Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Ngày Đầu Tiên

Chương 11

Tác giả: Marc Levy

Amsterdam

Người đàn ông đang xuống xe điện để đi bộ ngược lên đầu kênh Singel có vẻ bề ngoài bình thường như bất cứ ai đang trên đường rời nơi làm việc trở về nhà. Ngoại trừ việc lúc bấy giờ đã là tối muộn, ngoại trừ sợi dây xích nhỏ nối giữa quai của chiếc túi đeo vai với cổ tay, ngoại trừ khẩu súng lục nằm trong bao bên dưới lần áo vest. Đến quảng trường Magna, ông dừng lại trước cột đèn giao thông để biết chắc là không ai theo dõi mình. Ngay khi đèn chuyển sang màu xanh, ông bước nhanh xuống mặt đường. Không thèm để ý những tiếng còi xe, ông luồn lách giữa một chiếc xe buýt và một chiếc xe tải nhỏ, buộc hai chiếc xe ô tô phải phanh khựng lại và vừa kịp tránh một người lái mô tô đang rủa xả ông như tát nước. Sang đến vỉa hè phía đối diện, ông rảo bước đến quảng trường Dam, băng qua khoảng không gian rộng của quảng trường rồi lẻn vào bên trong Nhà thờ Mới bằng lối cửa ngách. Tòa nhà thâm nghiêm mang một cái tên kỳ quặc đối với một công trình có từ thế kỷ XV. Người đàn ông không đủ thời gian chiêm ngưỡng gian giữa lộng lẫy của nhà thờ, ông đi thẳng đến cánh ngang, vượt qua ngôi mộ của đô đốc Ruyter, rẽ ngay phía trước mộ của thiếu tướng hải quân Jan Van Galen rồi tiến thẳng hướng tiểu hậu cung. Ông rút từ trong túi ra một chiếc chìa khóa, mở then cánh cửa nhỏ nằm ở cuối nhà thờ rồi bước xuống cầu thang bí mật nằm phía sau cánh cửa.

Xuống hết năm mươi bậc, ông lọt vào dãy hành lang đang trải dài trước mắt. Đường hầm này được đào bên dưới Quảng trường Lớn cho phép người nào biết đến sự tồn tại của nó đi từ Nhà thờ Mới đến tận Cung điện Hoàng gia. Người đàn ông rảo bước, đường hầm chật hẹp này luôn khiến ông tức thở mỗi khi phải đi qua, tiếng vọng những bước chân chỉ khiến ông thêm khó chịu. Ông càng tiến về phía trước, ánh sáng càng yếu dần, chỉ có hai đầu hành lang là được chiếu sáng tạm bợ. Người đàn ông cảm thấy đôi giày da lộn của mình sũng thứ nước lợ đang ứ đọng trên nền đất. Đi đến nửa đường, ông thấy xung quanh mình tối đen. Đến đây, ông biết mình sẽ phải đi năm mươi bước về bên phải, rãnh đặt dây cáp trung tâm được dùng làm thiết bị dẫn đường trong bóng tối.

Cuối cùng, khoảng cách thu hẹp lại, phía trước ông hiện ra một cầu thang khác. Những bậc thang trơn tuột và ông phải bám vào sợi gai dầu mảnh chạy dọc tường. Đến bậc thang cuối cùng, người đàn ông thấy đằng trước là cánh cửa gỗ đầu tiên được gia cố bằng những thanh sắt rèn nặng nề. Hai nắm cửa tròn nối tiếp nhau theo chiều dọc; để mở ổ khóa cần phải biết kích hoạt một cơ chế đã tồn tại ba thế kỷ nay. Người đàn ông xoay nắm cửa phía trên sang phải một góc 90 độ, xoay nắm cửa phía dưới sang trái 90 độ rồi kéo cả hai về phía mình. Một tiếng “cạch” vang lên, lưỡi khóa đã nhả. Rốt cuộc ông lọt vào một phòng đợi tại tầng trệt của Cung điện Hoàng gia. Tòa nhà, do Jacob Van Campen[11] thiết kế, được xây dựng từ giữa thế kỷ XVII, thời đó được dùng làm Tòa thị chính. Người dân Amsterdam không do dự coi tòa lâu đài như kỳ quan thứ tám của thế giới. Một bức tượng thần Atlas vươn cao trên phòng lớn của cung điện, trên mặt đất là ba tấm bản đồ khổng lồ bằng đá hoa cương, một tấm là bản đồ Tây bán cầu, tấm kia là bản đồ Đông bán cầu và tấm thứ ba là bản đồ các vì sao.

[11] (1596-1657) kiến trúc sư nổi tiếng người Hà Lan.

