Ngày hôm sau, Paul đến bệnh viện vào giữa buổi sáng. Arthur đợi anh trong phòng, quần áo đã mặc chỉnh tề.
– Sao cậu lâu thế!
– Tớ đứng dưới kia một tiếng đồng hồ rồi. Người ta bảo tớ rằng cậu không thể ra viện trước khi các bác sĩ đi tua vào lúc mười giờ, vì thế tớ không thể lên sớm hơn được.
– Các bác sĩ qua đây rồi.
– Cái ông già hay càu nhàu có đến đây không?
– Không, từ khi mổ xong tớ không thấy ông ấy, một đồng nghiệp của ông ấy điều trị cho tớ. Ta đi chứ? Tớ chán ở đây lắm rồi.
Lauren đi ngang qua đại sảnh bằng những bước đi dứt khoát. Cô cho thẻ của mình vào máy điện từ và bước vào sau quầy đón tiếp. Betty ngẩng đầu lên khỏi đống hồ sơ.
– Ông Fernstein ở đâu vây? – cô hỏi bằng một giọng kiên quyết.
– Chị biết câu nói “đón trước tai hoạ”, nhưng em thì lại còn chạy đi tìm tai hoạ nữa!
– Chị trả lời câu hỏi của em đi!
– Chị thấy ông ấy đi lên phòng làm việc, ông ấy phải lấy những giấy tờ gì đó, ông ấy nói với chị là sẽ đi ngay.
Lauren cảm ơn Betty và đi ra thang máy.
° ° °
Giáo sư ngồi sau bàn làm việc. Ông đang thảo một bức thư. Có tiếng gõ cửa. Ông đặt bút xuống và đứng dậy ra mở cửa. Lauren bước vào ngay.
– Tôi tưởng cô bị cấm đến bệnh viện này vài ngày nữa chứ? Có lẽ tôi tính sai chăng – giáo sư nói.
– Một bác sĩ nói dối bệnh nhân của mình thì sẽ phải chịu hình phạt nào ạ?
– Cũng tuỳ, phải xem điều đó có vì lợi ích của người bệnh không.
– Nhưng nếu đó là vì lợi ích của bác sĩ thì sao ạ?
– Tôi sẽ cố tìm hiểu xem lý do gì đã khiến cho ông ta làm như vậy.
– Thế nếu như bệnh nhân này lại cũng là học trò của bác sĩ ấy?
– Nếu vậy thì ông ta không còn đáng tin gì nữa. Trong trường hợp này, tôi nghĩ tôi sẽ khuyên ông ta tự xin thôi việc, hoặc là về hưu.
– Tại sao thầy lại giấu em sự thật?
– Tôi đang viết chuyện đó cho cô đây.
– Em đang ở trước mặt thầy, vậy thầy cứ nói với em.
– Hẳn là cô đang nghĩ đến cái anh chàng kỳ dị hồi trước suốt ngày trong phòng bệnh của cô. Sau khi do dự không biết có nên nhốt anh ta lại vì bệnh sa sút trí tuệ sớm hay không, tôi đã bằng lòng với việc vô hiệu hoá anh ta. Nếu tôi để anh ta kể cho cô nghe câu chuyện của anh ta, cô có khả năng dám làm những buổi thôi miên để tìm hiểu cho rõ chuyện đó lắm! Tôi kéo cô ra khỏi cơn hôn mê không phải để rồi cô lại tự chìm vào đó.
– Vớ vẩn! – Lauren kêu lên và đấm tay xuống bàn làm việc của giáo sư – Thầy nói thật với em đi!
– Cô muốn nghe sự thật thực à? Tôi báo trước cho cô biết là nó không dễ nghe đâu.
– Không dễ nghe đối với ai?
– Đối với tôi! Trong khi tôi duy trì sự sống cho cô ở bệnh viện của tôi, anh ta lại khẳng định là anh ta sống cùng cô ở bên ngoài! Mẹ cô cam đoan với tôi rằng anh ta không quen biết cô trước khi cô bị tai nạn, nhưng khi anh ta nói với tôi về cô, mỗi một lời nói của anh ta đều chứng tỏ điều ngược lại. Cô có muốn nghe điều khó tin nhất không? Anh ta tỏ ra thuyết phục đến nỗi suýt nữa thì tôi đã tin vào câu chuyện ngụ ngôn ấy.
– Thế nếu như chuyện đó là có thật?
– Vấn đề chính là ở đó, nếu vậy thì tôi đã không đủ sức để hiểu.
