Luân Đôn
Ý tưởng ghé về nhà vài ngày không khỏi khiến tôi thích thú. Keira tranh thủ một buổi chiều tối thời tiết dễ chịu để dạo chơi trên các con phố của khu đồi Primrose; ngay khi còn lại một mình, tôi gọi cho Walter.
– Tôi báo cho anh biết đây, Adrian, trước khi anh nói với tôi bất cứ điều gì, anh phải biết là tôi đã làm hết khả năng rồi. Anh nên biết là tôi không thể tìm ra một người dịch được tiếng Guère cổ trong chợ Pimlico hay chợ Camden, mà tôi cũng kiểm tra rồi, máy trang vàng cũng không thấy ghi địa chỉ của họ.
Tôi nén tiếng thở dài, nghĩ đến chuyện phải thú nhận với Keira rằng tôi đã lòe bịp chỉ để tách cô ấy xa khỏi Max đang quanh quẩn bên cô ấy khiến tôi buồn nẫu ruột.
– Tôi đã nói là anh may mắn lắm mới có bạn như tôi đây, đúng không Adrian? Tôi đã tìm được một người có khả năng hiếm thấy, chắc chắn người này sẽ giúp được anh. Tôi lấy làm ngạc nhiên về sự sáng suốt của bản thân. Hãy hình dung tôi đã kể vấn đề của anh với một cô bạn, cô ấy lại có một người họ hàng gần Chủ nhật nào cũng đến Nhà thờ chính thống Sainte-Marie-de-Sion. Người này đã đến gặp một linh mục, một vị thánh sống có vốn học thức uyên bác vô hạn. Vị linh mục này không chỉ là người đại diện cho Nhà thờ, ông ấy còn là một sử gia kiêm triết gia vĩ đại. Sang Anh tị nạn chính trị từ hai mươi năm nay, ông ấy được công nhận là một trong những chuyên gia lớn trong lĩnh vực mà anh quan tâm. Tôi đã hẹn trước để sáng mai chúng ta có thể gặp ông ấy. Và bây giờ thì anh có thể thốt lên: “Walter, anh tài thật!” được rồi đấy.
– Người bạn gái chúng ta phải mang ơn vì sự giúp đỡ vô giá này là ai vậy?
– Cô Jenkins, Walter gần như e thẹn khi trả lời câu hỏi này.
– Tin này khiến niềm vui của tôi được nhân đôi đấy, Walter, anh tài thật.
Quá đỗi vui mừng được gặp lại hắn, tôi mời hắn tối nay ghé qua nhà chơi. Trong bữa tối, Keira và Walter làm quen với nhau nhiều hơn. Chúng tôi thay phiên nhau kể cho hắn nghe về những chuyến phiêu lưu và cả những chuyện không may gặp phải trong thung lũng Omo, chuyện ở Nebra, không quên quãng thời gian lưu lại Francfort và Paris. Chúng tôi đưa hắn xem bản văn tìm thấy tại Thư viện Quốc gia Đức cùng với bản dịch của Max. Hắn đọc hết sức chăm chú nhưng cũng không vỡ ra được điều gì. Mỗi lần Walter gặp tôi trong bếp hay mỗi lần Keira rời khỏi bàn để chúng tôi lại với nhau, hắn lại bảo tôi rằng hắn thấy Keira quả là rất tuyệt, thú vị và tuyệt vời, tôi liền kết luận là hắn đã bị cô ấy chinh phục, mà đúng là Keira vô cùng duyên dáng thật.
Walter còn quên chưa nói một điều, đó là chúng ta phải dự từ đầu đến cuối buổi lễ trước khi gặp linh mục. Tôi phải thú nhận điều này, sáng Chủ nhật tôi vẫn thường đến nhà thờ, lê chân từng bước một, mối quan hệ giữa tôi với Chúa đã khá xa cách từ khi tôi còn nhỏ, tuy nhiên, giây phút này lại đặc biệt cảm động. Vẻ đẹp của những bản thánh ca cũng như sự thành tâm của giây phút nhập định đều để lại trong tôi ấn tượng mạnh mẽ. Trong nhà thờ này, mọi thứ dường như chỉ là lòng thiện. Buổi lễ kết thúc, trong khi giáo dân lũ lượt rời khỏi nhà thờ, vị linh mục đến chỗ chúng tôi và mời chúng tôi theo ông tới tận bàn thờ Chúa.