Jan Vackeers chẳng bao lâu nữa sẽ bước sang tuổi bảy mươi sáu, nhưng nhìn bề ngoài nom ông như trẻ hơn thế cả chục tuổi. Ông đã vào đến Burgerzaal[12], giẫm lên dải Thiên hà, đi bộ trên châu Đại dương, băng qua Đại Tây dương bằng một bước chân và tiếp tục tiến về phía phòng đợi nơi mình có hẹn.

[12] Tên gọi dùng để chỉ căn phòng lớn trong Cung điện Hoàng gia Hà Lan (chú tích của tác giả).

– Tin tức thế nào? ông hỏi khi bước vào phòng.

– Rất đáng ngạc nhiên, thưa ông. Cô ả người Pháp của chúng ta có quốc tịch kép. Bố cô ta là dân Anh, một nhà thực vật học đã sinh sống phần lớn thời gian tại Pháp. Đã hồi hương tại Cornounailles ngay sau khi ly hôn, ông ta đã chết tại đó vì lên cơn trụy tim năm 1997. Giấy chứng tử và giấy phép mai táng vẫn lưu trong hồ sơ.

– Còn bà mẹ?

– Cũng chết rồi. Bà ta là giảng viên môn Khoa học nhân văn tại Aix-en-Provence. Bà ta chết hồi tháng Sáu năm 2002 vì tai nạn xe hơi. Gã tài xế đâm vào bà ta có lượng cồn trong máu là 1,6 gam.

– Miễn cho tôi những chi tiết vớ vẩn đó đi! Jan Vackeers yêu cầu.

– Một người chị gái, hơn cô ả hai tuổi, đang làm việc trong một bảo tàng tại Paris.

– Viên chức của chính phủ Pháp ư?

– Có thể gọi như thế.

– Sẽ phải tính đến chuyện đó. Anh làm ơn quan tâm đến cô ả khảo cổ học này.

– Cô ả đã tới Luân Đôn để trình diện trước ban giám khảo của Quỹ Walsh.

– Và đúng như chúng ta mong muốn, cô ta đã giành được khoản tiền tài trợ, phải thế không?

– Không hẳn thế, thưa ông, thành viên ban giám khảo về phe với chúng ta đã làm hết khả năng, nhưng bà chủ tịch là người không dễ bị ảnh hưởng. Người được ông che chở phải chia giải thưởng của mình với một ứng cử viên khác.

– Số tiền đó có đủ để cô ta quay lại Êtiôpia không?

– Một triệu bảng Anh, số tiền đó thừa đủ để cô ta tiếp tục theo đuổi những nghiên cứu của mình.

– Tốt lắm. Anh còn gì khác để cho tôi biết không?

– Cô ả khảo cổ học của ông đã làm quen với một người đàn ông trong buổi lễ. Họ đã tiếp tục buổi tối của mình trong một nhà hàng nhỏ và vào giờ này, cả hai người…

– Tôi nghĩ chuyện đó không liên quan tới chúng ta, Vackeers cắt ngang. Trừ khi anh báo cho tôi biết ngày mai cô ta sẽ từ chối kế hoạch lên đường bởi họ đã bị trúng sét ái tình. Những gì cô ta làm vào ban đêm chỉ liên quan đến cô ta thôi.

– Thưa ông, theo thông tin mà chúng ta vừa có được; người đàn ông nói trên là một nhà vật lý thiên văn vẫn đang làm việc tại Học viện Khoa học Hoàng gia Anh.

Vackeers tiến lại gần cửa sổ để ngắm nhìn quảng trường phía dưới. Ông thấy vào ban đêm quảng trường còn đẹp hơn cả ban ngày. Amsterdam là thành phố của ông và ông yêu mến nó hơn bất cứ nơi nào khác. Ông thông thuộc từng ngõ hẻm, từng con kênh, từng tòa nhà của nó.

– Tôi không thích cái loại việc bất ngờ này lắm, ông nói tiếp. Anh vừa nói là nhà vật lý thiên văn à?

– Chẳng có gì chứng tỏ là cô ả nói với hắn về chuyện khiến chúng ta bận tâm.

– Không, nhưng đó là một khả năng mà chúng ta không thể loại trừ. Tôi nghĩ sẽ tốt hơn nếu chúng ta cũng lưu tâm đến nhà khoa học này.

– Sẽ khó để theo dõi hắn mà không lôi kéo sự chú ý từ phía các ông bạn người Anh của chúng ta. Như tôi đã nói với ông, đó là một thành viên của Học viện Khoa học Hoàng gia.

– Hãy làm hết khả năng của mình, nhưng chớ mạo hiểm bất cứ điều gì. Nhất là vì chúng ta không muốn gây chú ý cho bên đó. Còn tin tức nào khác để chia sẻ với tôi không?

