là xung đột gia đình. Mâu thuẫn giữa hai người đã tích tụ nhiều năm rồi chỉ chờ cơ bùng nổ. Còn ở đây, ông đang nói về một người kiểu, ‘Tệ thật, tiền thuê nhà tăng ngất ngưởng đúng là hại chết tôi. Tôi nên đi giết vài người cho tới khi nó hạ xuống mới thôi.’ “
Whitey phá lên cười.
“Sao?” Sean hỏi.
“Cái cách cậu diễn giải vấn đề,” Whitey nói. “Đồng ý, nghe có vẻ ngớ ngẩn. Nhưng mà cậu ta đúng là có cái gì đó không bình thường. Nếu như trong bằng chứng ngoại phạm của cậu ta không có một lỗ hổng thì tôi cũng chẳng nói làm gì. Hay như cậu ta không gặp nạn nhân một tiếng trước khi cô ấy chết. Nhưng cậu ta lại có một lỗ hổng và lại là người gặp nạn nhân trước khi chết, rồi lại có cái vẻ gì đó rất đáng nghi nữa. Cậu ta nói là cậu ta về thẳng nhà đúng không? Tôi muốn vợ cậu ta xác nhận thông tin này. Tôi muốn nghe thấy hàng xóm ở tầng một xác nhận nghe thấy tiếng bước chân của cậu ta trên cầu thang lúc một giờ năm phút. Cậu hiểu rồi chứ? Sau đó thì tôi có thể loại bỏ cậu ta ra khỏi danh sách. Cậu có để ý thấy tay của cậu ta không?”
Sean im lặng không nói gì.
“Tay phải cậu ta sưng gấp đôi tay trái. Cậu ta mới gặp phải chuyện gì đó. Tôi muốn biết là gì. Nếu chỉ là một trận ẩu đả ở quán bar thì không sao, tôi sẽ bỏ qua.”
Whitey uống cạn lon Coca thứ hai rồi ném vào sọt rác. “Dave Boyle,” Sean nói. “Ông thực sự muốn để mắt tới cậu ấy?”
“Chỉ một chút thôi,” Whitey nói. “Hãy để mắt tới cậu ta một chút.”
Họ gặp nhau ở phòng họp chung của Đội trọng án và Đội điều tra án mạng trên tầng thứ ba của văn phòng công tố. Friel lúc nào cũng thích họp ở đây vì không gian lạnh lẽo không có dấu ấn cá nhân với những chiếc ghế cứng, bàn hội nghị màu đen giữa các bức tường gạch xám. Đó không phải là căn phòng chứng kiến những câu độc thoại dí dỏm hay những màn độc thoại liên miên. Không ai ở lâu trong căn phòng này, mọi người chỉ đến làm việc của mình rồi lập tức rời đi.
Trong phòng chiều hôm đó có bảy chiếc ghế và đều có người ngồi. Friel ngồi ở đầu bàn. Bên phải ông ta là đội phó đội điều tra án mạng của hạt Suffolk, Maggie Mason, bên trái là trung sĩ Robert Burike, phụ trách tổ điều tra án mạng số hai. Whitey và Sean ngồi đối diện nhau, kế tiếp là Joe Souza, Chris Connolly và hai nhân viên điều tra khác của cảnh sát bang là Payne Brackett và Shira Rosenthal. Mỗi người đều có một chồng hồ sơ trước mặt bao gồm các báo cáo điều tra hiện trường hay bản sao của chúng, ảnh hiện trường, báo cáo pháp y, báo cáo của bên kỹ thuật giám định hiện trường, cộng thêm các ghi chép và báo cáo của riêng họ, vài chiếc khăn giấy ghi tên nguệch ngoạc cũng như các sơ đồ hiện trường vẽ vội.
Whitey và Sean nói đầu tiên, trình bày về các cuộc thẩm vấn của họ đối với Eve Pigeon, Diane Castra, bà Prior, Brendan Haris, Jimmy và Annabeth Marcus, Roman Fallow và Dave Boyle. Whitey khiến Sean rất cảm kích khi chỉ nhắc tới Dave như một nhân chứng trong quán bar.
Tiếp theo là Brackett và Rosenthal. Chủ yếu là Brackett nói nhưng theo kinh nghiệm bản thân Sean dám chắc rằng phần lớn công việc điều tra là do Rosenthal thực hiện.
