Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Dòng Sông Kỳ Bí

Chương 19: Kế hoạch là như thế

Tác giả: Dennis Lehane

Khi Sean quay trở lại căn hộ thì Jimmy đang đứng trong hành lang nói chuyện điện thoại.

“Vâng. Tôi sẽ nhớ mang theo ảnh. Cảm ơn.” Jimmy nói rồi tắt máy, quay ra nhìn Sean. “Là nhà tang lễ Reed. Họ vừa nhận xác con bé từ bên pháp y và nói tôi có thể mang các vật dụng của con bé tới.” Hắn nhún vai rồi nói tiếp. “Cậu biết đấy, hoàn tất các thủ tục tang lễ, đại loại thế.”

Sean gật đầu.

“Cậu tìm được sổ ghi chép chưa?”

Sean vỗ tay vào túi. “Đây rồi.”

Jimmy đập đập chiếc điện thoại không dây lên đùi nhiều lần. “Tôi nghĩ là tôi phải tới nhà tang lễ.”

“Trông cậu giống như cần chợp mắt một chút.”

“Không sao, tôi ổn mà.”

“OK.”

Lúc Sean đi ngang qua, Jimmy chợt hỏi, “Tôi không biết có nên nhờ cậu một việc không.”

Sean dừng lại. “Tất nhiên rồi.”

“Dave chắc là sắp phải đi đón Michael. Tôi không biết cậu có kế hoạch gì không nhưng tôi vẫn hy vọng cậu có thể ở lại với Annabeth một lúc. Tôi không muốn để cô ấy một mình, cậu hiểu chứ? Celeste chắc sẽ quay lại nên sẽ không lâu đâu. Val và mấy người anh em đã mang lũ trẻ đi xem phim nên trong nhà chẳng còn ai cả và tôi biết là Annabeth vẫn chưa sẵn sàng tới nhà tang lễ nên tôi chỉ, tôi cũng không biết nữa, chỉ đoán là…”

“Tôi nghĩ là không thành vấn đề. Để tôi kiểm tra lại với trung sĩ, nhưng giờ làm chính thức đã kết thúc từ vài tiếng trước rồi. Để tôi nói với ông ta. Được chứ?” Sean nói.

“Tôi rất biết ơn cậu vì điều đó.”

“Không có gì.” Sean bắt đầu đi về phía bếp, tới nửa đường như chợt nhớ ra chuyện gì nên quay sang hỏi Jimmy. “Thật ra tôi có chuyện muốn hỏi cậu, Jim.”

“Nói đi,” Jimmy lại có cái vẻ mặt đề phòng của phạm nhân lúc trước.

Sean bước dọc theo hành lang trở lại. “Chúng tôi nhận được vài nguồn tin cho biết cậu có vấn đề gì đó với thằng bé mà sáng nay cậu có nhắc tới, Brendan Harris.”

Jimmy nhún vai. “Chả có vấn đề gì cả. Chỉ là tôi không thích nó cho lắm.”

“Tại sao?”

“Tôi cũng không biết nữa.”

Jimmy nhét chiếc điện thoại không dây vào túi ngực. “Có những người tự nhiên gây cho cậu cảm giác khó chịu. Cậu biết đấy.”

Sean bước lại gần, đặt một tay lên vai Jimmy. “Thằng bé ấy đang hẹn hò với Katie, Jim. Hai đứa chứng nó lên kế hoạch bỏ trốn cùng nhau.”

“Vớ vẩn,” Jimmy nói, mắt dán chặt xuống sàn.

“Chúng tôi tìm thấy mấy tờ quảng cáo về Vegas trong ba lô của con bé, Jim. Chúng tôi đã gọi điện kiểm tra và phát hiện hai đứa đã đặt vé máy bay của hãng hàng không TWA. Brendan Harris đã xác nhận thông tin này.”

Jimmy hất vai khỏi tay Sean. “Nó đã giết con gái tôi?”

“Không.”

“Cậu chắc chắn một trăm phần trăm chứ?”

“Gần như vậy. Thằng bé đã vượt qua máy kiểm tra nói dối một cách dễ dàng. Với lại trông nó không có khả năng làm chuyện đó. Nó có vẻ yêu con gái cậu thực lòng.”

“Mẹ kiếp,” Jimmy chửi thề.

Sean dựa vào tường và chờ đợi, để cho Jimmy có thời gian tiêu hóa thông tin này.

“Bỏ nhà theo trai?” Một lúc sau Jimmy mới lên tiếng.

“Đúng vậy. Theo Brendan Harris và hai cô bạn của Katie thì cậu sẽ phản đối dữ dội nếu hai đứa hẹn hò. Đó là chuyện mà tôi không tài nào hiểu nổi. Trông nó không giống như một đứa có vấn đề. Cậu biết đấy. Có lẽ hơi đần, tôi cũng không rõ nữa. Nhưng thực sự ngoan ngoãn, khiêm tốn. Thế nên tôi mới hơi thắc mắc.”

“Cậu có gì mà thắc mắc?” Jimmy cười khẩy. “Tôi mới phát hiện ra con gái tôi – đứa con vừa mới chết – trước đó đang lên kế hoạch bỏ trốn theo giai, Sean.”

“Tôi hiểu,” Sean nói và hạ thấp giọng xuống gần như thì thào, hy vọng Jimmy cũng bình tĩnh lại vì người đàn ông trước mặt anh đang có nguy cơ bị kích động giống như buổi chiều hôm qua ở bãi chiếu bóng. “Tôi chỉ là tò mò thôi, anh bạn – vì không hiểu tại sao cậu lại khăng khăng không cho phép con gái mình hẹn hò với thằng bé đó?”

Jimmy dựa lưng vào bức tường bên cạnh Sean và hít một hơi thật sâu, từ từ thở ra rồi mới lên tiếng. “Tôi có biết cha của nó. Mọi người gọi hắn là ‘Just Ray’.”

“Sao lại gọi thế?”

“Vì lúc đó ở khu này có quá nhiều người tên là Ray – nào là Ray Bucheck tức Ray Điên, Ray Dorian tức Ray Tâm Thần, rồi còn Ray The Woodchuck Lane – thế nên Ray Harris bị gọi là ‘Just Ray’ vì tất cả những biệt hiệu hay ho khác đã bị lấy hết rồi.” Hắn nhún vai. “Nhưng nói chung là tôi chả bao giờ ưa hắn cả và rồi hắn lại bỏ rơi vợ mình khi bà ta mang bầu cái thằng câm kia lúc Brendan mới có sáu tuổi, thế nên tôi chỉ đơn giản nghĩ rằng cây nào quả đó nên không muốn con gái mình hẹn hò với nó.”

Sean gật đầu dù không tin lý do đó của Jimmy. Khi Jimmy nói rằng hắn chả bao giờ ưa gã kia, Sean phát hiện ra một chút xao động trong giọng nói của hắn và anh có đủ kinh nghiệm để nhận ra những lời dối trá cho dù chúng có vẻ hợp lý đến đâu.