– Tất cả đều có trong tập hồ sơ ông đã yêu cầu tôi lập ra.

Người đàn ông mở túi đeo ra rồi trao cho người đối thoại một chiếc phong bì lớn bằng giấy bồi.

Vackeers bóc niêm chiếc phong bì. Những tấm ảnh chụp Keira tại Paris, trước khu chung cư nơi Jeanne sống, tại công viên Tuileries, một vài bức được chụp liên tiếp khi cô đi mua sắm trên phố Lions-Saint-Paul; cuối cùng là một loạt ảnh được chụp từ khi cô đến ga Saint-Pancras, tại sân hiên của tiệm bánh Ý nằm trên phố Bute và chụp qua cửa kính một nhà hàng nằm trên đồi Primrose nơi cô ăn tối cùng Adrian.

– Đó là những bức ảnh cuối cùng được gửi đến trước khi tôi rời khỏi nhiệm sở.

Vackeers đọc lướt những dòng đầu tiên của bản báo cáo rồi đóng tập hồ sơ lại.

– Anh có thể đi được rồi, cảm ơn, mai chúng ta sẽ gặp nhau.

Người đàn ông chào Vackeers rồi rời khỏi phòng chờ của cung điện. Ngay khi gã đi khỏi, một cánh cửa mở ra, một người đàn ông khác bước vào phòng và mỉm cười với Vackeers.

– Cuộc gặp gỡ tình cờ với nhà vật lý thiên văn này có thể có lợi cho chúng ta, người này vừa nói vừa tiến lại gần.

– Tôi tin là ông đang hết sức cố gắng giữ kín toàn bộ chuyện này, hai kỵ binh mà chúng ta không giám sát nổi, như thế là quá nhiều trên một vũ đài duy nhất!

– Mong muốn lớn nhất của tôi lúc này, đó là cô ấy bắt tay vào tìm kiếm, mà không mảy may nghi ngờ là chúng ta đang giúp đỡ đôi chút.

– Ivory, ông thừa biết là nếu có ai đó đoán được việc hai ta đang làm, thì những hậu quả dành cho cả hai sẽ là…

– Khó lường. Đó là từ ông đang tìm chăng?

– Không, tôi định nói là tai hại kìa.

– Jan ạ, cả hai chúng ta có chung một niềm tin đã từ nhiều năm nay. Hãy hình dung những hệ quả, nếu chúng ta có lý!

– Tôi biết điều ấy, Ivory, tôi biết chứ. Chính vì chuyện này mà tôi liều lĩnh đến thế ở cái tuổi này.

– Hãy thừa nhận là chuyện này khiến ông vui đi; nói cho cùng, lẽ ra chúng ta đã không còn hy vọng được hoạt động trở lại. Và ý tưởng dấn bước vào cuộc chơi không hề làm ông chán ghét, với tôi lại càng không.

– Quả có thế thật, Vackeers thở dài rồi ngồi xuống đằng sau chiếc bàn làm việc lớn bằng gỗ gụ. Ông định tiếp theo đây sẽ làm gì?

– Hãy cứ để mặc mọi chuyện diễn ra tuần tự, nếu cô ấy gây hứng thú cho nhà vật lý thiên văn này thì cô ấy còn láu lỉnh hơn tôi tưởng đấy.

– Ông cho chúng ta bao nhiêu thời gian trước khi Luân Đôn, Madrid, Berlin hay Bắc Kinh biết về cuộc đấu đang bắt đầu?

– Ôi, tất cả bọn họ sẽ nhanh chóng hiểu ra rằng cuộc đấu đang diễn ra. Người Mỹ đã xuất đầu lộ diện rồi đấy. Căn hộ của chị gái nhà nữ khảo cổ của chúng ta đã bị viếng thăm hồi sáng nay.

– Lũ ngu đần!

– Đó là cách bọn chúng gửi đi một thông điệp.

– Cho chúng ta ư?

– Cho tôi. Chúng tức giận vì tôi đã để mất dấu vật kia và còn điên tiết hơn vì tôi đã cả gan gửi mẫu vật này đi phân tích ngay trên lãnh thổ riêng của chúng.

– Ông đúng là to gan thật, nhưng tôi xin ông, Ivory, giờ không phải lúc để khiêu khích. Chúng ta không biết mình đang ở đâu, đừng để mối hận dành cho những kẻ đã xua đuổi ông ảnh hưởng đến năng lực phán đoán của ông. Tôi đồng hành cùng ông trong chuyến phiêu lưu điên rồ này, nhưng chúng ta đừng nên mạo hiểm những việc không đâu.