“Những người làm chung với cha của nạn nhân đều có chứng cớ ngoại phạm chắc chắn và cũng không có động cơ đáng ngờ nào. Tất cả bọn họ đều nói là nạn nhân không có kẻ thù, không mắc nợ hay nghiện hút gì cả. Trong phòng nạn nhân cũng không tìm thấy chất gây nghiện, chỉ tìm thấy bảy trăm đô la tiền mặt, không có nhật ký. Hồ sơ tài khoản cho thấy số tiền để dành của nạn nhân tương ứng với số tiền lương mà cô ấy kiếm được. Không có hành động rút tiền hay gửi một khoản tiền lớn nào đáng chú ý cho tới khi nạn nhân đóng tài khoản vào buổi sáng thứ Sáu ngày mồng 5. Số tiền đó được tìm thấy trong ngăn kéo tủ ở phòng riêng, trùng hợp với phát hiện của trung sĩ Powers về dự định rời khỏi thành phố của nạn nhân vào sáng Chủ nhật. Những cuộc thẩm vấn ban đầu với hàng xóm cho thấy những nghi ngờ về mâu thuẫn gia đình là không có cơ sở.”
Brackett đặt hồ sơ xuống bàn ra hiệu mình đã nói hết. Friel quay sang Souza và Connolly.
“Chúng tôi đã thẩm tra những người trong danh sách lấy từ các quán bar mà nạn nhân xuất hiện. Tổng cộng đã thẩm tra được hai mươi tám trong khoảng bảy mươi lăm người, chưa kể hai người mà trung sĩ Powers và nhân viên Devine đã hỏi, Fallow và David Boyle. Nhân viên Hewlette, Darton, Woods, Cecchi, Murray và Eastman đã thẩm tra bốn mươi lăm người còn lại và chúng tôi có báo cáo sơ bộ của họ ở đây.”
“Về phần Fallow và O’Donnell thì sao?” Friel hỏi Whitey.
“Ngoại phạm. Nhưng không loại trừ khả năng chúng thuê người giết.”
Friel dựa lưng vào ghế. “Tôi điều tra khá nhiều vụ giết thuê từ trước tới nay nhưng không có vụ nào giống như vụ này.”
“Nếu là sát thủ chuyên nghiệp ra tay,” Maggie Mason lên tiếng, “sao không bắn luôn trong xe đi?”
“Thì đúng đã nổ súng đấy thôi.” Whitey nói.
“Tôi nghĩ là bà ấy định nói nổ súng nhiều lần cho tới khi hạ thủ được nạn nhân mới thôi. Tại sao hắn lại không làm vậy?”
“Có thể là bị nghẽn súng,” Sean nói và trước những con mắt đang nhíu lại xung quanh mình anh tiếp tục giải thích, “đó là một khả năng chúng ta chưa nghĩ tới. Súng bị nghẽn nên Katherine Marcus lập tức phản ứng. Cô ấy xô ngã thủ phạm rồi bỏ chạy.”
Cả căn phòng im lặng trong giây lát. Friel chụm hai đầu ngón trỏ vào nhau tạo thành một hình tam giác. “Cũng có thể,” cuối cùng ông ta lên tiếng. “Có thể là vậy. Nhưng tại sao lại dùng que hay gậy gì đó đánh nạn nhân? Nghe không được chuyên nghiệp cho lắm.”
“Tôi cũng không rõ là O’Donnell và Fallow có tìm sát thủ chuyên nghiệp hay không nữa. Hay chỉ thuê một tên nghiện hút rồi trả cho mấy liều thuốc phiện và một mồi lửa.”
“Nhưng các anh vừa nói là người phụ nữ lớn tuổi kia nghe thấy tiếng cô Marcus chào hỏi hung thủ. Cô ấy liệu có làm vậy nếu một tên nghiện hút xuất hiện trước xe ô tô của cô ấy trong lúc lên cơn không?”
Whitey khẽ gật đầu.
“Nhận xét rất xác đáng.”
Maggie Mason tì vào bàn. “Vậy chúng ta sẽ tiếp tục giả thiết là cô ấy quen biết với hung thủ. Đúng không?”
Sean và Whitey nhìn nhau rồi quay về phía đầu bàn và gật đầu.
“Không phải là ở East Bucky thì không có bọn nghiện hút, nhất là ở khu Hạ nhưng một cô gái như Katherine Marcus liệu có quan hệ với chúng không?”