Vóc người ông thấp bé, lưng còng gập, có lẽ là do sức nặng những lời thú tội và của con người hoặc do một quá khứ đã biết đến chiến tranh và diệt chủng. Ở ông dường như không tồn tại điều gì xấu xa. Không thể chịu đựng nổi ánh mắt của ông. Chỉ cần nghe chất giọng trầm và quyến rũ của ông là đủ để bạn muốn theo ông đi bất cứ đâu.
– Đây là một tài liệu ít ra cũng gây ngạc nhiên, ông nói với chúng tôi sau khi đã đọc đi đọc lại hai lần.
Trước vẻ ngạc nhiên tột độ của tôi, ông không hề chú tâm đến những bản dịch đi kèm tài liệu.
– Các vị có chắc chắn về tính xác thực của tài liệu này không? Ông hỏi.
– Có ạ.
– Vấn đề ở đây không phải là ở bản dịch mà là ở cách giải nghĩa. Người ta đâu có dịch thơ bám từng chữ một, đúng không? Với các bản văn cổ cũng vậy. Thật dễ để dịch gần đúng cái người ta muốn gán cho một bản văn thiêng liêng; mặt khác con người không chịu làm hỏng lời lẽ nhân từ và không chịu xoay vần nó để nhận về mình những quyền lực trái lẽ thường và có được cái họ muốn từ những tín đồ của mình. Những lời Kinh thánh không đe dọa, cũng không sai khiến, chúng chỉ ra một con đường và để mặc con người lựa chọn nhằm tìm ra người sẽ dẫn dắt họ, không phải trong cuộc sống mà là về phía sự sống. Những kẻ tự nhận là hiểu và lưu truyền lời của Chúa không phải lúc nào cũng nghe thấy Người như thế và luôn lạm dụng những người cả tin để tha hồ cai trị họ.
– Tại sao Cha lại nói với chúng tôi điều này, thưa Cha?
– Bởi vì tôi muốn tỏ tường chủ tâm của các vị trước khi cho biết rõ hơn về bản chất của bản văn này.
Tôi giải thích rằng mình là nhà vật lý thiên văn, còn Keira là nhà khảo cổ, và vị linh mục khiến chúng tôi sửng sốt khi thổ lộ rằng sự kết hợp giữa hai chúng tôi không phải là không quan trọng.
– Cả hai vị đều đang tìm kiếm một điều gì đó mà lĩnh hội được nó rất đáng sợ, các vị có chắc chắn mình đã sẵn sàng đối diện với những câu trả lời có thể tìm thấy trên đường đi hay chưa?
– Có gì đáng sợ ạ? Keira hỏi.
– Đối với con người, lửa là một đồng minh quý báu, nhưng lửa cũng nguy hiểm đối với trẻ nhỏ chưa biết sử dụng nó. Một vài tri thức cũng vậy. Xét trên bậc thang nhân loại, con người vẫn chỉ là những đứa trẻ mà thôi, hãy nhìn thế giới xung quanh mình để thấy chúng ta vẫn còn mông muội thế nào.
Walter hứa rằng Keira và tôi đều hoàn toàn khả kính và đáng được tin tưởng. Lời hứa này khiến vị linh mục mỉm cười.
– Anh thực sự biết được gì về Vũ trụ đây, nhà vật lý thiên văn? Linh mục hỏi tôi.
Câu hỏi của ông không có vẻ gì cao ngạo, giọng ông không có chút sắc thái nào hợm hĩnh, nhưng trước khi tôi kịp trả lời, ông đã nhìn Keira với vẻ nhân từ rồi hỏi cô ấy:
– Còn cô, cô nghĩ đất nước tôi là cái nôi của nhân loại, cô đã bao giờ tự hỏi lý do tại sao chưa?
Cả hai chúng tôi đều hy vọng có thể đưa ra cho linh mục những câu trả lời thông thái và thích đáng, nhưng ông đã ngay lập tức đặt ra cho chúng tôi câu hỏi thứ ba.
– Các vị vẫn tin rằng cuộc gặp gỡ giữa hai người là ngẫu nhiên, hãy hình dung có lẽ nào một tài liệu như thế này có thể rơi vào tay các vị chỉ bởi sự tình cờ thôi ư?
– Tôi không biết thưa Cha, Keira ấp úng.
