Bọn họ làm việc thâu đêm cho tới sáng hôm sau, Sean, Whitey Powers, Souza, Connolly, hai thành viên khác của đội điều tra án mạng bang, Brackett và Rosenthal, cùng một đội cảnh sát, kỹ thuật viên hiện trường, thợ chụp ảnh và nhân viên pháp y – tất cả đều lao vào vụ án này như muốn giải tỏa bí mật trong một két sắt. Họ soi từng chiếc lá trong công viên để tìm chứng cớ. Sổ tay của họ kín đặc những sơ đồ và báo cáo hiện trường. Một nhóm cảnh sát đã tới gõ cửa từng nhà trong phạm vi xung quanh công viên để hỏi thông tin, hốt đầy một xe tải những kẻ lang thang trú ngụ trong công viên và những tòa nhà cháy đen, đổ nát trên phố Sydney. Họ kiểm tra chiếc ba lô tìm thấy trong xe ô tô của Katie Marcus và phát hiện ra một tờ quảng cáo về Las Vegas và một tờ danh bạ điện thoại màu vàng ghi lại các địa chỉ khách sạn ở đây.
Whitey chìa tờ quảng cáo đó cho Sean và huýt sáo. “Đây là cái mà trong nghề chúng ta gọi là dấu vết. Hãy đi nói chuyện với mấy người bạn của nạn nhân xem sao.”
Eve Pigeon và Diane Cestra, có lẽ là hai người tử tế cuối cùng nhìn thấy Katie Marcus còn sống theo lời của cha nạn nhân, trông như vừa bị người ta lấy xẻng đập nhiều nhát vào đầu. Whitey và Sean nhẹ nhàng lấy thông tin giữa những dòng nước mắt không ngừng tuôn rơi trên mặt hai cô gái. Họ cung cấp cho cảnh sát khung thời gian và những hành động của Katie Marcus đêm trước, tên các quán bar họ đã tới cùng với thời gian đến và đi, nhưng khi nhắc tới những chi tiết có tính riêng tư thì cả Sean và Whitey cảm thấy họ vẫn cố giấu giếm, trao đổi những cái nhìn trước khi trả lời, trở nên mập mờ ở những chỗ cần phải rõ ràng.
“Cô ấy có đang hẹn hò với ai không?”
“Không có ai, một cách thường xuyên thì không.”
“Tức là thỉnh thoảng thì có?”
“Thì…”
“Thì sao?”
“Cô ấy thường không cập nhật với chúng tôi về những chuyện kiểu ấy.”
“Diane, Eve, thôi nào. Cô ấy là bạn thân nhất của các cô từ khi còn học mẫu giáo mà lại không tâm sự với các cô về bạn trai của mình?”
“Cô ấy từ trước tới nay vẫn kín đáo như thế.”
“Đúng thế, rất kín đáo. Katie là thế, thưa ngài cảnh sát.”
Whitey lại đổi chiến thuật. “Vậy là đêm qua không có gì đặc biệt? Không xảy ra chuyện gì bất thường?”
“Không có.”
“Thế còn kế hoạch đi khỏi thành phố của cô ấy thì sao?”
“Cái gì cơ? Không.”
“Không ư Diane? Cô ấy để một cái ba lô ở ghế sau. Trong đó có những tờ quảng cáo về Las Vegas. Cô ấy định đưa nó cho ai chăng?”
“Có lẽ thế. Tôi không biết.”
Cha Eve liền chen vào. “Con ơi, nếu con biết gì thì nói ra. Đây là để giúp điều tra về việc Katie bị sát hại.”
Điều đó chỉ khiến cho hai cô gái thổn thức trở lại, mất hết bình tĩnh và bắt đầu ôm nhau khóc, cả người run lên bần bật, miệng há ra, méo xệch trong cơn đau đớn không nói lên thành lời mà Sean đã nhiều lần chứng kiến, đó là khoảng khắc vỡ đê, giống như Martin Friel vẫn thường gọi khi sự vắng mặt vĩnh viễn của nạn nhân thực sự tác động tới người thân của họ. Vào những thời điểm như vậy chúng ta không thể làm gì khác ngoài việc chờ đợi nó trôi qua hoặc bỏ đi.
Họ chờ đợi và quan sát.
Eve Pigeon, hệt tên gọi của mình, trông giống như một con chim, Sean thầm nghĩ[1]. Mặt nhọn, mũi mảnh. Trông cũng không đến nỗi. Sự mảnh mai của cô tạo nên một thứ khí chất duyên dáng, gần như là quý tộc. Sean đoán đây là loại phụ nữ, phù hợp với lễ phục hơn là thường phục, cả người cô toát lên một vẻ đoan trang, sáng suốt mà Sean đoán là chỉ thu hút những người đàn ông nghiêm túc chứ không phải các chàng Romeo lãng mạn hay những gã phong tình.
[1] “Pigeon” trong tiếng Anh có nghĩa là chim bồ câu.
Diane, ngược lại, trông tràn trề nhục dục. Sean nhìn thấy một vết bầm mờ mờ ngay dưới mắt phải cô ta, có vẻ như Diane không sáng dạ như Eve mà thiên về cảm tính, dễ cười dễ khóc hơn. Trong mắt cô ẩn chứa một tia hy vọng yếu ớt, cũng chính là nhược điểm của cô, một thứ trạng thái chơi vơi hiếm khi hấp dẫn đàn ông ngoại trừ những kẻ muốn lợi dụng thể xác. Sean e rằng, trong tương lai, cô sẽ là nhân vật chính của những cuộc gọi tới tổng đài 911 vì bạo hành gia đình nhưng khi cảnh sát tới cửa thì tia hy vọng yếu ớt hẳn đã biến mất từ lâu rồi.
“Eve,” Whitey nhẹ nhàng lên tiếng khi hai cô gái cuối cùng cũng ngừng khóc. “Tôi muốn hỏi cô về Roman Fallow.”
Eve gật đầu như thể đã biết trước câu hỏi nhưng không trả lời ngay lập tức. Cô vừa gặm móng tay vừa nhìn đám vụn bánh mì trên bàn.
“Là cái tên khốn lúc nào cũng kè kè với Bobby O’Donnell á?” cha cô hỏi.
Whitey giơ tay lên ra hiệu cho ông im lặng và nhìn về phía Sean.
“Eve,” Sean lên tiếng, biết là họ cần phải truy hỏi Eve. Tuy cô ta khó đối phó hơn Diane nhưng lại có thể cung cấp những thông tin đáng giá hơn.
Cô nhìn anh.
“Sẽ không có ai tìm đến trả thù các cô cả, nếu đó là lý do khiến các cô sợ hãi. Những gì các cô nói với chúng tôi về Roman Fallow hay Bobby sẽ chỉ có chúng ta biết mà thôi. Không ai biết các cô là người cung cấp.”
“Thế tới khi ra tòa thì sao hả, tới lúc đó thì sao?” Diane nói.
Whitey ném cho Sean một cái nhìn kiểu: cậu cứ tự biên tự diễn đi nhé.
Sean tập trung vào Eve. “Trừ phi các cô thấy tận mắt Roman hay Bobby kéo Katie ra khỏi xe của cô ấy…”
“Không có.”
“Bên công tố sẽ không ép buộc ai trong hai cô phải làm chứng trước tòa, Eve, sẽ không có chuyện đó. Có thể ông ấy sẽ đưa ra rất nhiều câu hỏi nhưng sẽ không hề ép buộc các cô.”
“Anh không biết bọn họ là người thế nào đâu,” Eve nói.
“Bobby và Roman á? Dĩ nhiên là tôi biết. Khi còn làm bên tội phạm ma túy chính tôi đã tống Bobby vào tù chín tháng.” Sean lại gần, đặt tay lên bàn, gần chạm vào tay Eve và nói, “Và hắn cũng đe dọa tôi. Nhưng tất cả những gì hắn ta và Roman biết làm chỉ có vậy – chỉ biết dọa mồm mà thôi.”
Eve nhìn tay Sean, bĩu môi cười nửa miệng vẻ chua xót. “Nói như… cứt,” cô kéo dài giọng nói.