“Chỉ có vậy thôi sao?” Sean hỏi. “Chỉ vì mỗi lý do đó?”

“Đúng thế,” Jimmy nói rồi đứng thẳng dậy và bỏ đi.

“Tôi cho rằng đó là một ý hay,” Whitey nói khi đã ra tới ngoài đường và dừng lại trước cửa nhà nói chuyện với Sean. “Gần gũi với gia đình nạn nhân một chút xem có thể tìm kiếm được thông tin gì không. Mà tiện thể hỏi cậu luôn, cậu nói gì với vợ của Boyle thế?”

“Tôi bảo là trông cô ấy có vẻ sợ hãi.”

“Cô ta có thề thốt về bằng chứng ngoại phạm của chồng mình không?”

Sean lắc đầu. “Cô ấy bảo lúc đó cô ấy đang ngủ.”

“Nhưng cậu cho rằng cô ta đang sợ hãi.”

Sean nhìn lên những ô cửa sổ mặt tiền của tòa nhà. Anh ra hiệu cho Whitey rồi nhìn ra phố, Whitey nhìn theo ánh mắt của anh tới khúc ngoặt phía trước.

“Cô ấy nghe thấy chúng ta nói chuyện về chiếc xe.”

“Chết tiệt. Cô ta sẽ nói với chồng của mình và hắn ta có thể sẽ bỏ trốn.”

“Trốn đi đâu chứ? Cậu ta là con một, mẹ cũng mất rồi, thu nhập thấp, lại chả có mấy bạn bè. Bỏ chạy, sang sống ở Uruguay ư? Nghe có vẻ không ổn.”

“Nhưng cũng không thể loại trừ khả năng cậu ta bỏ trốn.”

“Trung sĩ, chúng ta chả có chứng cớ gì chống lại cậu ấy cả.”

Whitey lùi lại một bước quan sát vẻ mặt Sean dưới ngọn đèn đường tù mù. “Cậu có vẻ bi quan đấy, siêu cớm.”

“Tôi chỉ không cho rằng cậu ấy là đối tượng thích hợp. Trước nhất là không có động cơ.”

“Nhưng bằng chứng ngoại phạm của cậu ta rõ là vớ vẩn, Devine. Các câu chuyện của cậu ta đầy lỗ hổng, nếu đó là một con thuyền thì đã chìm từ lâu rồi. Cậu nói là vợ cậu ta có vẻ sợ hãi. Không phải lo lắng. Mà là sợ hãi.”

“Đúng vậy. Cô ấy rõ ràng là muốn giấu chuyện gì.”

“Thế cậu có nghĩ là cô ta thực sự đang ngủ lúc cậu ta trở về không?”

Trong đầu Sean lại hiện ra hình ảnh Dave lúc còn nhỏ, vừa khóc vừa chui vào trong chiếc xe đó. Thấy cậu ta mờ nhạt rồi xa dần ở khoang ghế sau khi chiếc xe rẽ sang hướng khác. Anh những muốn đập đầu vào bức tường phía sau lưng để rũ bỏ hình ảnh ấy khỏi đầu mình ngay lập tức.

“Không. Tôi nghĩ là cô ấy biết thời điểm cậu ta trở về nhà. Và giờ đây lại nghe chúng ta nhắc tới việc cậu ấy có mặt ở quán Last Drop tối hôm đó. Đầu óc cô ấy có lẽ bấn lên vì thấy mọi chuyện không khớp nên đang tìm cách sắp xếp lại.”

“Và phát hiện đó khiến cô ta sợ hãi.”

“Có lẽ vậy. Tôi cũng không biết nữa.” Sean khẽ đá một viên đá nhỏ dưới chân. “Tôi có cảm giác như…”

“Gì cơ?”

“Tôi có cảm giác như chúng ta có tất cả những tình tiết rập rình xung quanh nhưng lại không khớp vào với nhau được. Giống như còn thiếu một cái gì đó.”

“Cậu thực sự không cho rằng Boyle đã làm điều đó?”

“Tôi không loại trừ cậu ta. Không. Tôi sẽ tin là cậu ta làm nếu tôi có thể hình dung ra một động cơ hợp lý.”

Whitey lùi lại, đứng kê gót chân vào cột đèn và nhìn Sean như đang nhìn một nhân chứng thiếu độ tin cậy.

“Thôi được rồi. Đúng là việc thiếu động cơ cũng làm tôi khó nghĩ. Nhưng không phải là nghiêm trọng lắm, Sean. Cũng không quan trọng. Cậu ta hẳn có gì đó liên quan tới vụ án này. Nếu không tại sao cậu ta lại nói dối chúng ta?”

“Thôi nào sếp. Đó là chuyện thường ngày. Người ta vẫn nói dối chả vì lý do gì cả mà chỉ là muốn xem nó mang lại cảm giác gì. Cái khu xung quanh quán Last Drop đó ấy mà – ban đêm có rất nhiều hoạt động buôn bán tấp nập, từ gái điếm thông thường cho tới bọn thay đổi giới tính và gái điếm chưa tới tuổi vị thành niên. Có lẽ Dave chỉ tới đó để thực hiện một phi vụ ‘thổi kèn’ trong xe. Hay có một em ở bên cạnh. Ai mà biết được. Nhưng cho tới giờ, chưa có gì liên hệ cậu ta với vụ sát hại Katherine Marcus.”

“Không có gì ngoại trừ những lời đối trá của cậu ta và trực giác của tôi cho biết đó là một gã bẩn thỉu.”

“Chỉ dựa vào trực giác của sếp thôi,” Sean nói.

“Sean này,” Whitey vừa nói vừa đếm đầu ngón tay những lập luận của mình. “Hắn lừa dối chúng ta về thời gian rời khỏi quán McGills này. Rồi lừa dối chúng ta về thời điểm trở về nhà. Hắn đã đỗ xe phía bên ngoài quán Last Drop khi nạn nhân rời khỏi đó. Hắn cũng có mặt ở hai quán bar mà nạn nhân xuất hiện và cố che giấu điều này. Hắn bị thương nặng ở tay rồi lại bịa ra một nguyên nhân cực kỳ vớ vẩn. Hắn quen biết với nạn nhân mà như chúng ta nhận định, nghi phạm hẳn là người quen của nạn nhân. Hắn ta hoàn toàn phù hợp với định dạng hung thủ, da trắng, ngoài ba mươi, nghề nghiệp bấp bênh, và đoán xem cậu đã nói gì với tôi hôm qua rằng hắn ta bị lạm dụng tình dục khi còn bé. Cậu định giỡn chơi với tôi sao? Trên lý thuyết thì hắn ta đã đi tù rồi.”

“Chính sếp vừa mới nói đấy thôi, cậu ta trước đây là nạn nhân bị lạm dụng tình dục và Katherine Marcus lại không bị xâm phạm tình dục. Nghe chẳng hợp lý chút nào, trung sĩ.”

“Có thể hắn thủ dâm trước mặt cô ấy.”

“Trên hiện trường không tìm thấy tinh trùng.”