– Chính vì thế mà thầy đã nói dối em suốt thời gian vừa qua?
– Tôi không nói dối, tôi bảo vệ cô trước một sự thật không thể chấp nhận nổi.
– Thầy đã đánh giá thấp em!
– Đây không phải là lần đầu tiên như vậy, chẳng lẽ cô lại trách móc tôi về điều đó?
– Tại sao thầy không thử tìm cách hiểu?
– Ô hay, để làm gì cơ chứ! Chính tôi mới tự đánh giá thấp mình đây. Cô còn cả cuộc đời trước mặt để huỷ hoại sự nghiệp của mình bằng việc cố làm sáng tỏ điều bí ẩn này. Tôi có biết một vài sinh viên xuất sắc đã muốn làm y học tiến triển quá nhanh. Tất cả bọn họ đều đã tự làm tiêu tan sự nghiệp của mình. Sẽ có ngày cô hiểu ra rằng, trong nghề của chúng ta, thiên tài không nổi bật hơn người bằng cách đẩy lùi những giới hạn của tri thức, mà bằng cách làm được việc đó với một nhịp điệu không làm đảo lộn cả đạo lý lẫn trật tự đã được thiết lập.
– Tại sao lại phải bỏ cuộc?
– Tại vì cô sẽ còn sống lâu còn tôi thì sắp chết rồi. Một phương trình thời gian đơn giản.
Lauren im bặt. Cô nhìn vị giáo sư già của mình, nước mắt rưng rưng.
– Tôi xin cô, tránh cho tôi chuyện đó! Chính vì thế mà tôi thích viết cho cô hơn đấy. Chúng ta đã trải qua những tháng năm tốt đẹp cùng nhau, tôi sẽ không để cho cô có kỷ niệm cuối cùng là về một ông giáo sư già ốm o bệnh tật.
Cô bác sĩ trẻ đi vòng qua bàn làm việc và ôm lấy Fernstein. Ông đứng, tay buông thõng. Và rồi, một cách hơi vụng về, rốt cuộc ông cũng ôm lấy cô học trò của mình và nói thầm vào tai cô:
– Cô là niềm tự hào của tôi, thành công lớn nhất của tôi, đừng bao giờ bỏ cuộc! Một khi cô còn đây thì tôi còn tiếp tục sống với cô. Sau này, cô cần phải giảng dạy; cô có tầm cỡ và tài năng để làm việc đó; kẻ thù duy nhất của cô là cá tính của cô, nhưng với thời gian thì cũng sẽ ổn thôi! Cứ nhìn mà xem, tôi xoay xở cũng không đến nỗi tồi, nhưng cô mà biết tôi lúc tôi bằng tuổi cô bây giờ nhỉ! Thôi, bây giờ cô hãy đi đi và đừng ngoái lại. Tôi muốn khóc vì cô lắm, nhưng tôi không muốn cô nhận ra điều đó.
Lauren ôm siết Fernstein thật chặt.
– Em biết làm sao đây nếu không có thầy? Em còn có thể cự nự với ai được nữa? – Lauren vừa nói vừa khóc nức nở.
– Rồi cô cũng đi lấy chồng thôi mà!
– Thứ Hai thầy không còn ở đây nữa à?
– Tôi còn chưa chết đâu, nhưng tôi sẽ đi khỏi đây. Chúng ta sẽ không gặp lại nhau nữa, nhưng chúng ta sẽ thường xuyên nghĩ đến nhau, tôi tin chắc là như vậy.
– Em chịu ơn thầy biết bao nhiêu.
– Không đâu – Fernstein nói và bước xa ra đôi chút – Cô chỉ cần cảm ơn chính mình thôi. Điều mà tôi đã dạy cho cô, bất cứ giáo sư nào khác cũng có thể dạy cho cô được, chính cô đã làm nên sự khác biệt. Nếu cô không phạm phải những sai lầm giống tôi, cô sẽ là một thầy thuốc lớn.
– Thầy chẳng phạm một sai lầm nào cả.
– Tôi đã để Norma phải chờ đợi quá lâu, giá như tôi để cho cô ấy bước vào đời tôi sớm hơn, giá như tôi bước vào đời cô ấy, tôi đã có thể là một cái gì đó hơn là một giáo sư giỏi.
Ông quay lưng lại và đưa tay ra hiệu, đã đến lúc cô phải đi. Và như đã hứa, Lauren rời phòng làm việc của ông mà không ngoái lại.