“Con không thể nói với cái giọng đó ở trong cái nhà này.” Bố cô ta chen vào.
“Ông Pigeon,” Whitey lại lên tiếng can ngăn.
“Không được,” Drew nói. “Ở nhà tôi có quy tắc của mình. Tôi không thể để cho con gái mình nói năng như thể…”
“Là Bobby,” Eve nói và Diane khẽ thở hắt ra và nhìn chằm chằm vào bạn mình như thể cô ta bị mất trí.
Sean thấy Whitey nhướng mày vẻ ngạc nhiên.
“Bobby làm sao?” Sean hỏi.
“Là người mà Katie hẹn hò. Bobby chứ không phải Roman.”
“Jimmy có biết chuyện này không?” Drew hỏi con gái mình.
Eve uể oải nhún vai, một động tác mà Sean cho là đặc trưng ở bọn trẻ lứa tuổi đó, một thứ ngôn ngữ cơ thể biểu lộ sự thờ ơ.
“Eve,” Drew nhắc lại. “Jimmy có biết không?”
“Biết mà cũng không biết,” Eve trả lời. Cô ta thở dài, ngửa đầu lên nhìn trần nhà với đôi mắt u tối. “Bố mẹ cô ấy tưởng là chuyện đó đã kết thúc vì chính cô ấy có lúc cũng nghĩ thế. Nhưng người duy nhất không nghĩ vậy chính là Bobby. Hắn ta không thể nào chấp nhận được chuyện đó. Hắn vẫn tiếp tục quay trở lại. Có một đêm hắn còn suýt nữa thả cô ấy rơi từ tầng ba xuống đất.”
“Lần đó cô có nhìn thấy không?” Whitey hỏi.
Cô ta lắc đầu. “Katie kể cho tôi nghe. Hắn bắt gặp cô ấy tại một bữa tiệc cách đây khoảng một tháng hay tháng rưỡi gì đó. Hắn thuyết phục được cô ấy ra ngoài hành lang nói chuyện. Chỉ có điều đó là hành lang tầng ba, các ông hiểu không?” Eve lấy mu bàn tay chùi lên mặt dù bộ dạng của cô lúc đó giống như người đã khóc khô hết cả nước mắt. “Katie kể là cô ấy đã cố gắng giải thích cho hắn rằng họ đã chia tay nhưng Bobby không muốn nghe thấy điều đó và cuối cùng đã nổi điên lên, túm lấy vai cô ấy và nhấc cô ấy ra khỏi chỗ tay vịn ở đầu cầu thang. Hắn ta giữ cô ấy lơ lửng ở đó, ở khúc uốn đầu cầu thang. Trên tầng thứ ba, cái thằng tâm thần ấy. Và rồi hắn nói nếu cô ấy muốn cắt đứt với hắn thì hắn cho cô ấy đứt luôn. Cô ấy vẫn là bạn gái của hắn cho tới khi hắn bảo thôi và nếu như cô ấy không muốn vậy thì hắn sẽ thả cô ấy rơi xuống ngay lập tức.”
“Chúa ơi,” một lúc sau Drew Pigeon thốt lên. “Con quen biết với loại người đó sao?”
“Vậy thì Eve, Roman đã nói gì với cô ấy trong quán bar tối thứ Bảy?” Whitey hỏi.
Nhưng Eve chỉ im lặng.
“Thì Diane vậy, cô nói xem?”
Diane trông như đang khát nước. “Chúng tôi nói hết với Val là được rồi.”
“Val?” Whitey hỏi. “Val Savage á?”
“Ông ấy tới đây lúc chiều.” Diane trả lời.
“Và cô cho ông ta biết Roman nói gì nhưng nhất định không nói với chúng tôi?”
“Vì ông ấy là người thân của Kaite,” Diane nói rồi khoanh tay trước ngực làm ra vẻ mặt chống đối cảnh sát.
“Để tôi nói cho các ông nghe,” Eve lên tiếng. “Lạy Chúa tôi. Hắn bảo là hắn nghe nói chúng tôi say xỉn và tự biến mình thành trò cười cho thiên hạ và hắn không muốn nghe thấy người ta nói vậy nữa và Bobby hẳn cũng không thích thế và có lẽ chúng tôi nên trở về nhà.”
“Nên các cô bỏ đi.”
“Ông đã bao giờ nói chuyện với Roman chưa? Hắn ta có cái kiểu hỏi mà như dọa người ta.”
“Tất cả chỉ có thế?” Whitey hỏi. “Các cô không thấy hắn đi theo ra ngoài quán bar hay có hành động gì đó?”
Eve lắc đầu. Họ nhìn sang Diane nhưng cô chỉ nhún vai bảo, “Lúc đó chúng tôi cũng khá say rồi.”
“Các cô không còn tiếp xúc với hắn lần nào nữa kể từ đó? Có ai trong số hai cô gặp lại hắn đêm ấy không?”
“Katie lái xe đưa chúng tôi về nhà tôi,” Eve nói. “Cô ấy thả chúng tôi xuống rồi lái xe đi. Đó là lần cuối cùng chúng tôi nhìn thấy cô ấy.” Nói tới những từ cuối, giọng cô khẽ chùng xuống, hai tay ôm siết lấy mặt, đầu lại ngửa ra nhìn lên trần nhà, cố gắng hít thở thật sâu.
“Cô ấy định tới Las Vegas với ai? Với Bobby ư?” Sean hỏi.
Eve nhìn trần nhà một lúc, hơi thở loãng dần. “Không phải là Bobby,” cuối cùng cô cũng chịu lên tiếng.
“Vậy là ai, Eve?” Sean nhắc lại. “Vậy cô ấy định đi Las Vegas với ai?”
“Brendan.”
“Brendan Harris?” Whitey hỏi.
“Brendan Harris, đúng vậy.”
Whitey và Sean nhìn nhau.
“Thằng bé nhà Ray á?” Drew Pigeon hỏi. “Thằng bé có đứa em câm á?”
Eve gật đầu và Drew quay sang nhìn Sean và Whitey bảo, “Một thằng bé ngoan. Vô hại.”
Sean gật đầu. Vô hại. Hẳn rồi.
“Cô có địa chỉ của cậu ta không?” Whitey hỏi.
Ở nhà Brendan Harris không có ai nên Sean gọi điện về đồn cảnh sát cử hai người tới trực ở đó.
Sau đó họ tới nhà bà Prior, uống trà, ăn bánh ga tô cà phê đã hơi hôi, xem phim Chạm cánh thiên thần với âm thanh bật to tới mức một tiếng sau trong đầu Sean vẫn ong ong những lời Della Reese gào rú về Chúa và sự cứu rỗi.
Bà Prior kể rằng vào lúc một rưỡi sáng bà nhìn ra ngoài cửa sổ và thấy hai đứa trẻ đang chơi trên phố, hai đứa trẻ con, ở ngoài đường vào giờ đó, ném ống bơ, đấu kiếm bằng gậy khúc côn cầu, nói chuyện với nhau bằng một thứ ngôn ngữ đầu đường xó chợ. Bà định khuyên bảo chúng một chút nhưng nghĩ lại những bà già nhỏ bé như mình nên cẩn thận thì hơn. Bọn trẻ con ngày nay điên hết cả, bắn nhau ở trường học, lại toàn chửi tục nói bậy. Với lại hai đứa trẻ con kia cuối cùng cũng chạy đuổi nhau về cuối phố và trở thành nỗi phiền toái cho người khác. Nhưng cách cư xử của bọn trẻ ngày nay, nói gì thì nói, không phải là rất khó chấp nhận sao?
“Sĩ quan Medeiros nói với chúng tôi là bà nghe thấy tiếng xe ô tô vào khoảng một giờ bốn lăm phút,” Whitey nói.
Bà Prior còn đang bận xem Della giải thích cho Roma Downey về con đường của Chúa, Roma trông vô cùng trang nghiêm, hai mắt ngây ngốc chỉ toàn là hình ảnh của Chúa. Bà Prior gật gù nhiều lần với chiếc vô tuyến rồi quay sang nhìn Whitey và Sean.