“Thì trời mưa.”

“Thi thể nạn nhân tìm thấy trong ngách, sau cánh cửa, mưa không tới được. Mà trong những trường hợp giết người do hưng phấn bộc phát thì có tới chín mươi chín phần trăm sẽ xảy ra hiện tượng xuất tinh. Tại sao trong trường hợp này lại không thấy?”

Whitey cúi đầu, dùng gan bàn tay gõ gõ lên thân cột đèn. “Cậu từng quen biết bố nạn nhân và đối tượng tình nghi lớn nhất khi còn…”

“Thôi nào sếp.”

“… còn nhỏ. Khiến cậu mất đi tính khách quan. Đừng có nói với tôi là cậu không bị ảnh hưởng. Cậu chính là người gây trở ngại cho cuộc điều tra.”

“Tôi là trở ngại…?” Sean hạ giọng, hai tay đang đặt trước ngực thõng xuống. “Sếp nghe này, tôi chỉ không đồng ý với sếp về nhận dạng đối tượng tình nghi. Tôi không nói là sẽ không bắt cậu ta nếu như chúng ta có thể tìm thấy thêm một số chứng cớ khác ngoài vài điểm không thống nhất trong lời khai. Sếp biết là tôi sẽ ra tay nếu cần thiết. Nhưng nếu sếp nhất định tới trình công tố viên với những gì hiện có thì ông ta có thể làm gì chứ?”

Bàn tay đang gõ cột điện của Whitey trở nên dồn dập hơn.

“Thật đấy, ông ta sẽ làm gì chứ?” Sean nhắc lại.

Whitey vươn hai tay lên quá đầu, rùng mình ngáp một cái rõ to. Bắt gặp ánh mắt Sean nhìn mình, ông liền nhíu mày vẻ chán nản. “Thôi được, coi như cậu ghi điểm lần này. Nhưng,” nói tới đây ông liền giơ một ngón tay lên vẻ dọa dẫm, “nhưng, cái đồ chỉ giỏi bào chữa kia, tôi nói cho cậu biết nhé, tôi nhất định sẽ tìm ra cây gậy đánh nạn nhân hay khẩu súng hay quần áo dính máu. Tôi chưa biết chính xác là thứ gì nhưng tôi nhất định sẽ tìm ra. Lúc đó thì tôi sẽ tóm cổ gã bạn cậu.”

“Cậu ấy không phải bạn của tôi,” Sean nói. “Nếu như ông nói đúng thì tôi sẽ còng tay cậu ta còn nhanh hơn ông ấy chứ.”

Whitey rời khỏi cột đèn tới trước mặt Sean. “Đừng có tự hại mình đấy nhé, Devine. Cậu mà làm thế thì cậu sẽ hại luôn cả tôi đấy và tôi thề là sẽ cho cậu đi đời nhà ma. Tôi sẽ chuyển cậu sang khu Berkshire khốn kiếp, ngồi trên xe trượt tuyết, bắn tốc độ các xe vi phạm giao thông thỉnh thoảng qua lại.”

Sean lấy hai tay xoa mặt, xoa đầu, cố rũ khỏi vẻ mệt mỏi. “Chắc giờ có kết quả xét nghiệm đầu đạn rồi đấy,” anh nói.

“Đúng thế, tôi sẽ tới đó xem sao. Các kết quả xét nghiệm vân tay và dấu chân chắc cũng đã có trong máy tính. Tôi sẽ kiểm tra xem chúng ta có chộp được gì không. Cậu có di động đấy chứ?”

Sean vỗ tay vào túi. “Đây rồi.”

“Tôi sẽ gọi cậu sau.” Whitey quay lưng đi xuống phố Crescent tới chỗ để xe. Vẻ thất vọng của ông khiến Sean bắt đầu cảm thấy thời gian thử thách của mình hẳn sẽ nặng nề hơn anh hình dung trước đó rất nhiều.

Anh quay trở lại nhà Jimmy và gặp Dave đang bước xuống cầu thang với Michael.

“Về nhà à?”

Dave dừng lại. “Ừ. Tôi không thể tin là Celeste vẫn chưa lái xe quay lại đây.”

“Tôi chắc là cô ấy sẽ không có chuyện gì đâu,” Sean nói.

“Ừ. Chỉ là tôi sẽ phải đi bộ về nhà mà thôi,” Dave nói.

“Gì, năm dãy nhà chứ mấy?” Sean cười.

“Gần sáu dãy đấy, cậu định ăn bớt à?” Dave cũng mỉm cuời đáp lại.

“Thế nên về sớm đi, trong lức trời vẫn còn sâm sẩm. Đi đường thoải mái nhé Mike.”

“Chào chú,” Michael nói.

“Cậu cũng chú ý nhé,” Dave nói rồi bỏ Sean lại trên bậc thang. Bước chân của Dave có chút loạng choạng sau lượng bia tiêu thụ ở nhà Jimmy. Nếu cậu thực sự làm ra chuyện đó thì cậu lập tức phải bỏ ngay thói quen bia rượu này, Sean thầm nghĩ. Vì cậu sẽ phải vận động tới từng tế bào chất xám nếu không muốn mình và Whitey tóm được. Nhớ đấy, từng tế bào một.

Vào cuối hoàng hôn, con kênh Penitentiary trông giống như một dải lụa bạc, mặt trời đã lặn nhưng trên bầu trời vẫn còn sót lại chút ánh sáng. Những ngọn cây trong công viên đã sẫm lại và nhìn từ đây khu chiếu bóng chỉ là một bóng đen sừng sững. Celeste ngồi trong xe của mình trên phố Shawmut, nhìn xuống con kênh, công viên Penitentiary và khu East Bucky vươn lên như một bãi đất thải phía sau chúng, khu Thượng thì gần như bị công viên che khuất ngoại trừ vài gác chuông rải rác và những mái nhà cao trên đồi. Những ngôi nhà ở khu Thượng nhô hẳn lên so với khu Hạ, nhìn xuống khu Hạ từ trên những ngọn đồi uốn lượn, lát bê tông của chúng.

Celeste thậm chí không nhớ nổi tại sao mình lại lái xe tới đây. Cô giao chiếc váy cho một trong những người con của Bruce Reed, thằng bé xuất hiện trong trang phục màu đen của nhà tang lễ với hai má nhẵn nhụi và đôi mắt trẻ trung tới mức trông giống như nó vừa bước ra từ đêm dạ hội tốt nghiệp. Cô rời nhà tang lễ rồi lái xe một cách vô thức ra phía sau khu công xưởng sắt Isaak từ lâu đã đóng cửa, đi qua những dãy nhà kho lớn bỏ không tới phía cuối đường cho tới khi tấm chắn giảm xóc phía trước xe đụng vào hàng cọc bằng gỗ đã mục nát và dòng kênh Penitentiary chảy lờ lững hiện ra trước mắt, dập dềnh về phía đập chắn nước.