– Gần nửa đêm rồi, tôi tin đã đến lúc chúng ta nói lời tạm biệt, Jan ạ, ba ngày nữa hãy gặp lại nhau tại đây, cùng giờ này, chúng ta sẽ xem mọi chuyện tiến triển thế nào rồi sẽ cùng điểm lại tình hình.

Hai người bạn chia tay nhau. Vackeers rời khỏi phòng chờ trước tiên. Ông lại băng qua căn phòng lớn rồi xuống tầng hầm của tòa nhà.

Hệ thống địa đạo của Cung điện Hoàng gia là một mê cung thực sự. Mười ba nghìn sáu trăm năm mươi chín trụ gỗ chống đỡ tòa nhà. Vackeers luồn lách qua khu rừng lạ lùng tạo thành từ những phiến gỗ này, để rồi mười phút sau lại trồi lên mặt đất thông qua một cánh cửa nhỏ mở ra sân của một ngôi nhà sang trọng cách đó ba trăm mét. Ivory lên đường sau ông năm phút nhưng theo một con đường khác.

Luân Đôn

Nhà hàng đó chỉ còn tồn tại trong ký ức của tôi, nhưng tôi đã tìm thấy một nơi rất xinh xắn giống với nó và Keira cam đoan đã nhận ra nơi trước kia tôi thường dẫn cô ấy tới dùng bữa. Suốt bữa ăn, cô ấy cố kể cho tôi về cuộc sống của cô ấy kể từ khi chúng tôi chia tay nhau. Nhưng làm sao có thể kể hết mười lăm năm trong đời người trong vòng vài tiếng đồng hồ? Trí nhớ vừa biếng nhác vừa giả đạo đức, nó chỉ giữ lại những kỷ niệm đẹp nhất và tệ nhất, những phách mạnh, chứ không bao giờ giữ lại khuôn nhịp của cuộc sống thường nhật, nó sẽ bôi xóa bằng hết. Càng lắng nghe Keira kể chuyện, tôi càng thấy lại trong giọng nói của cô ấy sự trong trẻo từng quyến rũ tôi biết chừng nào, cái ánh mắt linh lợi trong đó tôi từng đắm chìm một vài buổi tối, cái nụ cười đã thiếu chút nữa thì khiến tôi từ bỏ dự định của mình; và tuy nhiên, trong lúc nghe cô ấy nói, tôi khó khăn lắm mới nhớ lại được quãng thời gian cô ấy trở về Pháp sống.

Keira vẫn luôn biết điều bản thân cô ấy muốn làm; hoàn tất việc học, thoạt tiên cô ấy sang Somali, như thực tập sinh đơn thuần. Rồi cô ấy dành hai năm tại Venezuela, để làm việc dưới quyền của một tay cự phách trong ngành khảo cổ, nhưng lối cư xử độc đoán gần như đến mức chuyên chế. Sau một lời quở trách, cô ấy nói thẳng cho ông ta biết suy nghĩ của mình về ông ta rồi từ nhiệm. Hai năm lăn lộn với những công việc vặt trên những hố khai quật tại Pháp, nơi công trường xây dựng một tuyến đường sắt cao tốc đã làm phát lộ một di chỉ cổ sinh vật học quan trọng. Tuyến đường TGV được đổi hướng và Keira đã gia nhập nhóm làm việc trên công trường này, mỗi tháng lại kiêm thêm nhiều trách nhiệm. Được chú ý vì chất lượng công việc hoàn thành, cô ấy giành được một suất học bổng và trở lại với thung lũng Omo tại Êtiôpia. Thoạt tiên, cô ấy làm việc tại đó với tư cách là nữ trợ lý của giám đốc chỉ đạo việc nghiên cứu; người này ngã bệnh, cô ấy liền điều hành công việc và di chuyển địa điểm khai quật năm mươi kilômét.

Khi cô ấy kể với tôi về quãng thời gian lưu tại châu Phi, tôi cảm nhận được tại đó cô ấy đã hạnh phúc biết nhường nào. Tôi đã ngu ngốc hỏi cô ấy tại sao lại quay về Pháp. Nét mặt cô ấy tối sầm lại rồi cô ấy kể cho tôi giai đoạn buồn thảm vì một cơn bão đã tàn phá những nỗ lực của cô ấy, phá hủy toàn bộ công việc của cô ấy, nhưng nếu không có cơn bão đó thì có lẽ tôi sẽ chẳng bao giờ gặp lại được cô ấy. Tôi không bao giờ có đủ dũng khí để thú nhận với cô ấy rằng tôi ca ngợi cái thảm họa khí tượng học này.