– Cô là nhà khảo cổ, thưa cô, cô tin rằng con người đã phát hiện ra lửa hay là lửa đã xuất hiện trước con người, khi đã tới lúc xảy ra mọi việc như thế?
– Tôi tin rằng trí tuệ chớm hình thành của con người đã cho phép họ thuần hóa lửa.
– Vậy nên cô gọi đó là ý Chúa?
– Nếu tôi tin vào Chúa thì hẳn là thế rồi.
– Cô không tin vào Chúa nhưng cô đang tìm đến một người của nhà thờ để cố gắng khám phá một bí ẩn mà cô không thể hiểu hết tầm quan trọng của nó. Chớ quên nghịch lý này, làm ơn, cô sẽ phải ghi nhớ khi thời khắc đến.
– Thời khắc nào kia?
– Khi cô hiểu được con đường này sẽ dẫn cô tới đâu, bởi cả cô lẫn anh đều đang không hay biết gì chuyện đó. Nếu đã biết liệu các vị có tìm đến đây không? Tôi nghi ngờ đấy.
– Thưa Cha, tôi không hiểu Cha đang nói gì, Cha có thể nói rõ cho chúng tôi biết về ý nghĩa của văn bàn này không? Tôi đánh liều hỏi.
– Anh còn chưa trả lời câu hỏi của tôi, nhà vật lý thiên văn ạ, anh biết gì về Vũ trụ nào?
– Biết nhiều thứ, tôi xin đảm bảo với Cha, Walter trả lời thay tôi, tôi đã từng là học trò của anh ấy trong nhiều tuần và Cha sẽ không hình dung nổi khối kiến thức mà anh ấy đã bắt tôi phải thuộc làu đâu, và tôi không thể nhớ được tất cả chỗ kiến thức ấy.
– Những con số, tên các ngôi sao, vị trí của chúng, khoảng cách giữa chúng, những chuyển động, toàn bộ chuyện này chỉ là cái ghi nhận được; anh và các đồng nghiệp của anh bắt đầu đoán thấy, nhưng anh đã hiểu được gì nào? Anh có biết nói cho tôi biết thế nào là vô hạn lớn hay vô hạn nhỏ không? Anh có biết nguồn gốc, anh có đoán được kết cuộc không? Anh có biết chúng ta là ai, có biết một con người có nghĩa là gì không? Anh có biết giải thích cho một đứa trẻ lên sáu về trí tuệ mà cô đây đã nhắc tới không, cái trí tuệ đã cho phép con người thuần hóa lửa ấy?
– Tại sao lại là cho một đứa trẻ lên sáu?
– Bởi lẽ, nếu anh không biết giải thích khái niệm nào đó cho một đứa trẻ lên sáu thì chính là bởi anh không biết ý nghĩa của nó!
Lần đầu tiên vị linh mục cao giọng và giọng nói của ông vang vọng khắp bốn bức tường của nhà thờ Sainte-Marie.
– Tất cả chúng ta đều là lũ trẻ lên sáu trên cái hành tinh nhỏ bé này, ông nói và lấy lại vẻ điềm đạm.
– Không, tôi không thể trả lời cho bất cứ câu hỏi nào Cha vừa nêu, thưa Cha, không ai có thể làm vậy.
– Chưa có ai, nhưng nếu những câu trả lời được dâng lên cho hai vị, hai vị có sẵn sàng lắng nghe không?
Người đàn ông đã thở dài sườn sượt khi nói câu này vì cơn muộn phiền xâm chiếm.
– Các vị mong rằng tôi sẽ soi sáng đường đi cho các vị ư? Chỉ có hai cách để hiểu ánh sáng, hai cách để tiến về phía nó. Con người chỉ biết có một cách. Chính bởi vậy nên Chúa mới quan trọng với con người đến thế. Nếu đứa trẻ lên sáu hỏi hai vị trí tuệ là gì, hai vị lẽ ra có thể trả lời bằng một từ duy nhất: tình yêu. Còn lâu các vị mới ngộ ra tầm quan trọng của ý tưởng này. Đường biên giới mà các vị đang sẵn sàng vượt qua không có lối thoái lui. Một khi biết rồi, sẽ là quá muộn để từ bỏ. Chính vì thế mà tôi lại hỏi các vị thêm lần nữa. Các vị đã sẵn sàng vượt qua những giới hạn trong trí tuệ của riêng mình hay chưa, có sẵn sàng đón nhận nguy cơ từ bỏ thân phận làm người giống như người ta từ bỏ tuổi thơ của mình hay chưa? Các vị có hiểu rằng không phải cứ thấy cha của nó là đã biết về nó chưa? Các vị có chấp nhận trở thành trẻ mồ côi của thứ đã nuôi dạy các vị trong điều kiện làm người chưa?