Từ khi nghe thấy hai viên cảnh sát nhắc tới xe của Dave – cũng là xe của họ, là chiếc xe mà cô hiện đang ngồi ở trong – Celeste bắt đầu có cảm giác như người say rượu. Nhưng không phải thứ cảm giác lơ mơ dễ chịu, toàn thân buông lỏng. Mà giống như cảm giác của một người nốc rượu rẻ tiền suốt cả đêm, về nhà lăn ra ngủ tới khi tỉnh lại đầu vẫn ong ong, lưỡi sưng phồng, nồng nặc mùi cồn, chậm chạp, đờ đẫn không có khả năng tập trung.

“Cô đang sợ hãi,” viên cảnh sát kia nói, giống như đâm thẳng vào cô một nhát chí mạng khiến cô chẳng còn cách nào khác là bác bỏ một cách thẳng thừng. “Không. Không có.” Cứ như là một đứa trẻ con. “Không, không có. Có, cô có. Không. Tôi không có. Có, cô có. Tôi biết là cô có sợ nhưng tôi ở đây là ai? Vân vân và vân vân.”

Cô đúng là đang sợ hãi. Đúng hơn là kinh hãi. Cả người cô trở nên đần độn vì sợ hãi.

Cô sẽ phải nói chuyện với anh, cô tự nhủ. Dù sao anh vẫn là Dave. Một người cha tốt. Một người đàn ông chưa bao giờ đụng chân đụng tay với vợ, một người đàn ông mà trong suốt thời gian cô quen biết, chưa bao giờ tỏ ra có thiên huớng bạo lực. Thậm chí cô còn chưa bao giờ nhìn thấy anh đá cửa hay đấm vào tường. Cô chắc là cô vẫn có thể nói chuyện với anh.

Cô sẽ nói, Dave này, máu dính trên quần áo hôm đó là của ai?

Tối thứ Bảy đã thực sự xảy ra chuyện gì?

Anh có thể nói với em. Em là vợ anh. Anh có thể nói với em mọi chuyện.

Cô sẽ làm vậy. Cô sẽ nói chuyện với anh. Cô không có lý do gì sợ hãi anh. Đó là Dave. Cô yêu anh và anh cũng yêu cô, tất cả những chuyện này rồi sẽ được giải quyết một cách ổn thỏa. Cô dám chắc là thế.

Thế nhưng cô vẫn ngồi lì ra ở đó, phía bên kia con kênh Penitentiary, lẻ loi bên cạnh một xưởng sắt bị bỏ hoang mới đây đã được bán cho một công ty phát triển đô thị dự định sẽ biến nó thành một bãi đậu xe nếu hợp đồng xây dựng sân vận động phía bên kia sông được thông qua. Cô nhìn sang phía công viên nơi Katie Marcus bị giết hại và chờ đợi ai đó bảo cô phải làm gì tiếp theo.

Jimmy ngồi với Ambrose, con trai của Bruce Reed trong phòng làm việc của cha cậu ta để thảo luận chi tiết về việc tổ chức tang lễ. Hắn thầm mong có thể làm việc trực tiếp với Bruce thay vì cậu thanh niên trẻ măng trông như vừa mới ra trường này. Trông cậu ta chơi ném đĩa hợp hơn là khiêng quan tài và Jimmy không tài nào hình dung ra nổi đôi bàn tay trơn nhẵn, mềm mại kia dưới phòng ướp xác, chạm vào thi thể người chết.

Hắn cho Ambrose ngày sinh tháng đẻ của Katie, số thẻ bảo hiểm xã hội và cậu ta dùng một chiếc bút máy bằng vàng ghi vào một tờ khai đính liền với bảng kẹp hồ sơ rồi nói với hắn bằng một thứ giọng mượt mà, du dương giống hệt như một phiên bản trẻ tuổi của cha mình, “Tốt rồi, tốt rồi. Vậy là, ông Marcus, sẽ là một tang lễ Thiên Chúa giáo truyền thống đúng không? Sẽ có một lễ viếng vào ngày hôm trước và đại lễ vào ngày hôm sau?”

“Đúng vậy.”

“Vậy thì theo tôi, chúng ta nên tổ chức lễ viếng vào ngày thứ Tư.”

Jimmy gật đầu. “Chúng tôi đã hẹn với nhà thờ để cử hành đại lễ vào chín giờ sáng ngày thứ Năm.”

“Chín giờ sáng,” cậu ta nói rồi ghi lại. “Thế còn lễ viếng, ông đã định giờ giấc thế nào chưa?”

“Chúng tôi sẽ tiến hành làm hai đợt. Từ ba tới năm giờ và từ bảy tới chín giờ.”

“Bảy tới chín giờ,” cậu ta nhắc lại rồi tiếp tục ghi vào. “Tôi thấy ông có mang ảnh tới. Tốt rồi. Tốt rồi.”

Jimmy nhìn đống khung ảnh ngổn ngang trong lòng: Ảnh Katie trong lễ tốt nghiệp, Katie với hai em gái trên bãi biển, Katie và hắn tại buổi khai trương cửa hàng Cottage Market lúc con bé tám tuổi, Katie với Eve và Diane, Katie với Annabeth, Jimmy, Nadine và Sara tại khu giải trí Six Flags, ảnh sinh nhật Katie mười sáu tuổi.

Hắn đặt chồng ảnh xuống chiếc ghế bên cạnh, cổ họng trở nên khô khốc khiến hắn phải nuốt nước miếng để nó trôi đi.

“Ông đã nghĩ tới việc đặt hoa chưa?” Ambrose Reed hỏi.

“Chiều nay tôi đã đặt hoa tại cửa hàng Knopfler.”

“Còn cáo phó?”

Lần đầu Jimmy nhìn vào mắt cậu thanh niên. “Cáo phó?”

“Đúng thế,” cậu thanh niên nói rồi nhìn xuống tập hồ sơ của mình. “Cáo phó trên báo phải viết những gì. Chúng tôi có thể lo việc đó nếu ông có thể cung cấp vài thông tin và yêu cầu cơ bản của mình. Chẳng hạn như ông muốn mọi người phúng tiền thay vì hoa chẳng hạn.”

Jimmy tránh khỏi ánh mắt an ủi của cậu thanh niên và nhìn xuống sàn nhà. Ở bên dưới, đâu đó trong tầng hầm của ngôi nhà màu trắng theo kiểu kiến trúc thời Victoria này, Katie đang nằm trong một phòng ướp xác. Con bé sẽ trần trụi trước Bruce Reed, cậu thanh niên này và hai người anh em của cậu ta khi họ tiến hành công việc rửa ráy, sửa sang, trang điểm và bảo quản thi thể của con bé. Những bàn tay lạnh lẽo, được chăm chút cẩn thận của họ sẽ chạm khắp người con bé. Họ phải di chuyển một số bộ phận. Họ sẽ dùng ngón trỏ và ngón cái xoay cằm con bé về vị trí thích hợp. Họ sẽ chải đầu cho nó.