Khi Keira hỏi về công việc tôi đang làm, tôi thấy mình không thể kể với cô ấy được. Tôi cố hết sức miêu tả cho cô ấy nghe về phong cảnh Chilê trong khi cố gắng chắt lọc một chút vẻ đẹp mà cô ấy đã dùng để soi rọi bài thuyết trình của mình trước ban giám khảo của Quỹ Walsh; tôi kể cô ấy nghe về những người tôi đã làm việc cùng suốt ngần ấy năm trời, về tinh thần đồng đội của họ, và để tránh cho cô ấy phải đặt câu hỏi tại sao tôi lại quay trở lại Luân Đôn, tôi tiếtl ộ với cô ấy không chút quanh co cái tai nạn ngu xuẩn mà tôi là nạn nhân chỉ vì muốn leo quá cao trong vùng núi non hiểm trở.

– Anh thấy đấy, chúng ta chẳng có gì phải nuối tiếc, cô ấy nói. Em thì đào đất, anh thì quan sát các ngôi sao, chúng ta thực sự không sinh ra để dành cho nhau.

– Hoặc là ngược lại, tôi ấp úng. Nói cho cùng, anh và em đang theo đuổi cùng một mục đích.

Tôi đã khiến cho cô ấy ngạc nhiên.

– Em dang tìm cách xác định niên đại của sự hình thành nhân loại, còn anh, anh đang đào bới khắp tận cùng những niên hà, để biết Vũ trụ hình thành như thế nào, cái điều đã cho phép sự sống xuất hiện và mặt khác, để biết liệu dạng thức mà chúng ta đã biết hay không; chủ đích cũng như phương thức tiến hành của hai ta không khác biệt nhiều đâu. Mà ai mà biết được liệu những câu trả lời dành cho những câu hỏi của chúng ta có bổ sung cho nhau hay không?

– Đó là một cách nhìn nhận sự việc, biết đâu một ngày nào đó, nhờ có anh, em sẽ được ngồi lên một phi thuyền con thoi, đổ bộ xuống một hành tinh chưa ai từng biết đến và bắt đầu tìm kiếm những bộ xương của những người tí hon da xanh đầu tiên thì sao!

– Ngay từ buổi đầu chúng ta gặp gỡ, cho đến tận bây giờ vẫn vậy, em luôn thích thú với việc chế giễu anh.

– Điều đó có phần đúng, nhưng đó là kiểu của em mà, cô ấy xin lỗi. Em không muốn giảm bớt tầm quan trọng của công việc anh đang làm. Bằng mọi giá thiết lập những điểm tương đồng giữa nghề nghiệp của hai ta là ý muốn của anh, bản thân em cũng thấy ý này rất thú vị, anh đừng giận em nhé.

– Em sẽ rất ngạc nhiên và bớt láu lỉnh hơn nếu anh cho em biết rằng các vì sao đã giúp cho một vài đồng nghiệp của em xác định niên đại các di chỉ khảo cổ. Nếu em không hề biết thế nào gọi là phép định ngày tháng nhờ thiên văn, thì anh sẽ chuẩn bị cho em một tập phao để quay cóp!

Keira nhìn tôi vẻ rất lạ, tôi thấy rõ trong mắt cô ấy là cô ấy chuẩn bị tung ra một câu cay nghiệt.

– Ai nói với anh là em gian lận thi cử?

– Gì kia?

– Cái hôm chúng ta gặp nhau trên giảng đường, biết đâu em đã nuốt một tờ giấy trắng thì sao? Anh chưa bao giờ nghĩ là em đã diễn trò đó để khiến anh phải chú ý à?

– Em đã chuốc lấy nguy cơ bị đuổi khỏi phòng thi, chỉ để khiến anh phải chú ý sao? Và em muốn anh tin lời em?

– Em chẳng chuốc lấy nguy cơ nào hết, em đã thi từ ngày hôm trước rồi.

– Nói dối!

– Em đã nhìn thấy anh trong hành lang khoa, và em thấy thích anh. Ngày hôm đó em đi cùng một cô bạn, cô ấy mới là người thực sự thi học phần. Cô ấy mắc chứng sợ đám đông, nên em đứng trước cửa giảng đường để trấn an cô ấy, rồi em trông thấy anh với bộ mặt giám thị quyến rũ khó cưỡng cùng một chiếc áo vest rộng thùng thình. Em liền ngồi vào một chỗ trống trong dãy bàn anh giám sát, đoạn tiếp theo thì anh biết rồi đấy…

– Em đã làm tất cả những chuyện đó chỉ để gặp anh?

– Chuyện này chả làm anh tha hồ lên mặt còn gì, đúng không nào? Keira vừa nói vừa khẽ cù vào chân tôi bên dưới bàn.