Cả tôi lẫn Keira đều chưa trả lời nhân vật lập dị này. Tôi muốn hiểu được điều mà ông đang dùng sự khôn ngoan để cố tiết lộ với chúng tôi, muốn đoán xem ông đang muốn bảo vệ chúng tôi khỏi điều gì. Giá mà tôi biết được!
Ông cắm cúi đọc tờ giấy, thở dài lần nữa rồi nhìn Keira và tôi chăm chú.
– Bản văn này phải đọc như sau, ông bảo.
Mảng kính ghép màu của gian giữa nhà thờ bỗng vứt toác một lỗ nhỏ, đường kính khoảng mười centimét. Viên đạn bay ngang nhà thờ với vận tốc nghìn mét trên giây. Viên đạn xuyên thủng gáy, cắt lìa tĩnh mạch chủ, trước khi găm thẳng vào đốt sống cổ thứ hai của linh mục. Người đàn ông há miệng tìm chút không khí rồi ngay lập tức gục xuống.
Chúng tôi không nghe thấy tiếng súng, cũng chẳng nghe thấy tiếng vỡ của lớp kính màu phía trên gian giữa nhà thờ. Nếu máu không chảy ra từ miệng linh mục, nếu thứ máu ấy không chảy ngoằn ngoèo dọc theo cổ ông ấy, chúng tôi đã ngỡ là linh mục lên cơn khó ở. Keira nhảy dựng ra đằng sau, Walter buộc cô ấy cúi thấp người trước khi kéo cô ấy về phía cửa ra vào nhà thờ.
Vị linh mục đang nằm sấp trên mặt đất, tay ông ấy run bần bật, và tôi vẫn đứng đó, tê liệt trước cái chết đã mang ông đi. Tôi quỳ gối và xoay ông nằm ngửa ra. Đôi mắt ông vẫn nhìn như đóng đinh vào cây thập giá, tôi thấy dường như ông đang mỉm cười. Ông quay đầu và nhìn vũng máu đang đọng lại quanh mình. Nhìn ánh mắt ông, tôi hiểu là ông muốn tôi tiến lại gần.
– Những kim tự tháp ẩn giấu, ông thì thào trong hơi thở sau cùng, nhận thức, bản văn kia. Nếu một ngày kia các vị tìm ra nó, hãy để nó ngủ yên, làm ơn, hẵng còn quá sớm để đánh thức nó, đừng phạm phải lỗi không thể cứu vãn ấy.
Đó là những lời cuối cùng của linh mục.
Còn lại một mình trong gian giữa nhà thờ vắng vẻ, tôi nghe thấy giọng Walter vọng lại, nài nỉ tôi ra chỗ hắn. Tôi vuốt mắt cho linh mục, lấy lại bản văn lấm lem vết máu; thẫn thờ rời khỏi nhà thờ.
Keira đang ngồi trên bậc tam cấp dẫn xuống sân trước nhà thờ, cô ấy nhìn tôi, run rẩy và hoài nghi, có lẽ cô ấy hy vọng tôi sẽ bảo rằng toàn bộ chuyện này chỉ là một cơn ác mộng, hy vọng tôi sẽ đưa cô ấy trở lại với thực tại chỉ bằng một cái búng tay, nhưng Walter mới là người đảm đương việc đó.
– Chúng ta đi khỏi đây thôi, hai người nghe thấy tôi nói gì không? Đã đến lúc hai người trấn tĩnh lại rồi đấy, để việc buông trôi chán nản lại sau đi. Khỉ thật, Adrian, anh hãy lo cho Keira rồi chuồn đi thôi, nếu kẻ sát nhân vẫn lảng vảng quanh đây, hắn sẽ không muốn để lại sau lưng mình ba nhân chứng đâu, và chúng ta đang hớ hênh quá!
– Nếu hắn muốn khử chúng ta thì chúng ta đã chết lâu rồi.