“Tôi nghe thấy tiếng xe ô tô đâm vào cái gì đó.”
“Đâm vào cái gì cơ?”
“Với cái cách mà người ta lái xe ngày hôm nay tôi thấy thật may phước là mình không còn bằng lái nữa. Tôi rất sợ phải lái xe trên những đường phố như thế này.”
“Đúng thế thưa bà,” Sean nói. “Có phải âm thanh đó giống như hai chiếc xe đụng nhau không?”
“Ồ không.”
“Hay đụng phải một người?” Whitey nói.
“Ôi Chúa ơi, đụng phải một người, cái âm thanh đó nghe như thế nào? Tôi thậm chí còn chẳng muốn biết nữa.”
“Vậy đó không phải là một tiếng động thực sự, thực sự lớn?” Whitey hỏi.
“Xin lỗi anh bạn nói gì cơ?”
Whitey cúi xuống và nhắc lại.
“Không,” bà Prior trả lời. “Nó giống như là đâm vào một tảng đá hay đâm lên vỉa hè vậy. Và rồi nó bị chết máy và ai đó nói, ‘Xin chào.’ “
“Ai đó nói ‘Xin chào’ ư?”
“Xin chào.” Bà Prior nhìn Sean và gật đầu. “Và rồi một bộ phận nào đó của chiếc xe bị vỡ, kêu rắc một tiếng.”
Sean và Whitey nhìn nhau.
“Kêu rắc một tiếng?” Whitey hỏi.
Bà Prior gật đầu. “Khi ông Leo nhà tôi còn sống, ông ấy làm gãy trục chiếc xe Plymouth của chúng tôi khiến nó kêu rắc một cái. Giống y thế, rắc!” Mắt bà sáng rực lên. “Rắc, rắc!” Bà nhắc lại.
“Và đó là tiếng động bà nghe thấy sau khi có ai đó nói ‘Xin chào’?”
Bà Prior lại gật đầu. “Xin chào và rắc!”
“Và rồi bà nhìn ra ngoài cửa sổ và thấy gì?”
“Ôi không không,” bà Prior nói. “Tôi không có nhìn ra ngoài của sổ. Lúc đó tôi đang mặc váy ngủ. Tôi đang ở trên giường. Tôi không nhìn ra ngoài cửa sổ lúc đang mặc váy ngủ. Người khác có thể sẽ thấy.”
“Nhưng mười lăm phút trước, bà…”
“Chàng hai, mười lăm phút trước tôi chưa thay váy ngủ. Tôi vừa mới xem vô tuyến xong, một bộ phim tuyệt vời với Glenn Ford, ôi giá như tôi có thể nhớ tên nó là gì.”
“Vậy là bà tắt vô tuyến…”
“Và tôi nhìn thấy những đứa trẻ không mẹ kia trên phố và lên gác thay váy ngủ rồi thưa ngài trẻ tuổi tôi kéo rèm cửa sổ xuống.”
“Cái giọng nói ‘Xin chào’ là giọng nam hay giọng nữ?” Whitey hỏi.
“Là giọng nữ, tôi nghĩ vậy,” bà Prior nói. “Đó là một giọng cao. Không giống ai trong các anh,” bà nói giọng vui vẻ. “Hai anh đều có giọng nói rất nam tính. Mẹ các anh hẳn hãnh diện lắm.”
“Vâng, đúng vậy đấy ạ, nói ra chắc bà cũng không tin.” Whitey trả lời.
Rời khỏi nhà bà Prior, Sean không khỏi kêu lên, “Đúng là rắc một cái.”
Whitey mỉm cười. “Bà ấy rất thích nói vậy, cậu thấy không? Bà già này vẫn vui tính ra phết.”
“Ông cho là tiếng trục xe gãy hay là tiếng súng?”
“Là tiếng súng,” Whitey trả lời. “Tôi là tôi chú ý tới cái câu ‘Xin chào’ cơ.”
“Có thể cho thấy cô ấy quen biết với người bắn cô ấy nên mới chào hỏi hắn.”
“Cũng có thể là thế. Nhưng cũng không dám đảm bảo.”
Sau đó họ tới thẩm tra các quán bar nhưng chẳng thu hoạch được gì ngoài những câu trả lời mơ hồ kiểu có thể đã nhìn thấy các cô gái đó, có thể không và danh sách một số khách hàng đáng nghi xuất hiện trong quán bar cùng thời điểm với các cô gái.
Tới quán McGills thì Whitey bắt đầu nổi nóng.
“Hai cô gái trẻ, rất trẻ, thực tế là còn chưa đủ tuổi nhảy lên quầy quán bar ở ngay chỗ này và nhảy nhót mà anh lại dám bảo tôi là anh không nhớ được?”
Người pha chế rượu tại quầy bar đã vội gật đầu trước khi Whitey kịp kết thúc câu hỏi của mình. “À những cô gái đó chứ gì. Được rồi, được rồi. Tôi có nhớ họ. Nhớ chứ. Hẳn họ dùng chứng minh thư giả, thưa thanh tra, vì chúng tôi yêu cầu họ xuất trình mà.”
“Là trung sĩ,” Whitey nói. “Lúc đầu thì anh gần như không nhớ gì về họ mà giờ anh còn nhớ tới cả việc kiểm tra chứng minh của họ. Thế anh có thể nhớ họ rời quán lúc mấy giờ không? Hay cũng lại lờ mờ nốt?”
Gã pha chế rượu, một anh chàng trẻ tuổi với hai bắp tay to tới mức có nguy cơ chặn mất đường máu chảy lên não, hỏi lại, “Rời đi á?”
“Cả thời điểm lúc họ xuất hiện nữa.”
“Tôi không…”
“Ngay trước khi Crosby làm vỡ cái đồng hồ,” một anh chàng đang ngồi trên ghế đẩu nói.
Sean liếc nhìn anh ta, hẳn là một khách hàng quen, trước mặt là tờ Herald mở rộng, một chai Budweiser, một ly whisky cùng một điếu thuốc đang dụi trong gạt tàn.
“Anh cũng có mặt ở đó à?” Sean hỏi.
“Tôi cũng ở đó. Tên khốn Crosby muốn lái xe về nhà. Mấy người bạn của hắn cố giật lấy chìa khóa của hắn. Thằng ngu đó liền ném chìa khóa vào họ. Nhưng ném trượt. Trúng cái đồng hồ kia.”
Sean nhìn lên chiếc đồng hồ treo trên khung cửa dẫn vào bếp. Mặt kính đồng hồ nứt thành hình mạng nhện và kim đồng hồ dừng ở 12 giờ 52.
“Họ đã rời khỏi trước đó?” Whitey hỏi lại vị khách quen kia. “Các cô gái ấy?”
“Khoảng năm phút trước đó. Chùm chìa khóa đập vào cái đồng hồ và tôi nghĩ, may là các cô gái đó không còn ở đây. Họ không cần phải chứng kiến cảnh tượng tồi tệ này.”
Trong xe ô tô, Whitey bảo Sean, “Cậu đã có được các mốc thời gian?”
Sean gật đầu, giở lại các ghi chép của mình. “Họ rời quán Curley’s Folly lúc chín rưỡi, sau đó tới Banshee, Dick Doyle’s Pub và Spire nhưng đều không ở lại lâu, kết thúc ở McGills vào khoảng mười một rưỡi và có mặt ở Last Drop vào một giờ mười.”
“Và khoảng nửa tiếng sau thì đâm xe.”
Sean gật đầu.
“Cậu có thấy trong danh sách của gã pha chế rượu có cái tên nào quen không?”
Sean nhìn xuống danh sách khách hàng tối thứ Bảy ờ quán McGills viết nguệch ngoạc trên một mẩu giấy.
“Dave Boyle,” anh nói to khi nhìn thấy cái tên này.
“Chính là anh chàng bạn bè với cậu hồi nhỏ?”
“Có thể,” Sean đáp.