Tôi còn nhớ mặt mình đã đỏ lựng, như một đứa trẻ bị bắt gặp đang trèo lên ngăn tủ đựng mứt. Tôi thấy mất tự nhiên thì đúng hơn, nhưng không thể để lộ cho cô ấy biết.

– Vậy thì em đã gian lận thi cử hay là không? Tôi hỏi.

– Em không nói với anh đâu! Cả hai kịch bản này đều có thể xảy ra, em để anh tự chọn lấy. Hoặc là anh nghi ngờ đức hạnh của em và cho em là một kẻ lẳng lơ thực sự, hoặc là anh thích kịch bản về tờ phao quay cóp hơn, và chuyện này sẽ biến em thành một kẻ gian lận tồi tệ. Em cho anh toàn bộ thời gian còn lại của buổi tối nay để quyết định, giờ thì hãy nói cho em biết về phép định ngày tháng nhờ thiên văn nào.

Thông qua nghiên cứu về tiến triển vị trí của Mặt trời qua thời gian, Sir Norman Lockyer đã xác định được niên đại của di chỉ Stonehenge cùng những mộ đá tại đó.

Từ thiên niên kỷ này sang thiên niên kỷ khác, vị trí của Mặt trời tại điểm cao nhất có khác nhau. Vào giữa trưa, Mặt trời chếch vài độ về phía Đông so với thời tiền sử.

Tại Stonehenge, điểm cao nhất đã được đánh dấu bằng một lối đi ở chính giữa và các đài đá thẳng đứng được xác định vị trí cách quãng đều dọc theo trục này. Phần còn lại của lập luận phụ thuộc vào một phép toán bác học. Tôi nghĩ giải thích kiểu này sẽ khiến Keira ngán, nhưng cô ấy có vẻ thực lòng quan tâm đến chuyện tôi kể.

– Em vẫn đang giễu cợt anh, toàn bộ chuyện này chẳng thú vị gì cả, đúng không?

– Không hề, ngược lại thì có! Cô ấy trấn an tôi. Nếu một ngày kia được đến Stonehenge, em sẽ không nhìn nhận mọi thứ như trước nữa.

Nhà hàng đóng cửa, chúng tôi là những khách hàng cuối cùng và người bồi bàn đi tắt điện ở phía cuối phòng để buộc chúng tôi hiểu rằng đã đến lúc phải rời khỏi đó. Chúng tôi đã dạo bộ hơn một tiếng đồng hồ trên các con phố của Primrose, tiếp tục gợi lại những khoảnh khắc tươi đẹp nhất của một mùa hè đã xa. Tôi đề nghị tiễn Keira về khách sạn nơi cô ấy đặt phòng, nhưng khi chúng tôi lên taxi, cô ấy lại muốn tiễn tôi về tận nhà. “Rất hân hạnh”, cô ấy nói thêm.

Dọc đường, cô ấy chơi trò đoán xem nội thất bên trong nhà tôi được bày biện như thế nào.

– Hết sức nam tính, quá nam tính thì đúng hơn, cô ấy nói khi thăm tầng trệt. Em không nói là không đẹp, nhưng trông giống như căn hộ độc thân vậy.

– Em chê gì nhà anh đấy?

– Phòng ngủ trong cái bẫy dành cho các cô gái trẻ của anh đâu?

– Ở tầng trên.

– Đúng như em đã nói nhé, Keira vừa nói tiếp vừa leo lên gác.

Khi tôi bước vào phòng, cô ấy đang chờ tôi trên giường.

Tối hôm đó, chúng tôi đã không làm tình. Nhìn bề ngoài có vẻ như tất cả đã sẵn sàng cho chuyện ấy, nhưng có một vài tối trong đời, bạn thấy có điều gì đó còn cần thiết hơn nhiều so với ham muốn thể xác. Sợ sẽ có một cử chỉ vụng về, sợ bị bắt gặp trong cảm xúc của mình, sợ cả ngày hôm sau và những ngày tiếp theo.

Chúng tôi đã trò chuyện suốt đêm. Tựa đầu vào vai nhau, tay trong tay, như hai sinh viên chưa từng già đi, nhưng chúng tôi đã già đi và Keira cuối cùng đã thiếp đi bên cạnh tôi.

Bình minh chưa thức giấc. Tôi nghe thấy tiếng bước chân, nhẹ nhàng không khác gì bước chân của một con vật. Tôi mở mắt và giọng nói của Keira van tôi hãy nhắm mắt lại. Cô ấy đang đứng trên ngưỡng cửa nhìn tôi, và tôi hiểu là cô ấy đang bỏ đi.

– Em sẽ không gọi cho anh, đúng không?