° ° °
Paul lái xe đưa Arthur về nhà. Ngay sau khi bà Morrison xuất hiện cùng với con Pablo, anh bèn phóng đến chỗ làm việc. Ngày thứ Sáu bao giờ cũng ngắn và anh còn có một đống hồ sơ đang bị chậm trễ. Trước lúc Paul đi, Arthur đề nghị Paul một đặc ân cuối cùng, một điều mà anh đã mơ ước từ mấy ngày.
– Chúng ta sẽ xem sức khoẻ cậu sáng mai thế nào đã. Tối nay tớ sẽ qua thăm cậu. Bây giờ thì nghỉ ngơi đi.
– Thì tớ chỉ làm có mỗi việc nghỉ ngơi thôi đấy chứ!
– Thế thì cứ tiếp tục như vậy đi!
° ° °
Lauren tìm thấy một phong bì làm bằng loại giấy cứng nằm trong hòm thư của cô. Cô vừa đi lên cầu thang vừa bóc thư ra. Bước vào nhà, cô rút từ trong phong bì ra một bức ảnh lớn, kèm theo một bức thư ngắn.
Trong suốt thời gian hành nghề của tôi, tôi đã giải quyết phần lớn các câu đố bằng cách tìm kiếm giải pháp ngay tại nơi xảy ra vụ án. Đây là bức ảnh và địa chỉ của ngôi nhà, nơi tôi đã tìm thấy cô. Tôi mong cô kín đáo cho. Hồ sơ này đã bị thất lạc do sơ ý…
Chúc may mắn.
George Pilguez.
Thanh tra cảnh sát về hưu
Tái bút: Cô không hề thay đổi.
Lauren đóng phong bì lại, nhìn đồng hồ đeo tay và lập tức đi ra tủ quần áo. Trong lúc chuẩn bị túi hành lý, cô gọi điện thoại cho mẹ.
– Đó không phải là một ý hay đâu, con biết không. Cái lần cuối cùng mà con đi nghỉ cuối tuần ở Carmel ấy…
– Mẹ ơi, con chỉ nhờ mẹ trông Kali thêm ít nữa thôi mà.
– Con đã bảo mẹ phải hứa không được sợ con, nhưng con không thể cấm mẹ lo cho con được. Con phải cẩn thận nhé và đến đó thì gọi điện cho mẹ biết là con đã đến nơi.
Lauren dập máy. Cô quay lại tủ quần áo và rướn người để với mấy cái túi du lịch khác. Cô bắt đầu nhồi vào túi những xấp quần áo và khá nhiều đồ đạc.
° ° °
Arthur mặc vào người quần dài và áo sơ mi. Anh đi những bước đầu tiên trên đường phố, khoác tay bà Rose. Sau lưng họ, Pablo kéo căng sợi dây buộc cổ, dùng bốn chân để kìm lại.
– Chúng ta sẽ xem nốt phần cuối phim khi mày làm xong cái việc mà mày phải làm! – Bà Morrison nói với con chó của mình.
° ° °
Cánh cửa căn hộ mở ra. Robert bước vào phòng khách. Anh đến sau lưng Lauren và vòng tay ôm cô.
Lauren giật nảy mình.
– Anh không muốn làm em sợ!
– Nhưng anh đã làm rồi đấy.
Robert nhìn đống hành lý chất giữa phòng.
– Em đi xa à?
– Chỉ đi hai ngày cuối tuần thôi.
– Thế mà em cần tất cả những cái túi này?
– Chỉ có cái túi đỏ ở cửa ra vào thôi, những túi khác là của anh đấy.
Cô đến gần anh và đặt hai tay lên vai anh.
– Anh nói với em là mọi thứ đã thay đổi kể từ khi em bị tai nạn, nhưng điều đó không đúng. Ngay cả trước đó chúng ta cũng đã chẳng hạnh phúc mấy. Về phần em thì nghề nghiệp của em đã ngăn cản em nhận ra điều đó. Điều khiến em thấy lạ lùng là cả anh cũng chẳng nhận ra.
– Vì anh yêu em chăng?
– Không, cái mà anh đang yêu là việc chúng mình làm thành một đôi, chúng mình che chở cho nhau khỏi sự cô đơn.
– Như vậy đâu đến nỗi tồi.
– Nếu anh thành thực, anh sẽ sáng suốt hơn. Em muốn anh đi thôi, Robert. Em đã sắp xếp đồ đạc của anh để anh đem về nhà anh.