“Có lẽ chúng ta nên nói chuyện với anh ta,” Whitey nói. “Anh ta nghĩ cậu là bạn nên sẽ không xem chúng ta là cảnh sát, dễ dàng mở miệng hơn.”
“Chắc thế.”
“Cho anh ta vào danh sách ngày mai đi.”
Họ tìm thấy Roman Fallow đang thong thả uống cà phê sữa tại quán Café Society ở khu Thượng. Ngồi với hắn là một người phụ nữ trông giống như người mẫu, đầu gối và gò má nhọn hoắt, mắt hơi lồi ra vì da mặt quá căng, như chỉ có da bọc lấy xương. Cô ta mặc một chiếc váy hai dây mùa hè màu trắng đục khá đẹp mắt khiến cô ta trông vừa gầy trơ xương lại vừa rất gợi tình, có lẽ là nhờ làn da hoàn hảo màu ngọc trai của mình.
Roman mặc một chiếc áo chui cổ bằng lụa cho trong quần vải lanh có là li cẩn thận giống như vừa bước ra khỏi trường quay của một trong những bộ phim cũ của hãng RKO ở Havana hay Key West. Hắn vừa thong thả uống cà phê vừa đọc báo, Roman thì đọc trang kinh doanh còn cô bạn gái người mẫu của hắn thì lướt qua mục thời trang.
Whitey kéo một chiếc ghế tới trước mặt họ và nói.
“Này, Roman, ở chỗ cậu mua cái áo này người ta có bán đồ cho đàn ông không vậy?”
Roman vẫn không rời mắt khỏi tờ báo, miệng chậm rãi nhai một mẩu bánh sừng bò. “Trung sĩ Powers dạo này thế nào? Cái xe Huyndai của ông vẫn chạy tốt chứ?”
Whitey cười khẽ rồi cùng Sean ngồi xuống bên cạnh hắn. “Nhìn thấy cậu ở chỗ này, Roman, thề là giống y như một thanh niên trí thức thời thượng, sẵn sàng thức dậy vào buổi sáng để làm việc, tiến hành các giao dịch chứng khoán trên máy tính iMac.”
“Tôi dùng máy tính PC, trung sĩ.” Roman khép tờ báo lại và đưa mắt nhìn Whitey và Sean. “Ôi xin chào,” hắn nói với Sean. “Tôi đã nhìn thấy anh ở đâu rồi thì phải.”
“Sean Devine, cảnh sát bang.”
“Đúng vậy, đúng vậy,” Roman nói. “Chính thế, giờ thì tôi nhớ ra rồi. Nhìn thấy anh một lần ở trước tòa làm chứng chống lại một người bạn của tôi. Bộ vest của anh đẹp đấy. Đồ ở Sears dạo này trông cũng khá khẩm ra phết nhỉ? Càng ngày càng sành điệu.”
Whitey liếc nhìn cô người mẫu. “Cô muốn dùng một suất beefsteak hay cái gì đó không, người đẹp?”
“Gì cơ?” Cô người mẫu hỏi lại.
“Có lẽ thêm ít đường glucose vào bình truyền đạm? Tôi mời.”
“Đừng làm thế. Đây là chuyện giữa hai chúng ta phải không? Vậy đừng kéo người khác vào,” Roman nói.
“Roman, em không hiểu,” cô người mẫu nói.
Roman mỉm cười. “Không sao, Michaela. Đừng để ý tới bọn anh.”
“Michaela,” Whitey nói. “Tên rất hay.”
Michaela vẫn dán mắt vào tờ báo.
“Cơn gió nào đã mang ông tới đây, trung sĩ?”
“Bánh mì tròn,” Whitey nói. “Tôi rất thích bánh mì tròn ở quán này. Và tiện thể, anh có biết một phụ nữ tên là Katherine Marcus không hả Roman?”
“Tất nhiên là có biết.” Roman nhấp một ngụm cà phê sữa, lấy khăn ăn khẽ chùi miệng rồi trải nó lại trên đùi. “Nghe nói người ta vừa tìm thấy xác cô ấy chiều nay.”
“Đúng thế,” Whitey nói.
“Xảy ra những chuyện như thế chỉ làm địa phương mang tiếng xấu.”
Whitey không nói gì chỉ khoanh tay trước ngực nhìn Roman chòng chọc.
Roman lại thản nhiên nhai một miếng bánh khác, nhấp một ngụm cà phê. Hắn ngồi vắt chéo chân, tay cầm khăn ăn chấm chấm lên miệng và nhìn lại Whitey một lúc. Đây là một trong những chi tiết mà Sean bắt đầu cảm thấy chán ghét nhất trong công việc của mình, những cuộc đấu trí thô thiển kiểu này, chờ xem ai là người chớp mắt trước, không ai chịu nhường ai.
“Đúng thế, trung sĩ. Tôi có biết Katherine Marcus. Đó không phải là lý do ông tới đây tìm tôi sao?” Roman nói.
Whitey nhún vai.
“Tôi có biết cô ta và có nhìn thấy cô ta ở quán bar đêm qua.”
“Và cậu còn trao đổi với cô ấy vài lời,” Whitey nói.
“Đúng vậy,” Roman nói.
“Cậu nói gì với cô ấy?” Sean hỏi.
Roman vẫn không rời mắt khỏi Whitey như thể không còn quan tâm tới sự hiện diện của Sean nữa.
“Cô ấy đang hẹn hò với một người bạn của tôi. Cô ấy đã uống say. Tôi bảo cô ấy đang biến mình thành trò cười cho thiên hạ và khuyên cô ấy và hai người bạn nên về nhà.”
“Người bạn đó của anh là ai?” Whitey hỏi.
“Thôi nào, trung sĩ. Ông biết thừa là ai rồi còn hỏi.” Roman cười.
“Anh cứ nói ra thì hơn.”
“Bobby O’Donnell,” Roman trả lời. “Ông hài lòng rồi chứ? Cô ấy đang hẹn hò với Bobby.”
“Đang hẹn hò á?”
“Xin lỗi, ý ông là?”
“Đang hẹn hò. Hiện tại, cô ấy đang hẹn hò với hắn? Hay là cô ấy đã từng hẹn hò với hắn trước đây?” Whitey nhắc lại.
Whitey ghi nguệch ngoạc vào sổ tay và nói, “Nghe hoàn toàn trái ngược với thông tin mà chúng tôi có được, Roman.”
“Vậy sao?”
“Đúng thế. Nghe nói cô ấy đã bỏ tên khốn ấy được bảy tháng rồi nhưng hắn nhất định không chấp nhận chuyện đó.”
“Ông biết phụ nữ mà trung sĩ,” Roman nói.
Whitey lắc đầu, nói. “Không, tôi chả biết gì, Roman. Cậu giải thích cho tôi xem nào.”
“Cô ấy và Bobby lúc nóng lúc lạnh. Phút trước Bobby là tình yêu của cuộc đời cô ấy, phút sau thì đã bị cô ấy cho leo cây.” Roman gập tờ báo lại.
“Bị leo cây,” Whitey nói với Sean. “Nghe có giống như Bobby O’Donnell không vậy?”
“Chả giống tẹo nào.”
“Chả giống tẹo nào,” Whitey nói với Roman.
Roman nhún vai. “Tôi chỉ nói với ông những gì tôi biết. Thế thôi.”
“Cũng đúng.” Whitey lại ghi chép gì đó vào sổ. “Roman, cậu đã đi đâu đêm qua sau khi rời khỏi quán Last Drop?”
“Chúng tôi tới dự tiệc tại căn hộ gác mái của một người bạn ở trung tâm.”
“Ái chà, một căn hộ gác mái,” Whitey nói. “Tôi vẫn luôn thích tới một trong những chỗ như vậy. Các nhà thiết kế thời trang, ma túy, người mẫu, những gã da trắng nghe nhạc rap và tự vỗ ngực về chất ‘đường phố’ của mình. Nói ‘chúng tôi’ nghĩa là cậu muốn ám chỉ cậu và cô Ally McBeal[2] đang ngồi đây?”
[2] Nhân vật nữ chính trong bộ phim truyền hình nhiều tập cùng tên.