Lẽ ra tôi nên im miệng thì hơn, vì một hòn đá rơi xuống chân tôi vỡ tan tành. Tôi cầm tay Keira rồi kéo cô ấy ra phố, Walter bám sát chúng tôi. Cả ba chúng tôi chạy đến đứt hơi. Một chiếc taxi chạy ngang đầu đường Cooper; Walter thét gọi, đèn hậu của chiếc xe sáng rực lên. Người tài xế hỏi chúng tôi muốn đến đâu và chúng tôi đồng thanh đáp: càng xa càng tốt!
Khi về đến nhà tôi, Walter năn nỉ tôi thay áo sơ mi, chiếc áo tôi đang mặc dây đầy máu của vị linh mục, trông Keira cũng không hơn gì tôi, quần áo cô ấy cũng lấm đầy máu. Tôi kéo cô ấy sang phòng tắm. Cô ấy cởi áo len, để quần âu tụt xuống rồi bước vào đứng cùng tôi dưới vòi sen.
Tôi còn nhớ đã gội đầu cho Keira, như để giải thoát cô ấy khỏi một vết bẩn đang bám chặt vào da thịt chúng tôi. Cô ấy gục đầu vào ngực tôi, hơi nóng của nước giúp cơ thể lạnh giá của chúng tôi hồi sinh. Keira ngẩng đầu lên nhìn tôi đăm đắm. Tôi những muốn thốt lên những lời an ủi nhưng chỉ duy có đôi bàn tay tôi cố gắng xoa dịu cô ấy, vài cái vuốt ve để xóa đi cảnh tượng ghê rợn mà chúng tôi vừa cùng chứng kiến.
Khi quay trở lại phòng khách, tôi đưa quần áo của mình cho Walter thay.
– Cần phải dừng mọi chuyện lại thôi, Keira nói khẽ, vị tộc trưởng, giờ lại đến vị linh mục, chúng ta đã làm gì hả Adrian?
– Vụ sát hại người đàn ông này không liên quan gì đến chuyến đi của các bạn, Walter cả quyết khi gặp lại chúng tôi trong phòng khách. Linh mục là một nhân vật tị nạn chính trị, đây không phải là cuộc mưu sát đầu tiên nhằm vào ông ta. Cô Jenkins đã kể với tôi về linh mục trước khi diễn ra cuộc gặp này, ông ta thường đi thuyết giảng, đấu tranh vì hòa bình, làm việc vì sự phục tôn các cộng đồng thiểu số tại Đông Phi. Những người yêu chuộng hòa bình có rất nhiều kẻ thù. Chúng ta chỉ có mặt không đúng lúc không đúng chỗ thôi.
Tôi đề nghị cả ba chúng tôi sẽ cùng đến sở cảnh sát khai báo, lời chứng của chúng tôi có lẽ sẽ giúp được cảnh sát trong việc điều tra. Cần phải tìm cho ra những tên đểu giả đã xuống tay trong vụ này.
– Làm chứng về việc gì kia? Walter hỏi. Hai người đã trông thấy gì sao? Chúng ta sẽ không đi đâu hết! Anh để lại dấu vết khắp mọi nơi, Adrian ạ, hàng trăm người đã trông thấy anh tại lễ mixa, và chúng ta là những người cuối cùng ở bên linh mục trước khi ông ta bị sát hại.
– Walter nói phải đấy, Keira tiếp lời, việc đầu tiên chúng ta làm là chạy trốn, cảnh sát sẽ muốn biết nguyên do.
– Bởi vì chúng ta bị nhắm bắn, lý do còn chưa đủ hay sao? Tôi sửng cồ. Nếu người đàn ông này bị đe dọa, tại sao chính phủ không bảo vệ ông ta?
– Có lẽ vì ông ta không muốn chăng? Walter gợi ý.
– Hai người muốn cảnh sát tình nghi chúng ta vì lẽ gì chứ? Tôi không thấy điểm gì có thể gắn chúng ta vào vụ giết chóc này.