Hắn nghĩ tới đứa con của mình trần trụi phơi bày ở đó, da thịt không còn chút màu sắc nào, chờ đợi được chạm vào lần cuối bởi những con người xa lạ này – có thể với một sự chăm chút, nhưng là thứ chăm chút nghề nghiệp, một thứ chăm chút kiểu bệnh viện. Và rồi người ta sẽ đặt nó vào trong quan tài, đầu gối lên một lớp gối xa tanh rồi đưa vào phòng viếng với một khuôn mặt búp bê đông cứng trong chiếc váy màu xanh ưa thích của nó. Mọi người sẽ tới nhìn con bé, cầu nguyện cho nó, bình luận vài câu, rồi khóc thương, sau đó con bé sẽ được chôn xuống đất. Nó sẽ bị đưa xuống một cái hố được đào bởi những người đàn ông không hề quen biết và Jimmy có thể nghe thấy tiếng đất đá bay rào rào phía bên ngoài như thể hắn đang nằm ở trong quan tài với con bé.

Và rồi con bé sẽ nằm trong bóng tối bị nén chặt dưới ba tấc đất rồi mới tới một lớp cỏ và không khí thoáng đãng mà nó sẽ không bao giờ còn có thể nhìn thấy, cảm thấy, ngửi thấy hay nhận thấy. Nó sẽ nằm đó một ngàn năm mà không thể nghe tiếng bước chân những người tới viếng thăm bia mộ của mình, khững thể nghe thấy bất kỳ âm thanh nào của cái thế giới mà nó đã rời đi vì những tầng tầng lớp lớp đất đá ấy đã ngăn cản nó.

Cha sẽ giết hắn, Katie. Thế nào cha cũng phải tìm thấy tên đó trước cảnh sát và cha sẽ giết hắn. Cha sẽ chôn hắn xuống một cái hố khủng khiếp hơn huyệt mộ của con rất nhiều. Cha sẽ khiến hắn không còn gì để khâm liệm. Không còn gì để để tang. Cha sẽ khiến hắn biến mất như thể hắn chưa bao giờ tồn tại trên đời này, như thể tên hắn, tất cả những gì đã và đang đại diện cho hắn đều chỉ là một giấc mơ thoảng qua tâm trí mọi người, hoàn toàn rơi vào quên lãng khi người ta tỉnh giấc.

Cha sẽ tìm ra kẻ đã đặt con lên chiếc bàn dưới kia và sẽ xóa sổ hắn. Và những người thân của hắn, nếu như có kẻ quan tâm tới hắn, sẽ cảm thấy khốn khổ hơn người thân của con rất nhiều, Katie. Bởi vì họ sẽ không bao giờ biết được chuyện gì đã xảy ra với hắn.

Và con đừng lo lắng về việc cha có đủ can đảm để làm chuyện đó hay không. Cha của con hoàn toàn có khả năng ấy. Con không hề biết chuyện này nhưng trước đây cha của con từng giết người. Cha của con đã làm việc cần phải làm. Và cha có thể làm lại việc đó một lần nữa.

Hắn quay trở lại với con trai của Bruce, người vẫn còn chưa có đủ kinh nghiệm để đối phó với sự im lặng dài như thế của khách hàng.

Jimmy nói, “Tôi muốn ghi thế này, ‘Marcus Katherine Juanita, con gái vô cùng thương yêu của James và Marita đã từ trần, con gái kế của Annabeth và chị của Sara và Nadine’…”

Sean ngồi ở hiên sau với Annabeth Marcus lúc này vừa uống rượu vang trắng vừa hút thuốc, nhưng cứ được nửa điếu lại dụi đi, ánh đèn từ phía trên đầu họ rọi vào mặt cô. Đó là một khuôn mặt rắn rỏi, có lẽ là không xinh đẹp nhưng lại có sức hút. Sean đoán là cô hẳn quen với việc thu hút ánh mắt của người khác nhưng bản thân lại không biết mình hấp dẫn ở điểm nào. Cô khiến Sean nghĩ tới mẹ của Jimmy nhưng ở cô không có cái vẻ cam chịu và buông xuôi của bà, và cũng gợi nhớ tới mẹ anh, một người phụ nữ sinh ra đã có cái vẻ tự tin thiên bẩm. Annabeth có thể là một phụ nữ vui vẻ nhưng không bốc đồng.

“Vậy tối nay anh sẽ làm gì sau khi hoàn thành nghĩa vụ an ủi tôi?” Cô hỏi Sean khi anh châm thuốc cho cô.

“Tôi không có…”

Cô phủi tay nhắc anh không cần khách sáo. “Tôi rất cảm kích anh chuyện đó. Nhưng tối nay anh định làm gì?”

“Về nhà mẹ.”

“Thật sao?”

Anh gật đầu. “Hôm nay là sinh nhật mẹ tôi nên về nhà ăn sinh nhật với bà và ông già.”

“Ra vậy. Thế anh ly hôn được bao lâu rồi?”

“Điều đó có thể nhìn ra sao?”

“Nó in rành rành trên mặt anh ấy.”

“À ra thế! Thật ra mới chỉ là ly thân thôi, cũng hơn một năm rồi.”

“Cô ấy cũng sống ở đây à?”

“Bây giờ thì không. Cô ấy còn bận di chuyển.”

“Còn bận ‘di chuyển’, nghe giọng anh rất cay cú.”

“Cay cú ư?” Anh nhún vai.

Cô giơ một tay lên rồi nói. “Tôi rất ghét phải đối xử với anh thế này, lôi anh ra làm vật thí mạng để khỏi phải nghĩ tới Katie. Thế nên anh không bắt buộc phải trả lời bất kỳ câu hỏi nào của tôi. Tôi chỉ là hơi tò mò một chút mà anh thì lại là một gã thú vị.”

“Đâu, đâu có. Tôi thực sự là một người rất tẻ nhạt, bà Marcus. Ngoài công việc ra tôi chả còn biết nói gì nữa.” Anh mỉm cười.

“Gọi tôi là Annabeth,” cô nói.

“Được thôi.”

“Thật khó mà tin rằng anh lại là một người tẻ nhạt, nhân viên Devine. Nhưng kể cũng hơi lạ.”

“Gì cơ?”

Cô xoay ghế sang nhìn thẳng vào mặt anh. “Trông anh không giống loại người dùng biên lai giả liên lụy người khác.”

“Sao lại không?”

“Cứ giống như trò trẻ con ấy. Mà anh thì không có cái vẻ đó,” cô nói.

Sean lại nhún vai. Với anh người nào chẳng có lúc cư xử giống trẻ con. Chỉ là quay trở về với trạng thái xưa cũ của mình mà thôi, nhất là những khi phải đối phó với những chuyện không may xảy ra dồn dập.

Hơn một năm nay anh không hề nói với ai về Lauren, kể cả bố mẹ, mấy người bạn mà anh vẫn hay qua lại, kể cả bác sĩ tâm lý của cảnh sát mà chỉ huy trưởng có lần đã đề cập tới sau khi mọi người ở chỗ làm biết tin Lauren dọn ra ngoài. Thế nhưng lúc này đây, Annabeth, một người xa lạ vừa mất thân nhân, lại muốn khám phá sự mất mát ấy của anh, muốn được tìm hiểu, được chia sẻ để thấy rằng mình không phải là người duy nhất bị dằn vặt bởi thương đau.