Robert nhìn cô, vẻ bối rối:
– Vậy là xong hẳn đấy, em đã quyết định chấm dứt rồi?
– Không, em nghĩ là chúng ta đã cùng quyết định điều đó, em là người đầu tiên nói hẳn ra, thế thôi.
– Em không muốn cho chúng mình có được cơ hội thứ hai sao?
– Nếu vậy đó sẽ là cơ hội thứ ba. Đã rất lâu rồi chúng ta không bằng lòng với việc ở bên nhau, nhưng đó là một tiện nghi không đủ, giờ đây em cần tình yêu.
– Anh có thể ở lại đây đêm nay được không?
– Anh thấy chưa, người đàn ông của đời em thì sẽ chẳng bao giờ đặt ra câu hỏi này.
Lauren cầm lấy túi hành lý của mình. Cô hôn lên má Robert và ra khỏi nhà, không ngoái lại.
Động cơ của chiếc xe kiểu Anh cũ kỹ nổ ngay lập tức. Cửa gara nâng lên và chiếc Triumph phóng vọt ra phố Green. Đến góc phố thì xe rẽ. Trên vỉa hè, một con chó giống jack russell đang chạy lon ton về phía công viên nhỏ, một người đàn ông và một bà lão đi ngang qua phía sau một cây tiêu huyền.
Đến gần bốn giờ chiều, cô đi vào đường số 1, con đường chạy dọc Thái Bình Dương. Xa xa, những vách đá dường như nổi bật lên trong sương mù, như một dải đăng ten tối sẫm viền lửa.
Cô đến một thành phố gần như vắng ngắt khi chiều buông xuống. Cô đỗ xe ở khu vực đậu xe dọc bãi biển và ra ngồi một mình trên đê chắn sóng. Những đám mây lớn bao phủ chân trời. Đằng xa, bầu trời đang chuyển từ màu tím nhạt sang màu đen.
Đầu buổi tối, cô vào khách sạn Carmel Valley. Nhân viên tiếp đón trao cho cô chìa khoá một ngôi nhà bungalow 1 nằm nhô lên trên vịnh Carmel. Lauren đang dỡ hành lý trong túi ra thì những tia chớp đầu tiên loé lên trên bầu trời. Cô chạy ra ngoài để đưa chiếc Triumph của mình vào chỗ có mái che rồi đi vào nhà dưới trời mưa như trút nước. Quấn trong một chiếc áo choàng bằng sợi bông dày, cô gọi điện đặt một khay đồ ăn rồi ngồi trước tivi. Kênh ABC đang phát bộ phim yêu thích của cô. An Affair to Remember. Cô thả mình theo những giọt mưa gõ vào ô cửa kính. Đến chỗ Cary Grant rốt cuộc cũng đặt nụ hôn lên môi Deborah Kerr, cô với lấy cái gối và ôm chặt vào người.
Trời tạnh mưa vào lúc sáng sớm. Trong khu công viên rộng lớn, nước giọt xuống từ những hàng cây và Lauren thì vẫn chưa ngủ được. Cô mặc quần áo vào, khoác lên vai một chiếc áo mưa và ra khỏi phòng.
Ôtô chạy nốt những phút cuối cùng của cái đêm dài ấy, đèn pha rọi sáng những dải màu da cam và trắng xen kẽ nhau ở mỗi chỗ ngoặt xẻ sâu vào vách đá. Phía xa, cô phỏng đoán những con đường viền quanh khu nhà và lái xe đi vào một con đường đất nện. Đến khúc ngoặt của một đường cong, cô đỗ xe lại ở một chỗ thụt vào, giấu ôtô sau rặng bách. Cái cổng sắt màu xanh lá cây sừng sững trước mặt cô. Cô đẩy cánh cửa chấn song sắt được khép lại bởi một sợi dây thừng nhỏ buộc vào với tấm biển ghi địa chỉ của một hãng bất động sản ở vịnh Monterrey. Lauren lách người vào giữa hai cánh cửa.
Cô ngắm nhìn khung cảnh xung quanh cô. Những luống đất đỏ to, trồng một vài cây thông lọng hay thông bạc, cây cù tùng, cây lựu và cây minh tuyết, dường như lan ra đến tận biển. Cô đi theo chiếc cầu thang nhỏ bằng đá ven đường. Đến nửa đường, cô đoán ra được dấu tích còn lại của một vườn hoa hồng phía bên tay phải. Vườn hoa bị bỏ hoang nhưng vô số mùi hương quyện vào nhau gợi lên theo mỗi bước chân một vũ điệu farandole của những kỷ niệm. Những cây to trĩu xuống dưới làn gió nhẹ buổi bình minh.