“Cô ấy là Michaela,” Roman nói. “Đúng vậy. Michaela Davenport nếu ông muốn ghi lại tên họ đầy đủ.”
“Ừ, để tôi ghi lại,” Whitey nói. “Nhưng đây có phải là tên thật của cô không, người đẹp?”
“Gì cơ?”
“Tên thật của cô,” Whitey nhắc lại, “có phải là Michaela Davenport không?”
“Đúng thế.” Đôi mắt của cô ta như lại lồi ra thêm chút nữa. “Tại sao?”
“Mẹ cô chắc xem quá nhiều phim truyền hình dài tập trước khi sinh ra cô?”
“Roman,” Michaela cầu cứu bạn trai mình.
Roman giơ một tay lên nhìn Whitey và bảo, “Tôi đã nói gì về việc đây chỉ là chuyện giữa hai chúng ta? Ông không nhớ hả?”
“Cậu đang mếch lòng hả Roman? Cậu định diễn giống như Christopher Walken trước mặt tôi sao, muốn gây ấn tượng à? Đó là ý định của cậu sao? Bởi vì chúng ta có thể đi một vòng cho tới khi chứng minh được rõ ràng bằng chứng ngoại phạm của cậu. Chúng tôi hoàn toàn có thể làm vậy. Cậu có kế hoạch gì cho ngày mai chưa?”
Roman quay trở về vị trí mà Sean vẫn thấy phần lớn những kẻ phạm tội lâm phải khi bị cảnh sát chèn ép – một sự rút lui toàn diện, giống như rùa rụt cổ, nín thở, giương mắt ra nhìn, ánh mắt đen tối, đờ đẫn và rúm ró.
“Tôi không có ý đó, trung sĩ,” Roman nói, giọng không có chút cảm xúc nào. “Tôi rất sẵn lòng cung cấp cho ông tên của tất cả những người đã nhìn thấy tôi tại bữa tiệc đó. Và tôi cũng chắc rằng người pha chế rượu ở Last Drop, Todd Lane, sẽ xác nhận việc tôi đã không rời chỗ đó trước hai giờ sáng.”
“Cậu bé ngoan, thế chứ,” Whitey nói. “Giờ thì nói cho chúng tôi biết về anh bạn Bobby của cậu? Chúng tôi có thể tìm thấy hắn ở đâu?”
Roman tự thưởng cho mình một nụ cười rõ tươi.
“Có chuyện này hẳn các người sẽ rất khoái.”
“Chuyện gì cơ hả Roman?”
“Nếu các người liên hệ Bobby với cái chết của Katherine Marcus thì các người hẳn sẽ rất thích nghe chuyện này.”
Roman ném một cái nhìn đắc thắng về phía Sean và anh cảm thấy sự phấn khích của mình sau khi nghe Eve Pigeon nhắc tới Roman và Bobby chớm tiêu tan.
“Bobby, Bobby, Bobby,” Roman thở dài và nháy mắt với bạn gái trước khi quay ra nói chuyện tiếp với Sean và Whitey. “Bobby đã bị bắt từ tối thứ Sáu vì tội lái xe trong khi say rượu.” Roman dừng lại, nhẩn nha nhấp một ngụm cà phê, cố tình nhả ra từng chữ. “Cậu ấy bị giam suốt mấy ngày cuối tuần, trung sĩ.” Hắn dùng ngón tay ngoặc đi ngoặc lại giữa hai người bọn họ. “Các ông không kiểm tra trước chuyện này sao?”
Lúc nhận được bộ đàm thông báo Brendan Harris cùng mẹ cậu ta đã trở về căn hộ của mình thì Sean bắt đầu ngấm mệt, xương cốt mỏi nhừ. Sean và Whitey có mặt ở đó lúc mười một giờ, ngồi trong bếp nói chuyện với Brendan và mẹ cậu ta, Esther. May mà bây giờ người ta không còn xây dựng những căn hộ kiểu này nữa, Sean vừa quan sát xung quanh vừa nghĩ. Trông nó giống hệt như căn hộ trong một bộ phim truyền hình cổ lỗ sĩ – hình như là phim Uyên ương trăng mật – chỉ xem được đen trắng trên một chiếc màn hình mười ba inch mờ nhạt, âm thanh giật cục. Đó là một căn hộ được bố trí theo chiều dọc, cửa ra vào đặt chình ình ở giữa, ra khỏi cầu thang là đâm ngay vào phòng khách. Bên phải phòng khách là một phòng ăn nhỏ mà Esther Harris dùng làm phòng ngủ, chiếc tủ bếp tồi tàn, nứt nẻ biến thành chỗ chứa các thể loại bàn chải, lược và đồ mỹ phẩm. Kế đó là phòng của Brendan và em trai cậu ta, Raymond.
Nằm bên trái phòng khách là một hành lang ngắn với một phòng tắm lệch về bên phải và sau đó là bếp, khuất trong một góc chỉ nhận được ánh sáng mặt trời tổng cộng bốn mươi lăm phút một ngày vào lúc chiều tà. Căn bếp có giấy dán tường màu xanh lá cây đã phai và màu vàng ố dầu mỡ. Sean, Whitey, Brendan và Esther ngồi quanh một chiếc bàn nhỏ, chân sắt đã mất gần hết đinh vít. Mặt bàn dán giấy hoa màu vàng và xanh đã quăn lên ở mép và ở giữa xuất hiện nhiều vết tróc to bằng đầu ngón tay.
Trông Esther rất hợp với quang cảnh nơi này. Đó là một phụ nữ nhỏ bé, mặt mũi gai góc, có thể là bốn mươi cũng có thể là năm mươi lăm. Người bà ta toát ra mùi xà phòng rẻ tiền và mùi thuốc lá. Tóc bà ta màu xanh xám, giống hệt như những mạch máu màu xanh xám trên cánh tay và bàn tay. Bà ta mặc một chiếc áo nỉ hồng đã bạc màu, quần jean và dép đi trong nhà màu đen xù xì. Bà ta không ngừng hút hết điếu thuốc hiệu Parliament này tới điếu khác trong khi quan sát Sean và Whitey nói chuyện với con trai mình như thể đang phải chịu trận nhưng không có chỗ nào khác để đi.
“Lần cuối cậu nhìn thấy Katie Marcus là khi nào?” Whitey hỏi Brendan.
“Bobby đã giết cô ấy phải không?” Brendan hỏi.
“Bobby O’Donnell á?” Whitey nói.
“Vâng.” Brendan cạo cạo lên mặt bàn. Cậu ta có vẻ choáng váng. Giọng nói của cậu vẫn đều đều nhưng đôi khi cậu đột nhiên hít thở một cách khó nhọc, mặt bên phải co giật như thể bị ai đó đâm vào mắt.
“Sao cậu lại nói thế?” Sean hỏi.
“Cô ấy rất sợ hắn. Cô ấy đã từng hẹn hò với hắn và lúc nào cũng bảo là nếu hắn phát hiện ra chuyện của hai chúng tôi thì hắn sẽ giết cả hai.”
Sean liếc nhìn sang bà mẹ, đoán là bà ta sẽ có phản ứng gì đó nhưng bà ta chỉ tiếp tục hút thuốc, nhả ra một hơi dài, phủ lên mặt bàn một lớp khói màu xám.
“Có vẻ như Bobby có bằng chứng ngoại phạm,” Whitey nói. “Còn cậu thì sao, Brendan?”
“Tôi không giết cô ấy,” Brendan Harris đờ đẫn nói, “Tôi sẽ không bao giờ làm thương tổn Katie. Không bao giờ.”
“Vậy, tôi hỏi lại,” Whitey nói, “lần cuối cùng cậu nhìn thấy cô ấy là khi nào?”
“Tối thứ Sáu.”
“Lúc mấy giờ?”
“Khoảng tám giờ gì đó.”
“‘Khoảng tám giờ gì đó,’ Brendan, hay là vào lúc tám giờ?”