“Lại một nhận xét xác đáng nữa.” Whitey thở dài.
“Tôi cũng muốn vì lợi ích chung mà cho rằng đây là một vụ do sát thủ chuyên nghiệp thực hiện. Nhưng còn chi tiết bổ vào đầu nạn nhân? Nghe có vẻ điên cuồng. Thiếu chuyên nghiệp.”
Whitey gật đầu. “Nhưng mà chúng ta không thể loại bỏ hoàn toàn bất cứ khả năng nào. Đó là tất cả những gì tôi muốn nói.”
“Tôi hiểu, thưa trung sĩ.”
Friel quay về phía Souza đang có vẻ hơi khó chịu vì sự chuyển hướng của vấn đề.
Anh ta khẽ hắng giọng rồi chậm rãi quay trở lại với các ghi chép của mình. “Tuy nhiên, chúng tôi đã thẩm vấn một người tên là Thomas Moldanado, một khách hàng tới uống rượu tại Last Drop, quán bar cuối cùng mà Katherine Marcus tới trước khi chở các bạn về nhà. Ở đó hình như chỉ có một nhà vệ sinh nên mọi người đứng xếp hàng dài chờ đợi và vì thế mà anh ta có nhìn thấy lúc ba cô gái đi khỏi. Anh ta không xếp hàng nữa mà bỏ ra bãi đỗ xe đằng sau đi bậy thì nhìn thấy một gã ngồi trong xe, tắt đèn tối om, vào khoảng một rưỡi. Anh ta bảo đồng hồ đeo tay mới mua nên lúc đó có nhìn giờ để kiểm tra xem có dạ quang hay không.
“Có chuyện đó sao?”
“Đúng là như thế.”
“Cái gã ngồi trong xe ấy cũng có thể chỉ là một gã say rượu ngủ quên mà thôi,” Robert Burke nói.
“Đầu tiên chúng tôi cũng cho là thế nhưng Moldanado lại bảo người kia ngồi ngay ngắn trong xe, mắt mở to. Moỉdanado cứ tưởng là cảnh sát nhưng đó là một chiếc xe ô tô nước ngoài loại nhỏ như Honda hay Subaru gì đó.”
“Hơi bị móp. Cửa bên phía trước có một vết lõm.” Connolly thêm vào.
“Đúng thế,” Souza nói tiếp. “Nên Moldanado đoán rằng gã ta là một người lạ mặt. Khu vực này vốn có rất nhiều gái điếm hoạt động. Nhưng nếu vậy thì tại sao hắn không đi tìm gái mà ở trong bãi đỗ xe làm gì?”
“Được rồi. Vậy thì…” Whitey lên tiếng.
Souza giơ một tay lên ngăn lại. “Cho tôi thêm một phút nữa thôi, trung sĩ.” Anh ta nói rồi nhìn sang phía Connolly, mắt sáng lên vẻ hưng phấn. “Nên chúng tôi kiểm tra một vòng xung quanh bãi đỗ xe và tìm thấy vết máu.”
“Máu.”
Anh ta gật đầu. “Nếu nhìn qua thì tưởng là ai đó thay dầu trong bãi đỗ xe. Đám máu đó rất đặc, tụ lại thành một vũng. Chúng tôi kiểm tra xung quanh thì tìm thấy lác đác vài giọt máu khác. Trên tường và mặt hẻm đằng sau quán bar cũng có vài giọt máu.”
“Nhân viên Souza, tóm lại là cậu có ý gì?” Friel hỏi.
“Ai đó đã bị thương ở phía bên ngoài quán Last Drop đêm hôm đó.”
“Làm sao mà các anh biết được chính là đêm hôm đó?”
“Bên giám định hiện trường đã xác nhận. Một nhân viên bảo vệ ca đêm đã đỗ xe lên đó nên đã bảo vệ nó khỏi cơn mưa. Nạn nhân dù là ai đi nữa thì cũng đã bị thương rất nặng. Và kẻ tấn công cũng vậy. Hắn cũng bị thương. Chúng tôi tìm thấy hai mẫu máu khác nhau trong bãi đỗ xe. Chúng tôi đang kiểm tra với các bệnh viện, các hãng taxi trong trường hợp nạn nhân vẫy được xe trên đường. Chúng tôi cũng tìm thấy các mẫu tóc, da và tủy não dính máu. Chúng tôi hiện đang chờ phản hồi từ sáu phòng cấp cứu của các bệnh viện. Các nơi khác thì không có thông tin gì. Nhưng tôi cược rằng chúng ta sẽ tìm thấy một nạn nhân nhập viện cấp cứu ở đâu đó do chấn thương nghiêm trọng trên đầu vào đêm thứ Bảy, rạng sáng Chủ nhật.”