Trước mặt cô, cô nhìn thấy ngôi nhà cửa sổ đóng kín mít. Cô tiến đến bên thềm, trèo lên mấy bậc thang và dừng lại dưới mái hiên. Đại dương dường như muốn đập vỡ những mỏm đá, các đợt sóng cuốn đi những đám rong rêu quyện lẫn những búi lá kim. Gió lùa vào tóc cô, cô hất tóc lại về phía sau.
Cô vòng quanh nhà, tìm cách đi vào. Tay cô lướt nhẹ trên mặt tường, những ngón tay cô dừng lại trên một miếng chêm, dưới một cánh cửa sổ. Cô rút miếng chêm vào cánh cửa gỗ mở ra với tiếng kêu ken két ở bản lề.
Lauren áp đầu vào cửa kính. Cô thử nâng tấm cửa kính kiểu “máy chém” lên; kiên quyết, cô nhẹ nhàng kéo chốt cửa ra, nó liền trượt theo cái rãnh dành cho nó. Không còn gì ngăn cản cô luồn vào nhà nữa.
Cô khép lại tấm cửa gỗ và cửa kính phía sau mình. Rồi cô đi xuyên qua căn phòng làm việc nhỏ, liếc mắt nhìn thoáng qua chiếc giường rồi đi ra.
Cô bước chậm rãi trong hành lang, sau những bức tường, mỗi căn phòng chứa đựng một bí mật. Và Lauren tự hỏi không biết cái cảm giác gần gũi này xuất phát từ câu chuyện được kể trong một căn phòng bệnh viện hay từ xa hơn nữa.
Cô vào bếp, tim đập mạnh hơn; cô nhìn xung quanh mình, mắt đẫm lệ. Trên bàn, một ấm pha cà phê kiểu Ý trông có vẻ quen thuộc đối với cô. Cô ngập ngừng, cầm cái ấm lên, vuốt nhẹ rồi lại đặt xuống.
Cánh cửa tiếp theo mở vào phòng khách. Một cây đàn dương cầm dài nằm im lìm trong bóng tối của căn phòng. Cô rụt rè bước lại gần, ngồi trên ghế; những ngón tay cô đặt lên phím đàn dạo những nốt nhạc yếu ớt đầu tiên trong bản “Ánh trăng” của Werther. Cô quỳ xuống tấm thảm và để bàn tay lướt nhẹ trên những sợi tơ len.
Cô đi xem lại từng chỗ một, trèo lên trên gác, chạy từ phòng này sang phòng khác; và dần dần, những kỷ niệm của ngôi đã biến thành khoảnh khắc hiện tại.
Một lát sau, cô đi xuống cầu thang và trở lại phòng làm việc. Cô nhìn chiếc giường, bước từng bước lại gần chiếc tủ tường và đưa tay ra. Cô chỉ khẽ chạm vào nắm đấm, cửa tủ đã bắt đầu xoay. Dưới mắt cô, ánh lên hai ổ khoá của một chiếc vali nhỏ màu đen.
Lauren ngồi xếp hàng, cô kéo hai cái chốt, và nắp vali mở ra.
Trong vali đầy các đồ vật đủ kích cỡ, có những bức thư, một vài tấm ảnh, một chiếc máy bay làm bằng bột nặn, một chuỗi vòng cổ bằng vỏ ốc, một chiếc thìa bạc, những chiếc giày cho trẻ sơ sinh và một cặp kính râm loại cho trẻ em. Một chiếc phong bì làm bằng giấy Rives có đề tên cô. Cô cầm phong bì trong tay, hít mùi giấy, bóc phong bì và bắt đầu đọc.