– Chúng ta đã không cho nhau số điện thoại, chỉ cho nhau những kỷ niệm thôi, và như thế có lẽ sẽ tốt hơn, cô ấy thì thầm.

– Tại sao?

– Em sắp lên đường tới Êtiôpia, anh thì đang mơ đến những dãy núi của anh tại Chilê, khoảng cách giữa hai nơi này quá lớn, anh không thấy sao?

– Cách đây mười lăm năm, lẽ ra anh nên tin em thay vì giận em, em nói đúng, chỉ còn những kỷ niệm đẹp.

– Vậy thì lần này anh cũng cố gắng đừng giận em nhé.

– Anh hứa sẽ làm hết khả năng. Mà nếu…

– Không, đừng nói gì khác, đó là một buổi tối tuyệt đẹp, Adrian ạ. Em không biết liệu tối qua, điều tốt đẹp nhất với em là giành được giải thưởng này hay là được gặp lại anh, và em cũng không muốn tách bạch làm gì; em có để lại cho anh một lời nhắn trên bàn đầu giường, khi nào dậy anh hãy đọc nhé. Anh ngủ lại đi và đừng nghe thấy tiếng em sập cửa.

– Trong thứ ánh sáng này nhìn em xinh lắm.

– Anh phải để cho em đi chứ, Adrian.

– Hứa với anh điều này được không?

– Bất cứ điều gì anh muốn.

– Nếu chúng ta lại gặp nhau lần nữa, hãy hứa là em sẽ không hôn anh nữa.

– Em xin hứa, cô ấy nói.

– Thượng lộ bình an nhé, sẽ là dối trá nếu nói anh không nhớ em.

– Vậy thì đừng nói thế. Anh cũng vậy nhé, thượng lộ bình an.

Tôi nghe thấy tiếng bậc thang cọt kẹt theo từng bước chân cô ấy, bản lề kèn kẹt khi cô ấy khép cửa, và bước chân cô ấy xa dần trong con phố nhỏ lọt qua cửa sổ mở hé của phòng ngủ. Rất lâu sau đó tôi mới biết rằng cô ấy đã dừng lại cách nhà tôi vài mét, để ngồi trên một bờ tường thấp; đợi bình minh và cả trăm lần suýt thì quay trở lại; đúng lúc cô ấy quyết định trở lại căn phòng nơi tôi vẫn đang tìm lại giấc ngủ một cách vô vọng, thì một chiếc taxi chạy ngang qua.

– Một vết sẹo đã lành từ mười lăm năm nay có thể nào lại thực sự mở ra mau chóng giống như một đường chỉ bị giật toạc ra hay không? Vậy là những dấu vết của tình yêu đã chết sẽ không bao giờ mờ nhạt sao?

– Anh đặt câu hỏi này với một gã u mê đang đem lòng yêu say đắm một phụ nữ mà không thể tìm đủ dũng khí để tỏ tình. Tôi sẽ nói anh biết hai nhận xét của cá nhân tôi ngay bây giờ. Thứ nhất, vì lý do trên, tôi không chắc mình đủ tư cách để trả lời câu hỏi của anh; thứ hai, vẫn vì lý do đã nêu, tôi thấy khó mà trách anh vì đã không tìm ra những lời lẽ xác đáng để thuyết phục cô ấy ở lại. À mà đợi đã, tôi vừa nảy ra ý thứ ba đây. Khi anh quyết định lãng phí kỳ nghỉ cuối tuần, ít ra có thể nói là anh không hề dè dặt đâu. Giữa cái giải thưởng đã vuột khỏi tay chúng ta và cuộc hạnh ngộ tình cờ của hai người, anh đã phải bỏ nhiều công sức rồi đó!

– Cảm ơn Walter.

Tôi không thể ngủ lại, tuy thế tôi vẫn ép mình nán lại trên giường thật lâu, mà không mở mắt ra, không lắng nghe những tiếng động xung quanh, tôi đã tự bịa ra một câu chuyện. Rằng Keira chỉ xuống dưới bếp pha một tách trà. Chúng tôi cùng nhau dùng bữa sáng, thảo luận về quãng thời gian còn lại của ngày đang tới. Luân Đôn thuộc về chúng tôi. Tôi sẽ khoác lên mình trang phục của du khách, chơi trò khám phá lại thành phố của riêng mình, trầm trồ thán phục trước sắc màu sinh động của những ngôi nhà hoàn toàn đối lập với sức xám trên bầu trời.