“Tôi không biết nữa.” Mặt Brendan biến dạng vì lo lắng, Sean có thể cảm thấy áp lực của nó đè nặng lên chiếc bàn giữa bọn họ. Cậu ta lồng hai tay vào nhau, siết chặt, người khẽ đong đưa trên ghế. “Đúng thế, vào lúc tám giờ. Chúng tôi ăn vài miếng pizza tại nhà hàng Hi Fi, được chưa? Và rồi… rồi cô ấy phải đi.”
Whitey ghi lại “Hi Fi, tám giờ tối thứ Sáu” trong sổ của mình. “Cô ấy phải đi đâu?”
“Tôi không biết,” Brendan nói.
Bà mẹ lại dụi một điếu thuốc hút hết vào đám tàn tro cao ngất, khiến một đầu thuốc cũ khẽ cháy lên, phụt một luồng khói đen chui thẳng vào bên mũi phải của Sean. Esther Harris lập tức châm ngay một điếu thuốc mới và Sean hình dung ra hai lá phổi của bà ta, thủng lỗ chỗ và đen như mun.
“Brendan, cậu bao nhiêu tuổi rồi?”
“Mười chín.”
“Cậu tốt nghiệp cấp ba khi nào?”
“Đã tốt nghiệp,” Esther nói.
“À, tôi đã có bằng tốt nghiệp từ xa vào năm ngoái.”
“Vậy Brendan,” Whitey nói, “cậu không hề biết Katie đi đâu tối thứ Sáu sau khi chia tay với cậu ở quán Hi Fi?”
“Không,” Brendan đáp, giọng bắt đầu nghẹn lại, mắt đỏ hoe. “Cô ấy từng hẹn hò với Bobby và hắn ta lúc nào cũng điên điên khùng khùng vì cô ấy. Lại thêm bố cô ấy không hiểu sao rất ghét tôi thế nên hai chúng tôi buộc phải giữ kín chuyện của mình. Đôi khi cô ấy không nói với tôi cô ấy đi đâu vì có thể phải đi gặp Bobby, tôi đoán vậy để cố thuyết phục hắn rằng mọi chuyện đã chấm dứt. Tôi cũng không biết nữa. Còn đêm đó cô ấy chỉ nói là cô ấy sẽ đi về nhà.”
“Jimmy Marcus không thích cậu? Tại sao?” Sean hỏi.
Brendan nhún vai. “Tôi cũng không biết nữa. Nhưng ông ấy bảo với Katie là ông ấy không bao giờ muốn cô ấy hẹn hò với tôi.”
Bà mẹ lúc này mới lên tiếng, “Cái gì cơ? Cái thằng ăn cắp ấy cho rằng hắn thì tốt đẹp hơn nhà này sao?”
“Ông ấy không phải là kẻ cắp,” Brendan nói.
“Hắn từng là kẻ cắp,” mẹ cậu nói. “Con không biết chuyện đó sao, tú tài đào tạo từ xa? Trước đây hắn chỉ là một thằng ăn trộm cặn bã. Con gái hắn có thể cũng thừa hưởng cái gien xấu đó. Con bé có thể cũng xấu xa như cha nó. Coi như là con gặp may đi, con trai.”
Sean và Whitey trao đổi nhau những cái nhìn. Esther Harris đúng là người phụ nữ thảm hại nhất mà Sean từng gặp. Một người phụ nữ độc ác, nhẫn tâm.
Brendan Harris mở miệng định nói gì đó với mẹ mình nhưng lại nhanh chóng ngậm lại.
“Katie có mấy tờ quảng cáo về Las Vegas cất trong ba lô. Nghe nói cô ấy định tới đó. Với cậu, Brendan.”
“Chúng tôi…” Brendan cúi đầu xuống. “Chúng tôi, đúng, chúng tôi định tới Vegas. Chúng tôi sẽ kết hôn. Vào ngày hôm nay.” Cậu ta ngẩng mặt lên và Sean nhìn thấy những giọt nước mắt vừa vỡ trên mi mắt mọng đỏ của cậu. Brendan lấy tay gạt đi những dòng nước mắt trước khi chúng kịp rơi xuống. “Đã định là như thế.”
“Mày định bỏ tao đi sao?” Esther Harris lên tiếng. “Bỏ đi không nói một lời.”
“Mẹ, con…”
“Y như bố mày? Phải không? Bỏ tao lại với em trai mày mà không thèm nói lấy một lời? Đó chính là điều mày định làm đấy hả Brendan?”
“Bà Harris,” Sean chen vào, “xin chỉ tập trung vào vấn đề trước mắt. Còn nhiều thời gian để Brendan giải thích với bà sau.”
Bà ta ném cho Sean một cái nhìn mà anh thường thấy ở những tội phạm rắn mặt và những kẻ bị bệnh biến thái, một cái nhìn cho biết lúc này bà ta không thèm để ý tới anh, nhưng nếu anh tiếp tục thúc ép thì bà ta sẽ ra tay ác độc.
Bà ta quay lại nhìn con trai mình và bảo, “Mày sẽ làm thế với tao hả?”
“Mẹ, nghe này…”
“Nghe cái gì? Nghe cái gì hử? Tao đã làm gì xấu nào? Hả? Tao đã làm gì ngoài việc nuôi nấng mày, cho mày ăn, mua cho mày cái kèn saxophone đó làm quà Giáng sinh nhưng mày chả bao giờ chịu học để chơi nhạc? Nó vẫn nằm ở trong tủ đấy Brendan.”
“Mẹ…”
“Không gì cả, đi lấy nó lại đây. Hãy để cho những người này nhìn thấy mày chơi hay thế nào. Đi lấy nó lại đây.”
Whitey nhìn Sean như không tin vào mắt mình.
“Bà Harris,” ông ta nói, “không cần thiết phải làm thế.”
Bà ta châm một điếu thuốc khác, đầu diêm lóe lên như cơn giận của bà ta. “Tất cả những gì tôi đã làm là cho nó ăn, cho nó mặc, nuôi nó lớn lên.”
“Vâng, thưa bà,” Whitey lên tiếng đúng lúc cửa trước bật mở và hai đứa trẻ bước vào, ván trượt kẹp dưới nách, cả hai đứa khoảng mười hai, có lẽ mười ba tuổi, một đứa trông giống hệt như Brendan – thằng bé cũng giống anh mình ở vẻ điển trai và mái tóc màu sẫm nhưng lại có nét gì đó của bà mẹ trong đôi mắt giảo hoạt, quỷ dị.
“Xin chào,” thằng bé đi cùng lên tiếng khi cả hai đứa tiến vào bếp. Giống như em trai của Brendan, nó có vẻ hơi nhỏ so với tuổi của mình lại không may mắn có một khuôn mặt vừa dài vừa hốc hác, khuôn mặt của một người già cáu bẩn trên cơ thể một đứa trẻ con, nhô ra dưới những sợi tớc dài màu vàng bết lại.
Brendan Harris giơ tay lên chào lại. “Xin chào, Johnny. Trung sĩ Powers, nhân viên điều tra Devine, đây là em trai tôi, Ray, và bạn của nó Johnny O’Shea.”
“Xin chào các cậu bé.” Whitey nói.
“Xin chào.” Johnny O’Shea đáp lại.
Ray cũng gật đầu chào họ.
“Nó không biết nói,” bà mẹ bảo. “Bố nó thì không thể nào ngậm miệng lại được còn con trai lại không biết nói. Cuộc đời mới công bằng làm sao, mẹ kiếp.”
Ray dùng tay ra hiệu gì đó với Brendan và Brendain bảo, “Đúng vậy, họ tới đây vì Katie.”
“Bọn cháu tới công viên trượt ván nhưng họ đóng của công viên,” Johnny O’Shea nói.
“Ngày mai công viên sẽ mở cửa,” Whitey nói.
“Ngày mai dự báo trời mưa,” thằng bé trả lời như thể việc nó không thể trượt ván lúc mười một giờ đêm là lỗi của họ, khiến Sean không khỏi thắc mắc từ khi nào cha mẹ lại buông lỏng con cái của họ đến thế.