Sean giơ một tay lên. “Ý anh là trong cùng một đêm lúc Katherine Marcus rời khỏi quán Last Drop thì tại bãi đỗ xe của quán bar này, ai đó đã nện vỡ sọ một kẻ khác?”
Souza mỉm cưởi. “Đúng thế.”
Connolly bổ sung thêm. “Bên kỹ thuật hiện trường tìm thấy hai mẫu máu khô thuộc nhóm A và B. Số máu thuộc nhóm A nhiều hơn nhóm B nên chúng tôi đoán là nạn nhân thuộc nhóm máu A.”
“Katherine Marcus là nhóm máu o,” Whitey nói.
Connolly gật đầu. “Mẫu tóc cũng cho thấy nạn nhân là nam giới.”
“Thế giả thiết của các anh là gì?” Friel hỏi.
“Chúng tôi cũng chưa có giả thiết gì. Chỉ biết là vào đêm Katherine Marcus bị giết thì ai đó cũng bị đánh vỡ đầu trong bãi đỗ xe của quán bar cuối cùng mà cô ấy lui tới.”
“Nghĩa là có một cuộc ẩu đả tại bãi đỗ xe của quán bar. Vậy thì sao?” Maggie Mason lên tiếng.
“Nhưng không ai trong số khách hàng tại quán bar nhớ rằng đã xảy ra ẩu đả kể cả bên trong và bên ngoài quán bar. Giữa một giờ rưỡi và một giờ năm mươi, những người duy nhất rời khỏi quán bar là Katherine Marcus, hai người bạn của cô ấy, và nhân chứng Moldanado, người lập tức quay trở lại quán bar sau khi đi vệ sinh xong. Cũng không có ai khác đi vào quán bar. Moldanado nhìn thấy một người trong bãi đỗ xe lúc một giờ rưỡi, một gã mà hắn miêu tả là trông bình thường, ngoài ba mươi, tóc màu sẫm. Người này đã đi mất khi Moldanado rời khỏi quán bar vào lúc một giờ năm mươi.”
“Vào lúc cô Marcus đang chạy trốn trong công viên Pen.”
Souza gật đầu. “Chúng tôi không nói là hai sự việc này có liên hệ mật thiết với nhau. Vì có thể chúng hoàn toàn chả liên quan gì cả. Nhưng dù sao thì cũng có nhiều điểm khá trùng hợp.”
“Nhắc lại lần nữa, vậy giả thiết của các anh là gì?” Friel hỏi.
Souza nhún vai. “Tôi cũng không biết nữa, thưa sếp. Cứ cho rằng là do sát thủ chuyên nghiệp ra tay đi. Cái gã ngồi trong bãi đỗ xe là người được cử tới theo dõi cô Marcus cho tới khi cô ấy rời đi. Cô ấy vừa đi khỏi thì hắn gọi điện cho hung thủ. Tên hung thủ kia bắt đầu chờ thời cơ để ra tay.”
“Và rồi sau đó thì sao?” Sean hỏi.
“Sau đó thì sao á? Thì hắn ta giết cô ấy.”
“Không. Về cái gã ngồi ở trong xe. Cái gã ngồi theo dõi ấy. Sau đó hắn ta làm gì? Hắn đột nhiên quyết định cầm đá hay gì đó nện vỡ đầu một kẻ khác chỉ vì thích thế?”
“Có thể ai đó làm hắn giật mình?”
“Làm gì cơ?” Whitey nói. “Nói chõ vào điện thoại của hắn à? Ối giời ơi. Tôi không biết chuyện này thì có gì liên quan tới án mạng của cô Marcus chứ?”
“Trung sĩ,” Souza nói, “ông muốn tôi bỏ qua chuyện này chứ gì? Thì sao không nói thẳng ra luôn là nó chả đáng, chả có gì quan trọng.”
“Tôi có nói thế sao?”