“Vợ tôi làm nghề phụ trách sân khấu” anh nói khẽ. “Cho các tour diễn lưu động. Ví dụ như vở Lord of the Dance lưu diễn xuyên quốc gia hồi năm ngoái là do vợ tôi phụ trách phần hậu đài. Đại loại như vậy. Hiện giờ cô ấy đang theo vở Annie Get Your Gun thì phải. Tôi cũng không rõ nữa. Chả biết năm nay họ tái dựng vở gì. Chúng tôi là một cặp kỳ quặc. Ý tôi là, dựa vào nghề nghiệp của hai bên mà nói, thật là vô cùng cách biệt, đúng không?”

“Nhưng anh yêu cô ấy,” Annabeth nói.

Anh gật đầu. “Tôi vẫn yêu cô ấy.” Rồi anh hít một hơi thật dài, tựa lưng vào ghế và thở sâu. “Thế nên cái gã mà tôi phát ra vé phạt, hắn là…” Nói tới đây, miệng anh đột nhiên trở nên khô khốc, anh khẽ lắc đầu và chỉ muốn ra khỏi đây thật nhanh, ngay lập tức khỏi căn nhà này.

“Một tình địch?” Annabeth khẽ khàng lên tiếng.

Sean lấy một điếu thuốc trong bao châm lửa rồi gật đầu. “Đó là một từ quá hay để miêu tả chuyện này. Nhưng thôi, chúng ta cứ tạm gọi là vậy. Một kẻ tình địch. Vợ tôi và tôi, hai chúng tôi có trải qua một thời điểm khó khăn. Cả hai đều bận rộn, hay vắng mặt, và nhiều chuyện khác nữa. Và cái gã, hừm, tình địch, đó đã nhân cơ hội tiếp cận cô ấy.”

“Và anh đã phản ứng một cách dại dột.” Annabeth đưa ra kết luận đúng hơn là hỏi anh.

Sean trợn mắt lên nhìn cô. “Trong trường hợp đó lại còn có ai phản ứng tốt sao?”

Annabeth ném cho anh một cái nhìn gay gắt như thể anh thật không biết cách châm chọc hoặc chỉ đơn giản là cô không thích thế.

“Nhưng anh vẫn yêu cô ấy.”

“Đúng vậy. Tệ nhất là tôi nghĩ rằng cô ấy cũng vẫn còn yêu tôi.” Anh dụi tắt điếu thuốc. “Cô ấy gọi điện cho tôi suốt. Gọi nhưng lại chẳng nói gì.”

“Chờ chút, cô ấy…”

“Tôi biết là rất lạ.”

“… gọi nhưng không nói lời nào?”

“Chính thế. Cứ như thế gần tám tháng rồi.”

Annabeth bật cười khẽ. “Tôi không có ý gì đâu nhưng đúng là lâu lắm rồi tôi mới được nghe một chuyện kỳ quặc như thế.”

“Không sai.” Anh ngắm nhìn một con thiêu thân cứ lao ra lao vào phía trước bóng đèn. “Rồi một ngày nào đó cô ấy sẽ phải lên tiếng. Thế nên tôi cứ bám vào hy vọng đó.”

Anh nghe thấy tiếng cười nhạt nhẽo của mình tắt dần trong bóng tối, âm vang của nó khiến anh cảm thấy hổ thẹn. Hai người bọn họ ngồi im lặng một lúc, hút thuốc và lắng nghe tiếng muỗi vo ve trong lúc điên cuồng đập cánh lao về phía ánh sáng.

“Cô ấy tên là gì?” Annabeth hỏi. “Nói chuyện suốt thế mà anh không hề nhắc đến tên cô ấy lấy một lần.”

“Lauren. Tên cô ấy là Lauren.”

Tên cô ấy buột ra, lơ lửng trong không khí một lúc, giống như một màng tơ nhện chăng giữa hai người.

“Anh yêu cô ấy từ khi còn trẻ?”

“Năm đầu đại học. Lúc đó đúng là còn trẻ thật.”

Anh vẫn nhớ cơn giông tháng Mười một năm ấy, họ đứng trên ngưỡng cửa, run rẩy hôn nhau lần đầu tiên.

“Lý do có lẽ là ở chỗ đó,” Annabeth nói.

“Nhưng chúng tôi đâu còn trẻ con nữa,” Sean nhìn cô.

“Ít nhất thì vẫn còn một người chưa lớn,” cô nói.

Sean không dám hỏi là ai.

“Jimmy bảo tôi là anh nói Katie định bỏ trốn với Brendan Harris.”

Sean gật đầu.

“Chỉ có vậy thôi đúng không?”

“Gì cơ?”

Annabeth nhả khói lên những hàng dây phơi trống rỗng. “Thì những giấc mơ ngớ ngẩn lúc còn trẻ. Katie và Brendan muốn gây dựng cuộc sống tại Las Vegas phải không? Khu vườn địa đàng nhỏ bé của chúng có thể tồn tại được bao lâu? Có lẽ chúng sẽ trụ được tới lần chuyển nhà thứ hai trong một chiếc xe kéo kiêm nhà ở di động trong công viên hay tới khi đứa con thứ hai chào đời nhưng sớm muộn rồi chúng cũng sẽ vỡ mộng, cuộc đời làm gì có hạnh phúc mãi mãi, những buổi hoàng hôn thần tiên, hay những thứ nhảm nhí tương tự. Đó là nỗ lực. Người mà anh yêu hiếm khi xứng đáng với tình yêu to lớn mà anh dành cho họ. Vì chả có ai xứng đáng với nó cả và có lẽ cũng chẳng ai đáng phải chịu đựng cái gánh nặng mà nó mang lại. Họ sẽ khiến anh thất vọng. Anh sẽ trở nên tuyệt vọng, mất niềm tin và phải sống những chuỗi ngày vô cùng khổ sở. Anh sẽ thua nhiều hơn là thắng. Anh ghét người mình yêu cũng nhiều như anh yêu cô ấy. Tóm lại, phải xắn tay áo lên và nỗ lục vì mọi thứ, bởi vì đó chính là trưởng thành.”

“Annabeth, có ai nói với cô rằng cô là một người phụ nữ vô cùng cứng rắn không?” Sean hỏi.

Cô quay đầu sang nhìn anh, nhắm mắt lại, trên mặt phảng phất một nụ cười. “Họ nói thế suốt.”

Đêm đó Brendan Harris đi vào phòng và đối mặt với chiếc va li giấu dưới gầm giường. Chiếc va li lèn chặt quần soóc, áo sơ mi Hawaii, một chiếc áo khoác thể thao, hai chiếc quần jean, nhưng không có áo nỉ hay quần len. Cậu đã sắp vào va li những thứ họ sẽ mặc ở Las Vegas, không hề có quần áo mùa đông bởi vì cậu và Katie đã nhất trí rằng họ không còn muốn đối mặt với những mùa đông gió buốt thấu, những đợt khuyến mãi tất ấm bằng chất liệu giữ nhiệt ở siêu thị hay những lớp kính chắn gió cộm tuyết. Thế nên khi cậu mở va li ra, đập vào mắt cậu là màu sắc tươi sáng của nhũng hình thù hoa lá, là sự bùng nổ rực rỡ của mùa hè.