Whitey quay trở lại với Brendan. “Cậu có nghĩ tới kẻ thù nào khác của cô ấy không? Bất cứ người nào, ngoài Bobby O’Donnell ra có ai có thể nổi giận với cô ấy không?”
Brendan lắc đầu. “Cô ấy là người tốt. Một người tử tế, rất tử tế. Ai cũng quý cô ấy. Tôi không biết phải nói với ông thế nào nữa.”
“Chúng cháu có thể, có thể, đi được không?” Thằng bé nhà O’Shea hỏi.
Whitey nhướng một bên mày bảo nó. “Có ai bảo là cháu không được đi đâu?”
Nghe thế, Johnny O’Shea và Ray Harris lục tục rời khỏi bếp. Họ nghe thấy tiếng chúng thảy hai tấm ván trượt xuống phòng khách rồi tới phòng của Ray và Brendan, đùa nghịch ầm ĩ như những đứa trẻ ở tuổi của chúng.
Whitey lại hỏi Brendan. “Cậu ở đâu từ một giờ rưỡi tới ba giờ sáng ngày hôm đó?”
“Ngủ.”
Whitey nhìn sang bà mẹ. “Bà có thể xác nhận điều đó?”
Bà ta nhún vai. “Không xác nhận được nếu như nó trèo ra ngoài qua cửa sổ hay lối thoát hiểm chữa cháy. Tôi chỉ có thể xác nhận là nó đi về phòng mình vào lúc mười giờ và lần sau đó tôi thấy nó là chín giờ sáng hôm sau.”
Whitey ngồi duỗi dài trên ghế. “Thôi được rồi, Brendan. Chúng tôi muốn cậu làm trắc nghiệm với máy phát hiện nói dối. Cậu có đồng ý không?”
“Các ông định bắt tôi sao?”
“Không. Chỉ là muốn cậu làm một bài trắc nghiệm nói dối mà thôi.”
Brendan nhún vai. “Thế nào cũng được. Tôi đồng ý.”
“Vậy đây, hãy cầm lấy danh thiếp của tôi.”
Brendan nhìn tấm danh thiếp không rời mắt và nói, “Tôi yêu cô ấy quá nhiều. Tôi… tôi sẽ không bao giờ có lại được cái cảm giác đó nữa. Tôi muốn nói là điều đó sẽ không bao giờ xảy ra hai lần trong đời, đúng không?” Cậu ngước mắt lên nhìn Whitey và Sean. Mắt cậu khô khốc nhưng chất chứa một nỗi đau mà Sean muốn lẩn tránh.
“Đối với phần lớn chúng ta, điều đó thậm chí còn chả xảy ra được lấy một lần,” Whitey nói.
Họ thả Brendan về nhà cậu lúc một giờ sau bốn lần vượt qua trắc nghiệm với máy nói dối rồi Whitey chở Sean tới căn hộ của anh, dặn anh ngủ một chút vì hôm sau sẽ phải dậy sớm. Sean bước vào căn hộ, nghe dội về âm thanh của sự tĩnh lặng khôn cùng và cảm thấy trong người chỉ có toàn chất cafein và thức ăn nhanh, ngấm vào tận cột sống. Anh mở tủ lạnh lấy ra một lon bia rồi ngồi trên quầy bếp uống, những âm thanh và ánh sáng của buổi tối vẫn quanh quẩn trong đầu anh như búa bổ, không hiểu là vì anh đã trở nên già cỗi hay mệt mỏi vì cái chết, vì những động cơ gây án ngu ngốc, những tên tội phạm ngu ngốc, hay cái cảm giác ghê tởm nói chung đối với tất cả những sự kiện đó.
Tuy nhiên đúng là gần đây anh đâm ra mệt mỏi với mọi thứ. Mệt mỏi vì mọi người. Vì sách vở, vô tuyến, vì những bản tin buổi tối và những ca khúc trên radio giống hệt như những thứ anh từng nghe nhiều năm trước mà chẳng có chút hứng thú nào. Anh mệt mỏi vì quần áo và đầu tóc của mình, mệt mỏi vì quần áo và đầu tóc của người khác. Anh mệt mỏi vì mong muốn giải thích mọi chuyện thấu tình đạt lý. Mệt mỏi vì những chuyện loằng ngoằng ở công sở, ai đang thịt ai theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Anh đã đạt tới độ có thể nghe bất cứ ai nói về bất cứ đề tài gì cũng chỉ giống như nghe đi nghe lại những băng ghi âm cũ về những điều mà nghe lần đầu tiên cũng không thấy mới.
Có lẽ chỉ đơn giản là anh mệt mỏi với cuộc đời, với những nỗ lực tuyệt đối để có thể thức dậy vào mỗi buổi sáng khốn kiếp và bước vào một ngày tồi tệ như mọi ngày, chỉ khác nhau chút xíu về thời tiết và đồ ăn. Quá mệt mỏi nên chẳng thể nào quan tâm tới cái chết của một cô gái trẻ vì sẽ có những cô gái khác sau đó. Nối tiếp, lần lượt. Và việc tống bọn sát nhân vào tù, ngay cả khi chúng bị án chung thân, cũng không còn khiến anh thỏa mãn hơn được nữa vì chúng chỉ là đi về nhà mà thôi, về nơi chúng sẽ sống nốt quãng đời vô ích và lố bịch còn lại trong khi người chết thì đã chết rồi. Người bị cướp và hiếp thì cũng đã bị cướp và hiếp rồi.
Anh tự hỏi không biết liệu đây có phải là bệnh lý của chứng trầm uất hay không, một thứ trạng thái hoàn toàn tê liệt, thiếu hy vọng một cách trầm trọng.
Katie Marcus đã chết, đúng thế. Một bi kịch. Anh rất hiểu điều đó nhưng anh không cảm nhận được nó. Cô ấy chỉ là một thi thể nữa, một bóng đèn vỡ nữa mà thôi.
Và cuộc hôn nhân của anh cũng vậy, không giống như những mảnh kính vỡ sao? Chúa ơi, anh yêu cô ấy nhưng hai người khác nhau như hai thái cực. Lauren thích nhà hát, đọc sách và xem những bộ phim mà Sean không thể hiểu nổi dù có phụ đề đi chăng nữa. Cô ấy là một người thích tán gẫu, dễ xúc động và thích xâu các từ vào thành một chuỗi, tạo nên những cấu trúc từ phức tạp, xây lên một tòa tháp ngôn ngữ mà Sean chỉ lên tới tầng ba thôi đã bị lạc.
Lần đầu tiên anh nhìn thấy cô là trên sân khấu trường đại học, đóng vai một cô gái bị bỏ rơi trong một vở hài kịch mà khán giả không ai tin rằng có người đàn ông nào lại bỏ đi một cô gái rạng rỡ, đầy sức sống như thế, một người tràn trề nhiệt huyết với mọi thứ, một cô gái kinh nghiệm, khao khát sống và đầy hiếu kỳ. Họ tạo thành một cặp kỳ lạ lúc bấy giờ, Sean trầm tĩnh và thực tế, lúc nào cũng kín đáo trừ lúc ở bên cạnh cô còn Lauren là đứa con duy nhất của một cặp vợ chồng hippie lớn tuổi theo chủ nghĩa tự do đã mang cô đi khắp thế giới trong thời gian làm việc cho tổ chức Peace Corps, khiến cho cô lúc nào cũng có thứ nhu cầu được gặp gỡ, đụng chạm và khám phá những mặt tốt đẹp nhất của con người.
Cô đã tìm thấy vị trí của mình trong thế giới nhạc kịch, đầu tiên là trong vai diễn viên tại trường đại học, sau đó làm đạo diễn cho vài nhà hát nhỏ ở địa phương và cuối cùng trở thành người phụ trách hậu đài những tour diễn lớn hơn. Nhưng không phải là những chuyến lưu diễn khiến họ rời xa nhau. Tệ nhất là cho tới giờ Sean cũng không biết chính xác chuyện gì đã xảy ra dù anh nghi ngờ nó hẳn có dính dáng tới anh, tới sự im lặng của anh, với cái độ khinh miệt mà tất cả những người làm cảnh sát dần dần mắc phải, khinh miệt đối với con người, không còn khả năng tin tưởng vào cái gọi là lòng vị tha hay những ý tưởng cao đẹp.