“Thì…”
“Tôi có nói thế sao?” Whitey nhắc lại.
“Không có.”
“Không hề. Tôi không hề nói vậy nhé! Hãy tỏ ra tôn trọng những người đi trước một chút, Joseph, hay chúng tôi sẽ gửi trả cậu về lo mấy vụ ma túy tổng hợp ở Springfield, suốt ngày giao du với lũ cưỡi mô tô và đám phụ nữ hôi hám ăn mỡ hộp.”
Souza khẽ thở hắt ra. “Tôi chỉ nghi là có thể có gì đó liên quan mà thôi. Không có ý gì khác.”
“Tôi không phản đối, nhân viên Souza. Chỉ muốn nói là cậu cần có những bằng chứng thiết thực hơn để tránh việc chúng ta tập trung nhân lực vào điều tra một sự việc té ra chả liên quan gì tới nhiệm vụ trước mắt. Với lại quán Last Drop thuộc địa phận của cảnh sát Boston.”
“Chúng tôi đã liên lạc với họ,” Souza nói.
“Và họ bảo với cậu rằng đó là việc của họ đúng không?”
Souza gật đầu.
Whitey xòe hai tay ra. “Bây giờ thế này nhé. Cậu giữ liên lạc với nhân viên điều tra phụ trách vụ này ở bên đó và cập nhật thông tin cho chúng tôi nhưng tạm thời không can thiệp.”
“Trở lại với vấn đề giả thiết vụ án, trung sĩ, giả thiết của anh là gì?” Friel lên tiếng.
Whitey nhún vai. “Tôi có vài giả thiết nhưng chỉ là giả thiết mà thôi. Katherine tử vong do vết thương bị súng bắn phía sau đầu. Tất cả những vết thương khác trên người bao gồm cả vết thương do đạn bắn trên bắp tay trái cũng không có khả năng gây tử vong. Đầu nạn nhân bị đập bằng một vật bằng gỗ, gờ phẳng, có thể là một loại gậy hay một thanh gỗ. Kết luận pháp y cho thấy nạn nhân không bị xâm phạm tình dục. Điều tra bên ngoài cho biết nạn nhân có kế hoạch bỏ trốn với cậu thanh niên nhà Harris. Bobby O’Donnell là bạn trai trước của nạn nhân. Vấn đề là hắn vẫn chấp nhận được chuyện này. Bố nạn nhân thì không ưa cả O’Donnell lẫn cậu thanh niên kia.”
“Tại sao ông bố lại không ưa cậu thanh niên Harris kia?”
“Chúng tôi cũng chả rõ.” Whitey nhìn về phía Sean rồi tiếp tục. “Chúng tôi cũng đang điều tra chuyện này. Nên chúng tôi chỉ có thể đoán là nạn nhân lên kế hoạch rời khỏi thành phố vào buổi sáng. Đêm trước, cô ấy tổ chức một bữa tiệc chia tay với hai người bạn, bị Roman Fallow bắt gặp và đuổi ra khỏi quán bar rồi lái xe đưa các bạn về nhà. Lúc đó trời bắt đầu mưa, cần gạt mưa trên xe không hoạt động, kính xe thì bẩn không nhìn rõ. Hoặc là cô ấy không nhìn thấy vỉa hè vì say rượu, ngủ gật trên vô lăng, hoặc là cô ấy ngoặt tay lái để tránh vật gì đó trên đường. Dù là nguyên nhân gì trong số hai nguyên nhân kể trên thì kết quả là cô ấy đã lái xe lên vệ đường. Chiếc xe bị chết máy và ai đó tiến lại gần. Theo nhân chứng lớn tuổi của chúng ta thì Katherine Marcus có nói ‘Xin chào.’ Đó cũng là thời điểm mà chúng tôi cho rằng thủ phạm nổ phát súng đầu tiên. Nạn nhân cố tấn công lại hắn bằng cửa xe ô tô của mình – có thể súng hắn bị nghẽn thật, tôi cũng chẳng biết nữa – và thế là cô ấy bắt đầu bỏ chạy vào trong công viên. Cô ấy lớn lên ở đây nên có lẽ cô ấy cho rằng cô ấy có cơ may trốn thoát được hắn. Một lần nữa, chúng tôi không phỏng đoán được tại sao cô ấy lại chọn chạy về phía công viên ngoại trừ việc cô ấy cho rằng nếu chạy thẳng về đầu này hay đầu kia của phố Sydney thì cũng phải qua ít nhất bốn khúc phố mới tìm được người giúp đỡ. Mà xông ra đường chính như thế thì cũng có thể bị thủ phạm dùng xe cán chết hay nổ súng bắn một cách dễ dàng. Thế nên cô ấy chạy về phía công viên. Cô ấy kiên trì chạy về phía Đông Nam, qua vườn hoa rồi nấp dưới hẽm nước nhỏ dưới chân cầu và cuối cùng tiến thẳng tới khu chiếu bóng cũ. Cô ấy…”
“Cô ấy kiên trì dấn sâu vào trong công viên,” Maggie Mason lên tiếng.