– Em thì có đấy! Keira thì thầm. Em đã sống không ít năm tại Êtiôpia, quê hương của người này. Em đã làm việc tại các vùng biên giới nơi kẻ thù của ông ta sinh sống, chừng ấy có lẽ đủ để phía điều tra nghi ngờ em có quan hệ với những kẻ đã nhúng tay vào tội ác này. Thêm vào đó, họ sẽ hỏi em tại sao lại vội vã rời khỏi thung lũng Omo, anh muốn em phải trả lời thế nào đây? Trả lời rằng cái chết của một vị tộc trưởng đi cùng em đã buộc em phải chuồn khỏi đất nước đó ư? Rằng sau khi đem xác của tộc trưởng về giao cho bộ tộc, em đã lẩn trốn như một tên tội phạm chứ không thông báo cho cảnh sát Kenya biết về chuyện này sao? Rằng chúng ta đã có mặt khi tộc trưởng qua đời, cũng như khi linh mục bị ám sát ư? Anh nói phải đấy, cảnh sát sẽ thích mê câu chuyện của chúng ta ấy chứ! Nếu bây giờ chúng ta tới sở cảnh sát trình diện, em không chắc chúng ta có thể về nhà kịp bữa tối đâu!
Tôi muốn cực lực phủ nhận cái kịch bản tệ hại này, nhưng Walter thì hoàn toàn tán thành.
– Cảnh sát hiện trường sẽ nhanh chóng chứng minh được rằng phát súng được bắn từ bên ngoài, chúng ta chẳng có lý do gì để lo lắng cả, tôi uổng công nhấn mạnh.
Walter sải bước đi đi lại lại, vẻ mặt cau có. Hắn tiến đến chiếc bàn chân quỳ nơi tôi để rượu mạnh rồi rót cho mình một cốc đúp whisky Ê cốt.
– Keira đã liệt kê mọi lý do sẽ biến hai người thành những tội phạm lý tưởng. Những lý do sẽ khiến nhà chức trách thỏa mãn, để nhanh chóng khép lại một vụ điều tra mà kết cuộc sẽ khiến các giáo dân nguôi ngoai. Cảnh sát có lẽ sẽ vui vì được thông báo trong thời hạn sớm nhất rằng họ đã khảo cung những kẻ sát hại linh mục và, còn hơn thế nữa, những kẻ này là dân châu Âu.
– Nhưng rốt cuộc thì tại sao lại thế? Thật hết sức vô lý.
– Để tránh đám đông bừng bừng nộ khí trong khu phố nơi linh mục sinh sống và phòng ngừa cộng đồng nổi dậy, Keira trả lời, rõ ràng là với sự am hiểu về mặt chính trị mà tôi không hề có.
– Thôi nào, đừng có nhìn mọi thứ tăm tối như thế chứ, Walter tiếp lời, vẫn có khả năng chúng ta sẽ được tuyên bố, vô tội trong toàn bộ chuyện này. Điều này có nghĩa là, những kẻ tệ đến mức giết linh mục không hẳn đã thuộc dạng quan tâm đến các nhân chứng; tôi không dám đảm bảo mạng sống của chúng ta đâu, nếu mặt mũi chúng ta chường ra trên bìa các tạp chí khổ vừa.
– Anh gọi như thế là không “nhìn mọi thứ tăm tối” sao?
– Ôi không, nếu hai người thực sự muốn bôi đen bức tranh, tôi sẽ nói cho hai người biết về số phận của mỗi người trong chúng ta nhé. Về phần Keira, thêm vào cái chết của vị tộc trưởng là cái chết của linh mục và tôi không nghĩ cô ấy sẽ sớm được quay trở lại Êtiôpia làm việc. Còn về phần chúng ta, Adrian ạ, tôi để anh tự hình dung phản ứng của các thành viên trong hội đồng Học viện một khi họ biết chúng ta dính dáng đến một vụ việc rùng rợn như thế này. Tin tôi đi, điều duy nhất nên làm là cố gắng quên toàn bộ chuyện này đi và đợi cho tình hình êm ả trở lại.
Sau những lời cuối cùng của Walter, cả ba chúng tôi ngồi nhìn nhau trong trong tĩnh lặng tột cùng. Có lẽ mọi việc sẽ lắng dịu đi, nhưng cả ba đều biết rằng không ai trong chúng tôi quên được buổi sáng khủng khiếp này. Chỉ cần nhắm mắt là tôi lại nhìn thấy ánh mắt của vị linh mục đang hấp hối trên tay tôi, ánh mắt hiền từ đến mức ấy trong khi cuộc sống đang rời bỏ ông. Tôi vẫn nhớ đinh ninh những lời nói của ông lúc lâm chung: “Những kim tự tháp ẩn giấu, nhận thức, bản văn kia. Nếu một ngày kia các vị tìm ra nó, hãy để nó ngủ yên, làm ơn”.