Chính là họ muốn trở thành những người như thế. Rám nắng, thư thái, cơ thể không bị đè nặng bởi áo khoác, giày ủng và sự mong đợi của người khác. Họ sẽ thưởng thức những thứ đồ uống với tên gọi kỳ quặc trong những ly cocktail và dành cả buổi chiều trong bể bơi khách sạn cho tới khi da họ đẫm mùi nắng và mùi clo. Họ sẽ làm tình trong một căn hộ mát lạnh nhờ máy điều hòa nhưng ấm áp bởi những tia nắng xuyên qua rèm cửa, và buổi tối khi tiết trời dịu lại, họ sẽ diện những bộ bảnh nhất và đi dạo dọc theo khu Strip. Brendan như đang nhìn thấy hai người họ, từ xa, trên một tòa nhà cao tầng nhìn xuống đôi tình nhân đang đi dạo dưới những ánh đèn nê ông trắng xóa, hắt xuống vệ đường thành những vệt lóng lánh màu đỏ, vàng và xanh. Đôi tình nhân đó chính là Brendan và Katie, lười biếng đi dạo giữa đại lộ rộng lớn, với những tòa nhà bao quanh, giữa tiếng người nói, tiếng đồng xu kêu leng keng lọt ra từ các sòng bạc.

Tối nay em muốn đi thử vận may ở đâu?

Anh chọn đi.

Không, em chọn đi.

Thôi mà, anh chọn đi.

Thôi được. Chỗ này vậy, được không?

Trông có vẻ được đấy.

Vậy thì chỗ này đi, nhé.

Em yêu anh, Brendan.

Anh cũng yêu em, Katie.

Và rồi họ sẽ bước lên những bậc thang trải thảm giữa những hàng cột trắng vào trong tòa dinh thự ồn ã, náo nhiệt đầy khói thuốc kia. Họ cùng làm chuyện này với tư cách là chồng và vợ, bắt đầu cuộc sống chung của mình, dù vẫn chỉ là hai đứa trẻ, nhưng khu East Buckingham đã cách họ hàng triệu cây số và ngày càng xa dần sau mỗi bước chân.

Mọi việc đáng lẽ phải xảy ra như thế.

Brendan ngồi sụp xuống sàn. Cậu cần phải ngồi xuống một lát. Chỉ một lát thôi. Cậu ngồi đó, chụm hai đế giày vào nhau rồi ôm lấy hai mắt cá chân giống như động tác một đứa trẻ con vẫn hay làm. Cậu khẽ đu đưa người đằng trước ra đằng sau, cằm gục xuống ngực và cảm thấy nỗi đau dường như dịu đi trong chốc lát. Cậu tìm thấy một chút yên tĩnh trong bóng tối và tư thế ngồi đu đưa của mình.

Rồi khoảnh khắc ấy trôi qua và nỗi kinh hoàng khi nghĩ tới việc Katie biến mất khỏi thế giới này – một cách vĩnh viễn – bắt đầu ngấm vào trong máu cậu như một thứ độc dược khiến cậu hoàn toàn suy sụp.

Trong nhà có một khẩu súng. Súng của cha cậu, và mẹ cậu đã để nó đằng sau một tấm lót trần nhà có thể tháo ra được phía trên tủ bếp nơi cha cậu vẫn thường cất giữ. Chỉ cần ngồi lên trên quầy bếp, với tay lên ngay phía dưới đường gờ mái gỗ cong cong, chạm vào ba thanh gỗ lót ở đó cho tới khi cảm thấy sức nặng của khẩu súng. Sau đó chỉ việc đẩy nó lên rồi thò tay vào dò dẫm một chút là thấy. Khẩu súng đã nằm đó từ lúc nào Brendan cũng không còn nhớ nữa và một trong những ký ức đầu tiên của cậu về nó là một lần khi cậu vừa loạng choạng ra khỏi buồng tắm thì thấy cha mình rụt tay từ trên trần nhà xuống. Brendan từng lôi khẩu súng đó ra cho anh bạn, Jerry Diventa, xem hồi mười ba tuổi. Jerry nhìn nó trừng trừng rồi bảo, “Cất nó đi, cất nó đi ngay.” Khẩu súng phủ đầy bụi và có lẽ chưa từng bắn phát nào nhưng Brendan biết chỉ cần lau sạch là có thể sử dụng được.

Đêm nay cậu sẽ lấy khẩu súng đó ra. Cậu sẽ tới quán Café Society nơi Roman Fallow hay lượn lờ, hoặc tới của hàng Atlantic Auto Glass nơi Bobby O’Donnell làm chủ và theo như Katie cũng là nơi hắn tiến hành phần lớn các giao dịch của mình ở văn phòng phía sau. Cậu có thể tới một trong hai chỗ đó – hoặc tốt nhất là tới cả hai nơi – chĩa khẩu súng của bố cậu vào mặt từng thằng rồi bóp cò, hết lần này tới lần khác cho tới khi hết đạn và Roman và Bobby sẽ không bao giờ còn có thể giết hại một người phụ nữ nào nữa.

Cậu có thể làm được điều đó? Hay là không? Trong phim họ vẫn làm thế. Bruce Willis chẳng hạn, nếu kẻ nào sát hại người yêu của anh ta, anh ta hẳn sẽ không ngồi trên sàn nhà, ôm lấy chân, đong đưa như một thằng nhóc có vấn đề. Anh ta hẳn sẽ súng ống sẵn sàng tìm hắn để thanh toán. Phải vậy không?

Brendan hình dung ra khuôn mặt béo ú của Bobby đang cầu xin trước mắt mình. Xin đừng, Brendan! Làm ơn, xin đừng ra tay!

Và Brendan sẽ đáp lại mấy câu rất hay kiểu, “Cứ van xin đi đồ khốn. Cứ van xin tới tận địa ngục đi.”

Rồi Brendan bắt đầu khóc, người vẫn đu đưa, hai tay vẫn ôm chân vì cậu biết mình không phải là Bruce Willis và Bobby O’Donnell là một người bằng xương bằng thịt, không phải một nhân vật trong phim và khẩu súng cần phải được lau chùi cẩn thận mà cậu thì thậm chí còn chẳng biết trong súng có đạn hay không hay làm thế nào để mở chốt lắp ổ đạn ra, rồi khi bóp cò thì liệu có run tay không. Liệu nó có run bần bật như cú nắm tay của cậu ngày còn bé mỗi khi không tránh khỏi lao vào một cuộc ẩu đả? Cuộc đời không phải là một bộ phim, mà là thực tế tàn khốc. Không giống như nhân vật chính diện trong phim chỉ có hai tiếng để kết thúc bộ phim nên chúng ta đều biết là anh ta sẽ giành thắng lợi. Brendan không biết liệu mình có phải là một người hùng hay không, dù sao cậu cũng chỉ mới có mười chín tuổi và chưa bao giờ gặp phải một thách thức tương tự. Cậu cũng không chắc cậu có thể đàng hoàng đi tới hang ổ của kẻ thù, bắn vào giữa mặt hắn mà không phải bận tâm chuyện cửa khóa hay bên cạnh hắn còn có những tên tay chân khác. Cậu thực sự không dám chắc.