Tôi sẽ cùng cô ấy thăm lại tất cả những nơi chúng tôi từng đi qua, hệt như lần đầu tiên. Ngày hôm sau, chúng tôi sẽ lại đi dạo, với nhịp độ của một ngày Chủ nhật khi thời gian trôi qua chậm hơn. Bàn tay chúng tôi sẽ không rời nhau, và cũng chẳng hề chi nếu trong câu chuyện này, Keira sẽ lên đường khi dịp cuối tuần kết thúc. Mỗi giây phút trải qua sẽ càng thêm quý giá.

Mùi da thịt cô ấy vẫn vương vấn trên tấm đắp của tôi. Trong phòng khách, chiếc tràng kỷ vẫn mang dấu vết của khoảnh khắc cô ấy ngồi trên đó. Một nỗi sầu muộn ngấm vào máu tôi và giờ đang dạo quanh ngôi nhà trống trải.

Keira không nói dối, tôi tìm thấy trên bàn đầu giường một mảu giấy nhắn, chỉ ghi vỏn vẹn hai từ. “Cảm ơn.”

Đến trưa, tôi gọi Walter đến cứu và nửa tiếng sau, hắn, giờ đã trở thành bạn tôi, bấm chuông cửa nhà tôi.

– Tôi muốn báo anh biết một tin tốt lành hòng làm anh đổi ý, nhưng tôi chả có tin nào hết, vả lại dự báo thời tiết nói trời sẽ mưa. Dẫu vậy, cần phải nghĩ đến việc ăn mặc, tôi không tin là ngồi chết gí ở đây trong bộ pyjama xấu kinh dị này là có ích lắm đâu, và tôi không hề thấy đời đẹp hơn khi mục kích hai bắp chân anh.

Trong khi tôi tự pha cho mình một tách cà phê, Walter lên tầng trên để “thông gió cho căn phòng”, hắn vừa nói vừa leo thang gác. Lát sau, hắn trở xuống với vẻ mặt hoan hỉ.

– Cuối cùng tôi cũng có được một tin tốt lành để báo cho anh đây, rốt cuộc thì thời gian sẽ nói cho chúng ta biết liệu cô ấy có đẹp đến mức này không.

Rồi hắn ngạo nghễ chìa ra chiếc vòng cổ mà Keira đã đeo hôm qua.

– Ôi, chớ có nói gì đấy nhé, hắn nói luôn, nếu ở tuổi này rồi mà anh không biết một lỗi lầm lẫn là thế nào, vậy thì trường hợp của anh còn tuyệt vọng hơn tôi đấy. Người phụ nữ để lại một món đồ trang sức tại nhà một người đàn ông chỉ có thể có hai mục đích. Thứ nhất, là để một người phụ nữ khác phát hiện ra món đồ này rồi tô điểm nó bằng một màn cãi cọ giữa vợ với chồng; nhưng hậu đậu như anh thì anh hẳn đã nhắc đi nhắc lại ít nhất mười lần rằng đời anh chẳng có một ai rồi.

– Thế còn mục đích thứ hai? Tôi hỏi.

– Là cô ấy định quay lại hiện tượng gây án!

– Sao anh không nghĩ đến phương án cô ấy đãng trí và đơn giản là quên món trang sức đó nhỉ? Tôi nói và lấy lại chiếc vòng cổ từ tay hắn.

– Chao ôi! Không phải thế, một chiếc hoa tai thì còn được, một chiếc nhẫn vẫn có thể chấp nhận, nhưng một chiếc vòng cổ với một mặt dây kích cỡ thế này… vậy thì hoặc là anh đã giấu tôi chuyện bạn gái của anh cận nặng, chuyện này theo một lẽ, sẽ giải thích làm thế nào anh lại có thể quyến rũ cô ấy.

Bằng một cử chỉ nhanh gọn, Walter lấy lại chiếc mặt dây chuyền và nhấc thử xem độ nặng nhẹ.

– Đừong ói với tôi là cô ấy không nhận ra quanh cổ mình thiếu đi một phần tư cân, vật này đủ nặng để người ta không từ bỏ nó một cách ngây thơ.

Tôi biết như thế thật ngốc, biết rằng tôi không còn ở cái tuổi xử sự như một chàng thanh niên lần đầu phải lòng người tình một đêm, nhưng điều Walter vừa nói khiến tôi hết sức phấn khích.

– Anh lấy lại thần sắc rồi đấy. Adrian, mười lăm năm nay đúng ra là anh sống khá hạnh phúc, đừng nói với tôi là một buổi tối chẳng ra đâu vào đâu này sẽ khiến anh ủ rũ lâu hơn quãng thời gian hai ngày cuối tuần chứ? Tôi đang đói ngấu rồi đây, và tôi biết trong khu phố này có một nơi phục vụ bữa sáng muộn rất ngon. Thay quần áo đi, khỉ thật, tôi chả vừa bảo là tôi đói ngấu rồi còn gì!

Bình luận