Những người bạn của cô mà anh từng cảm thấy hết sức thú vị bắt đầu trở nên ngây thơ, đắm chìm trong những lý thuyết nghệ thuật không theo kịp thời đại và những quan điểm triết học phi thực tế. Sean trải qua những đêm ở bên ngoài trên những sân khấu bằng bê tông nơi người ta cướp bóc, cưỡng hiếp và giết người không vì lý do gì cả, chỉ là vì ngứa tay, rồi phải chịu đựng những bữa tiệc cocktail cuối tuần nơi những người nghệ sĩ buộc tóc đuôi ngựa tranh luận suốt đêm (bao gồm cả vợ anh) về những động cơ ẩn náu đằng sau những tội lỗi của con người. Động cơ thật đơn giản, con người vốn ngu ngốc. Từ vượn mà lên. Nhưng còn tệ hơn thế vì lũ vượn sẽ không giết nhau vì một chiếc vé xổ số cào.
Cô bảo anh trở nên nghiệt ngã, bảo thủ, thối lui trong suy nghĩ của riêng mình. Anh cũng không phản ứng lại vì chẳng có gì để mà tranh cãi. Vấn đề không phải là anh có biến thành cái dạng đó hay không mà là ở chỗ sự biến đổi ấy rốt cuộc là tiêu cực hay tích cực.
Thế nhưng họ vẫn yêu nhau. Theo cái cách riêng của họ, họ vẫn luôn cố gắng – Sean thì cố phá vỡ vỏ ốc của mình để ra ngoài còn Lauren thì cố chui vào trong đó với anh. Thứ lực hút bí ẩn, thứ phản ứng hóa học với đối phương vẫn tồn tại giữa hai người bọn họ. Chưa bao giờ mất đi.
Tuy thế, anh hẳn phải nhìn ra vấn đề giữa bọn họ. Có lẽ anh đã nhận ra. Nhưng có lẽ bản thân nó không khiến anh lo ngại, thứ anh thực sự lo ngại chính là việc vợ anh mang thai.
Tệ thật. Anh ngồi sụp xuống sàn bếp, trong sự thiếu vắng kể từ khi vợ anh ra đi, chống hai tay lên trán và không biết là lần thứ bao nhiêu từ một năm trở lại đây, cố nhìn nhận một cách rõ ràng về cuộc hôn nhân thất bại của mình. Nhưng tất cả những gì anh thấy chỉ là những mảnh vỡ, những mẩu vụn bắn tung tóe của chúng giăng kín trong đầu anh.
Khi chuông điện thoại vang lên thì anh đã biết, biết trước cả khi nhấc ống nghe lên và ấn nút đàm thoại, rằng người ở bên kia đầu máy chính là cô.
“Sean đây.”
Từ đầu dây bên kia anh nghe thấy tiếng động cơ nhỏ dần của một chiếc xe tải chở hàng hạng nặng đang đỗ lại và tiếng rì rào của những chiếc ô tô lao nhanh trên đường cao tốc. Anh có thể ngay lập tức hình dung ra khung cảnh đó, một trạm dừng chân trên đường cao tốc, ngay lối vào là cây xăng, những ca bin điện thoại nằm giữa quán Roy Rogers và quán McDonald. Lauren đang đứng ở đó, lắng nghe.
“Lauren,” anh nói. “Anh biết là em.”
Ai đó vừa đi qua ca bin điện thoại, chùm chìa khóa kêu leng keng.
“Lauren, hãy nói gì đi chứ.”
Chiếc xe tải hạng nặng kia vào số một, tiếng động cơ thay đổi khi nó bắt đầu lăn bánh qua bãi đỗ xe.
“Con bé thế nào?” Sean hỏi. Anh suýt buột miệng nói, “Con gái anh thế nào?” nhưng rồi lại không biết con bé có phải là của anh không hay chỉ là của Lauren mà thôi. Thế nên anh nhắc lại, “Con bé thế nào?”
Chiếc xe tải lúc này đã sang số hai, tiếng lốp nghiến trên mặt đường rải sỏi ngày càng xa dần hướng về lối rẽ ra đường cao tốc.
“Như thế này rất đau lòng,” Sean nói. “Em nỡ nào không nói với anh dù chỉ một câu?”
Anh nhớ lại những gì Whitey đã nói với Brendan Harris về tình yêu, rằng nó không xảy ra với phần lớn chúng ta, dù chỉ một lần, và anh thấy vợ anh đứng đó, nhìn chiếc xe tải rời đi, điện thoại áp vào tai nhưng không kề miệng. Cô là một người phụ nữ cao ráo, mảnh mai với mái tóc màu gỗ anh đào. Khi cười, cô hay lấy ngón tay che miệng. Ngày đó ở trường đại học, họ chạy ngang qua sân trường tránh một cơn mưa dông và cô đã hôn anh lần đầu tiên dưới cổng vòm thư viện nơi họ trú mưa và khi bàn tay ẩm ướt của cô ôm lấy gáy anh, lồng ngực anh như được giải thoát khỏi một thứ cảm giác bấy lâu nay vẫn khiến anh ngột ngạt, bức bối. Cô bảo anh rằng anh có một giọng nói hay nhất mà cô từng biết, giống như rượu whisky và khói gỗ.
Từ khi cô rời đi, việc này đã trở thành thông lệ, anh sẽ độc thoại cho tới khi cô quyết định gác máy. Cô không bao giờ nói gì, dù chỉ một lần trong tất cả những cuộc gọi mà anh nhận được từ khi cô rời xa anh, từ những trạm nghỉ chân trên đường, từ khách sạn, từ những buồng điện thoại bụi bặm dọc theo những còn đường trơ trụi dẫn tới biên giới Texas-Mexico và ngược lại. Thế nhưng ngay cả khi chỉ nghe được những tạp âm vang lên từ đầu dây im lặng phía bên kia, anh vẫn biết đó là cô. Anh cảm nhận được cô qua điện thoại. Đôi khi anh còn ngửi thấy hương vị của cô.
Những cuộc nói chuyện như vậy – nếu có thể tạm gọi là thế – có thể kéo dài tới mười lăm phút, phụ thuộc vào những gì Sean muốn nói, nhưng đêm nay anh thực sự mệt mỏi và rã rời vì mong nhớ người phụ nữ đã biến mất khỏi đời anh vào một buổi sáng trong lúc mang thai bảy tháng vì chán ngấy với việc ngoại trừ tình cảm dành cho cô, anh không còn bất cứ cảm giác nào khác.
“Đêm nay anh không thể nói chuyện. Anh quá mệt mỏi và đau lòng còn em thì dửng dưng tới mức không muốn cho anh nghe thấy dù chỉ là giọng nói của em.”
Đứng đó trong bếp, anh cho cô ba mươi giây để trả lời trong vô vọng. Nhưng anh chỉ nghe thấy từ đầu dây bên kia những tiếng suỵt gió như ai đó đang bơm lốp xe.
“Tạm biệt, em yêu,” anh nói, từng lời tắc nghẽn trong họng, rồi anh gác máy.
Anh đứng bất động một lúc lâu, như nghe thấy âm vang của tiếng bơm khí hòa lẫn với sự im ắng trong căn bếp đập rền rã trong tim anh. Nó sẽ hành hạ anh, anh biết thế. Suốt đêm, sang cả buổi sáng và có lẽ suốt cả tuần lễ. Anh đã phá vỡ thông lệ, đã gác máy trước cô. Nếu như anh làm thế đúng lúc cô chuẩn bị mở miệng để nói, để gọi tên anh thì sao?
Ôi Chúa ơi.
Hình ảnh đó khiến anh rảo bước tới buồng tắm như thể có thể gột sạch nó khỏi đầu, hình ảnh vợ anh đứng đó bên cạnh những chiếc máy điện thoại công cộng, miệng hé mở, từ ngữ chuẩn bị tuôn ra.
Có lẽ cô ấy định nói: Sean, em trở về đây.