“Đúng thế, thưa sếp.”
“Tại sao?”
“Tại sao nghĩa là sao?”
Mason tháo kính đặt lên bàn phía trước mặt mình. “Tôi hỏi thế là vì nếu tôi là một phụ nữ bị truy đuổi trong một công viên mà tôi vô cùng quen thuộc địa hình thì lúc đầu tôi có thể dụ kẻ bám đuôi theo mình vào đó với hy vọng sẽ khiến hắn bị lạc đường hay chậm lại. Nhưng ngay khi có thể thì tôi sẽ tìm cách chạy ra khỏi đó ngay lập tức. Tại sao cô ấy lại không chạy sang hướng Bắc về phía đường Roseclair hay quay trở lại phố Sydney? Tại sao lại tiếp tục chạy sâu hơn vào trong công viên?”
“Trong lúc choáng váng, có lẽ là thế. Và sợ hãi. Sợ hãi có thể khiến người ta mất đi khả năng tư duy. Cũng phải nhớ là nồng độ cồn trong máu của cô ấy là 0,9 gam. Lúc đó cô ấy đang say.”
Maggie Mason lắc đầu. “Tôi không tin. Còn chi tiết này nữa, theo báo cáo của anh liệu tôi có thể phỏng đoán rằng cô Marcus trên thực tế nhanh nhẹn hơn rất nhiều so với người đuổi theo cô ấy không?”
Miệng Whitey há ra một chút nhưng ông ta dường như quên mất mình định nói gì.
“Báo cáo của anh, trung sĩ nói rằng có ít nhất hai lần cô Marcus đã lựa chọn trốn đi thay vì tiếp tục bỏ chạy. Cô ấy trốn ở vườn hoa và dưới chân cầu. Chi tiết này nói lên hai điều: thứ nhất là cô ấy chạy nhanh hơn kẻ đuổi theo mình vì nếu không thì cô ấy không thể có đủ thời gian để nghĩ tới việc tìm chỗ trốn, thứ hai là cô ấy nghĩ chạy trước hắn thôi vẫn chưa đủ. Lại thêm chuyện cô ấy không hề có ý định chạy ra khỏi công viên như anh vừa nói, anh không thấy có gì lạ sao?”
Không ai biết trả lời thế nào.
Cuối cùng Friel lên tiếng. “Theo bà thì sao?”
“Nó khiến cho tôi nghĩ tới một khả năng là cô ấy hẳn có cảm giác đang bị bao vây.”
Trong giây lát, Sean nghĩ cả căn phòng như trở nên tĩnh điện với các dòng điện xung nhau nhiễu loạn.
“Bởi một băng nhóm hay gì đó?” Cuối cùng Whitey cũng lên tiếng.
“Hay gì đó?” Mason nói. “Tôi không biết, trung sĩ. Tôi chỉ là dựa theo báo cáo của anh mà thôi. Chứ cả đời này tôi cũng không tài nào hiểu nổi tại sao cô gái đó, rõ ràng là chạy nhanh hơn kẻ tấn công mình lại không chọn cách chạy ngược trở lại, thoát khỏi công viên trừ phi cô ấy nghĩ rằng còn có kẻ khác nữa đang rình cô ấy ở đó.”
Whitey vẫn không ngẩng đầu lên nói. “Tôi rất tôn trọng nhận xét của sếp nhưng với một kịch bản như thế thì sẽ để lại trên hiện trường vô số dấu vết.”
“Chính anh đã nhắc lại nhiều lần trong báo cáo là mưa đã xóa đi các dấu vết mà.”