Theo những dòng chữ, cô khám phá ra một bàn tay run rẩy, những mảnh kỷ niệm cuối cùng đã tái hợp lại thành một câu chuyện…
Cô bước lại giường và ngả đầu lên gối, để đọc lại và đọc lại nữa trang cuối cùng, với những dòng chữ sau:
… Câu chuyện đã khép lại như vậy đó, với nụ cười của em và khoảng thời gian của một sự vắng mặt. Anh vẫn còn nghe thấy những ngón tay em dạo trên phím dương cầm của tuổi thơ anh. Anh đã tìm em khắp nơi, cả ở những nơi khác nữa. Anh đã tìm thấy em, dù anh ở đâu, anh ngủ thiếp đi và trong cái nhìn của em. Da thịt em là da thịt của anh. Với hai nửa của chúng ta, chúng ta đã sáng tạo ra những lời hứa hẹn; cùng nhau, chúng ta đã từng là ngày mai của chúng ta. Từ đây,anh biết là những giấc mơ điên rồ nhất được viết nên bằng thứ mực của trái tim. Anh đã sống ở nơi mà những kỷ niệm được xây đắp chung đôi, xa ánh mắt người đời, trong bí mật của một điều thầm kín riêng tư duy nhất, nơi em vẫn còn ngự trị.
Em đã cho anh cái mà anh chưa từng ngờ tới, một khoảng thời gian mà mỗi giây phút bên em đều có ý nghĩa trong đời anh hơn tất cả những giây phút khác. Sẽ có ngày em nhớ lại được không? Anh đã yêu em đến mức mà anh chưa từng tưởng tượng nổi rằng có thể yêu như vậy. Em bước vào đời anh như người ta bước vào mùa hè.
Anh không thấy tức giận, không thấy hối tiếc. Những khoảnh khắc mà em đã cho anh có một cái tên, tuyệt diệu. Nó vẫn mang cái tên này, nó được làm từ sự vĩnh cửu của em. Dù không có em, anh cũng sẽ không bao giờ còn đơn độc nữa, bởi vì em tồn tại ở một nơi nào đó.
Arthur.
Lauren nhắm mắt lại, áp tờ giấy vào mình. Một lúc lâu sau đó, giấc ngủ bị thiếu hồi đêm cuối cùng đã đến với cô.
° ° °
Buổi trưa, một luồng ánh sáng vàng rực rọi vào qua khe cửa chớp. Tiếng bánh xe ôtô kêu in ít trên đường sỏi, trước cổng vào. Lauren giật nảy mình. Cô vội vàng tìm một chỗ an toàn để trốn.
° ° °
– Tớ đi lấy chìa khoá rồi sẽ quay lại mở cửa cho cậu – Arthur vừa nói vừa mở cánh cửa xe Saab.
– Cậu không muốn để tớ đi à? – Paul đề nghị.
– Không, cậu không biết mở cửa sổ đâu, phải có mẹo đấy.
Paul xuống ôtô, anh mở thùng xe và lấy cái túi đựng dụng cụ.
– Cậu làm cái gì vậy? – Arthur vừa đi vừa hỏi.
– Tớ sẽ tháo cái biển “bán nhà” đi, nó che mất tầm nhìn.
– Đợi một phút nhé, tớ sẽ mở cửa cho cậu – Arthur nói tiếp và đi về phía cánh cửa sổ đóng kín.
– Cứ thong thả, ông bạn! – Paul trả lời, tay cầm một cái cờ lê.
° ° °
Arthur đóng cửa sổ lại và đi lấy cái chìa khoá dài để trong chiếc vali đen. Anh mở cửa tủ và giật nảy mình. Một con cú nhỏ màu trắng đậu trên bàn tay từ trong bóng tối hướng thẳng vào anh, cái nhìn được giấu sau một cặp kính râm trẻ em mà Arthur nhận ra ngay lập tức.
– Tôi nghĩ là nó đã khỏi bệnh rồi, nó sẽ không bao giờ sợ ánh sáng ban ngày nữa – một giọng nói rụt rè ẩn trong bóng tối cất lên.
– Tôi sẵn lòng tin điều đó lắm, cái kính này chính tôi đã từng đeo cơ mà; có thể nhìn thấy qua đó những điều kỳ diệu đủ màu sắc.
– Hình như vậy đó! – Lauren trả lời.
– Tôi hoàn toàn không muốn tò mò đâu, nhưng cô với chú cú này làm gì ở đây vậy, cả hai vị?
Cô bước lên một bước và ra khỏi bóng tối.
– Điều mà tôi sắp nói với anh đây không phải là dễ nghe, thật khó mà chấp nhận, nhưng nếu anh vui lòng nghe câu chuyện của chúng ta, nếu anh vui lòng dành cho em sự tin cậy, thì có thể cuối cùng anh sẽ tin em, và điều đó rất quan trọng, bởi vì bây giờ em đã biết, anh là người duy nhất trên đời mà em có thể chia sẻ bí mật này.
Và thế là Arthur cũng bước vào trong tủ…