Nhưng cậu nhớ Katie. Cậu nhớ Katie khủng khiếp và chỉ nghĩ tới cô ấy không còn ở bên cạnh cậu nữa, vĩnh viễn không còn ở bên cạnh cậu nữa cậu đã cảm thấy vô cùng đau đớn, cậu cắn chặt răng tới nhức nhối, tới mức cần phải làm gì đó để có được một giây yên bình trong cuộc đời khốn khổ vì không còn Katie này.

Thôi được, cậu quyết định, thôi được, ngày mai ta sẽ đi lau chùi khẩu súng. Ta sẽ lau chùi và kiểm tra xem nó có đạn không. Cứ làm như thế đã. Tạm thời cứ lau súng đi đã.

Ray bước vào phòng, hai chân vẫn đi giày patanh, dùng chiếc gậy khúc côn cầu mới làm gậy chống để đu lên giường. Brendan vội vàng đứng dậy, lau nước mắt trên má.

Ray tháo giày patanh của mình ra, nhìn anh trai rồi dùng tay ra hiệu. “Anh không sao chứ?”

“Không sao,” Brendan nói.

Ray lại ra hiệu. “Em có thể giúp gì cho anh không?”

“Không sao mà, Ray. Không, em không giúp gì được đâu. Nhưng đừng lo lắng gì về chuyện đó.”

“Mẹ nói là như thế lại tốt hơn cho anh.”

“Gì cơ?” Brendan hỏi.

Ray ra hiệu lại.

“Vậy sao? Sao mẹ biết?”

Tay Ray lại ra hiệu tán loạn. “Nếu anh mà đi, mẹ chắc điên mất.”

“Rồi mẹ sẽ vượt qua được thôi.”

“Có thể vượt qua, cũng có thể không.”

Brendan nhìn em trai mình ngồi trên giường, mắt dán vào cậu.

“Lúc này, đừng có làm anh bực mình, nghe chưa?” Cậu cúi sát vào mặt em trai, trong đầu vẫn nghĩ tới khẩu súng đó. “Anh yêu cô ấy.”

Ray nhìn lại, gương mặt vô hồn giống như một chiếc mặt nạ bằng cao su.

“Em có biết yêu một người là như thế nào không hả Ray?”

Ray lắc đầu.

“Nó giống như đã biết hết mọi đáp án ngay giây phút ngồi xuống bàn làm bài thi. Giống như biết rằng mọi chuyện sẽ diễn ra suôn sẻ suốt quãng đời còn lại. Rằng ta sẽ ghi điểm. Rằng ta sẽ sống rất tốt. Rằng cả đời này ta sẽ sống thoải mái, dễ chịu vì ta là người chiến thắng.” Brendan nói và quay đi chỗ khác. “Yêu một người là như vậy đó.”

Ray gõ tay vào thành giường để Brendan quay ra nhìn mình rồi ra hiệu. “Sau này anh sẽ có lại cảm giác đó.”

Brendan quỳ xuống, gí mặt vào gần mặt Ray. “Không, sẽ không bao giờ có được cái cảm giác đó nữa. Mày cố mà nhớ lấy điều này. Không bao giờ.”

Ray co hai chân lên giường rồi lùi vào trong khiến Brendan cảm thấy xấu hổ vì phản ứng của mình nhưng vẫn không nguôi giận dữ vì nói chuyện với những người bị câm là như vậy – họ tạo cho chúng ta cảm giác ngớ ngẩn khi mở miệng. Tất cả những gì Ray muốn nói đều luôn ngắn gọn súc tích, đúng với ý định của nó. Thằng bé không biết thế nào là lúng túng tìm từ hay nói năng lẫn lộn vì phát ngôn của nó thường nhanh hơn suy nghĩ.

Brendan thì lại muốn tuôn trào, muốn ồ ạt tuôn ra những lời say đắm, nồng nàn nhưng hoàn toàn chân thực, như tấm chân tình của cậu dành cho Katie, rằng cô ấy có ý nghĩa như thế nào đối với cậu, về cái cảm giác tuyệt vời khi áp mũi lên gáy cô trên chính cái giường này, cái cảm giác được lồng hai bàn tay vào nhau hay khi lau đi vệt kem dính trên cằm cô ấy và ngồi bên cạnh cô ấy trong xe ô tô nhìn mắt cô ấy dáo dác mỗi khi tới ngã tư, nghe cô ấy nói chuyện, nghe cô ấy ngủ, nghe cô ấy ngáy và mọi thứ.

Cậu những muốn tiếp tục lải nhải như thế hàng giờ. Cậu muốn có ai đó lắng nghe chúng và hiểu rằng lời nói không chỉ có tác dụng truyền đạt ý tưởng hay quan điểm. Nó đôi khi còn là cố gắng truyền tải cả một cuộc đời. Và cho dù trước khi mở miệng đã biết rằng mình sẽ thất bại, người ta vẫn muốn thử. Vì chúng ta không thể làm gì hơn thế.

Thế nhưng với Ray thì không có cách nào khiến thằng bé hiểu được tất cả những điều đó. Từ ngữ đối với Ray chỉ là cử động của những ngón tay, của bàn tay giơ lên, hạ xuống, xua đi một cách linh hoạt. Ray không phí từ ngữ. Nó không cần phải giao thiệp. Chỉ cần diễn đạt chính xác những gì mình muốn và thế là xong. Bộc lộ tâm trạng xúc động, đau thương trước khuôn mặt trơ lì, không cảm xúc của thằng bé đủ khiến Brendan cảm thấy hổ thẹn. Sẽ không giúp cậu khá lên được chút nào.

Cậu nhìn xuống đứa em trai đang sợ hãi lùi lại trên giường, quan sát cậu bằng đôi mắt ốc nhồi của nó, rồi chìa tay ra giảng hòa.

“Anh xin lỗi,” cậu nói và nghe thấy giọng mình như sắp hết hơi. “Anh xin lỗi, Ray. Được không? Anh không định quát em.”

Ray nắm lấy tay anh mình và đứng dậy.

“Thế là không có chuyện gì nữa chứ?” Ray dùng tay ra hiệu, mắt vẫn không rời khỏi Brendan như sẵn sàng lao qua cửa sổ nếu cơn giận của anh trai lại bùng phát.

“Không có chuyện gì nữa,” Brendan cũng dùng tay ra hiệu lại. “Ổn rồi, không có gì nữa.”

Bình luận
× sticky