“Đúng vậy,” Whitey nói. “Nhưng nếu có tới một nhóm người – hay thậm chí hai người – đuổi theo Katherine Marcus thì chúng ta sẽ có nhiều dấu vết hơn những gì chúng ta hiện có. Ít nhất thì cũng thêm vài dấu chân nữa. Hay cái gì đó, thưa sếp.”
Maggie lại đeo kính vào và nhìn xuống bản báo cáo trên tay. Cuối cùng bà ta lên tiếng. “Đây cũng chỉ là một giả thiết thôi, trung sĩ. Một giả thiết mà dựa trên báo cáo của chính anh tôi thấy cũng nên xem xét.”
Whitey tiếp tục cúi đầu nhưng Sean có thể thấy thái độ coi thường bốc lên ngùn ngụt từ người ông.
“Ý anh sao, trung sĩ?” Friel lên tiếng.
Whitey ngẩng đầu lên mỉm cười đờ đẫn. “Tôi sẽ lưu ý chi tiết này. Hẳn rồi. Nhưng hoạt động băng đảng ở khu vực này không có nhiều. Chúng tôi không nghĩ vậy. Còn nghi vấn có hai thủ phạm thì lại dẫn chúng ta trở lại với giả thiết đây là một vụ giết thuê.”
“OK…”
“Nhưng nếu vậy thì như chúng ta đã nhất trí ngay từ đầu cuộc họp là khó có khả năng xảy ra vì tên sát thủ thứ hai chắc chắn sẽ nổ súng trong lúc Katherine Marcus tấn công đồng đảng của hắn bằng cửa xe. Vậy nên cho tới giờ giả thiết duy nhất có khả năng là chỉ có một thủ phạm và nạn nhân là một phụ nữ say rượu, bấn loạn, chết ngất khi mất máu, tư duy không mạch lạc và vô cùng đen đủi.”
“Nhưng anh vẫn lưu ý giả thiết của tôi nhé,” Maggie Mason cười nhếch mép vẻ khó chịu, mắt nhìn xuống bàn.
“Tôi sẽ lưu ý,” Whitey đáp. “Từ lúc này trở đi tôi tiếp thu bất kỳ ý kiến nào. Thề có Chúa. Nạn nhân có quen biết với hung thủ. Thế nhưng cho tới giờ tất cả những người được coi là có động cơ hợp lý đều dần dần bị loại ra khỏi vòng nghi vấn vì các bằng chứng ngoại phạm. Càng điều tra thì lại càng có vẻ như đây là một vụ án mạng ngẫu nhiên. Mưa to đã xóa mất hai phần ba dấu vết của vụ án, cô Marcus lại không có tới một ai gọi là kẻ thù, không có vấn đề về tài chính, không nghiện hút cũng không phải là nhân chứng tội ác nào. Việc cô ấy bị giết hại cho tới nay không đem lại lợi ích cho bất kỳ ai.”
“Trừ O’Donnell,” Burke nói. “Người rõ ràng không muốn cô ấy bỏ đi.”
“Ngoại trừ hắn ta,” Whitey tán thành. “Nhưng bằng chứng ngoại phạm của hắn rất chắc chắn, lại không giống như thuê sát thủ ra tay. Vậy ai có thể là người muốn hại cô ấy chứ? Có vẻ như không ai muốn cả.”
“Tuy nhiên cô ấy đã chết,” Friel nói.
“Đúng thế, cô ấy đã bị hại chết,” Whitey nhắc lại. “Đó chính là lý do tại sao tôi cho rằng vụ án này mang tính ngẫu nhiên. Loại bỏ những động cơ như tình, tiền, thù hận ra rồi thì chả còn nguyên nhân nào nữa, ngoài những giả thiết ngớ ngẩn như có một gã dở hơi, suốt ngày rình rập nạn nhân, lập ra một trang web thờ phụng cô ấy, vân vân và vân vân.”
Friel nhíu mày khi nghe vậy.
Shira Rosenthal lập tức chêm vào. “Chúng tôi cũng đã kiểm tra khả năng đó, thưa sếp. Cũng chả tìm thấy gì đáng nghi.”
“Tóm lại là các anh cũng chả biết phải tìm kiếm cái gì nữa đúng không?” Friel cuối cùng cũng đưa ra kết luận.
“Có chứ,” Whitey nói. “Một gã có súng. À, còn có cả gậy nữa.”