– Adrian, anh nói mơ trong lúc ngủ đấy.
Tôi giật mình ngồi thẳng dậy.
– Em xin lỗi, Keira thì thầm, em không muốn làm anh sợ đâu.
– Anh mới là người phải xin lỗi chứ, chắc anh phải gặp ác mộng.
– Anh may đấy, ít ra anh còn ngủ được, em thì không thể nhắm mắt.
– Lẽ ra em nên đánh thức anh sớm hơn.
– Em thích ngắm anh mà.
Căn phòng chìm trong cảnh tranh tối tranh sáng, bên trong phòng quá nóng; tôi đứng dậy mở toang cửa sổ. Keira dõi mắt theo tôi. Ánh sáng trong đêm làm nổi bật những đường nét trên cơ thể Keira, cô ấy gạt tấm chăn sang bên và mỉm cười với tôi.
– Anh ngủ lại đi, cô ấy bảo.
Làn da cô ấy có vị muối mằn mặn, nếp gấp hai bầu ngực cô ấy tỏa hương hổ phách và caramel; rốn cô ấy sâu và tròn vành vạnh, tôi thích lướt môi mình trên đó; những ngón tay tôi lướt trên bụng cô ấy, tôi hôn vào lớp mồ hôi xâm xấp nơi đó. Keira khép chặt đôi chân quanh vai tôi, hai bàn chân cô ấy mơn trớn lưng tôi. Cô ấy đặt một bàn tay lên cằm tôi để dẫn tôi đến tận miệng cô ấy. Có tiếng chim sáo đá vẳng qua cửa sổ; dường như chú chim đang hòa nhịp giọng hót với hơi thở của chúng tôi. Khi chú chim ngừng bặt, hơi thở của Keira cũng ngừng theo; đôi cánh tay cô ấy vùng khỏi tay tôi, và cô ấy đẩy cơ thể tôi ra để rồi ngay lập tức lại gắn vào nó.
Ký ức về đêm hôm đó vẫn còn ám ảnh tôi, như ký ức về một khoảnh khắc sâu kín khi chúng tôi đánh bật cái chết; tôi biết rằng không một người tình nào khác có thể dâng tặng tôi vòng tay ôm ghì siết như thế, và ý nghĩ đó khiến tôi thấy sợ.
Bình minh lên trong con phố tĩnh mịch; Keira khỏa thân tiến lại gần cửa sổ.
– Chúng ta nên rời khỏi Luân Đôn, cô ấy bảo tôi.
– Để đi đâu?
– Đi tới nơi thôn quê chìm ngập trong biển, ở mỏm Cornouailles, anh biết St. Mawes chứ?
Tôi chưa từng đặt chân tới đó.
– Đêm qua, anh vẫn nói mơ những câu kỳ quặc, cô ấy tiếp.
– Anh mơ thấy những lời cuối cùng linh mục đã nói với anh trước khi ra đi.
– Ông ta không ra đi, ông ta chết rồi! Bố em cũng không đi một chuyến dài như lời vị mục sư cử hành tang lễ. Chết là một từ xác đáng, ông ấy chẳng ở đâu khác ngoài phần mộ của mình.
– Ngày còn nhỏ, anh vẫn tin mỗi ngôi sao là một linh hồn lấp lánh trên bầu trời.
– Từ thuở hồng hoang đã có vô số ngôi sao trên bầu trời của anh rồi.
– Có đến hàng trăm tỉ ngôi sao ấy chứ, dân số trên hành tinh này không bao giờ bì được.
– Vậy thì ai mà biết được? Nhưng em tin rằng mình sẽ bực bội ghê lắm nếu phải nhấp nháy trong cái giá lạnh của không trung.
– Đó là một cách nhìn nhận sự việc. Anh không biết điều gì đang đợi chúng ta phía sau nữa, anh không thường nghĩ tới chuyện này.
– Em thì không ngừng nghĩ tới chuyện đó. Chắc là ý nghĩ ấy gắn liền với nghề nghiệp của em. Mỗi lần khai quật được hài cốt nào đó, em đều tự chất vấn mình. Em khó khăn lắm mới chấp nhận được rằng thứ duy nhất còn sót lại từ cả cuộc đời là một mẩu xương đùi hay xương hàm.
– Những thứ còn lại về chúng ta không chỉ là bộ hài cốt, Keira ạ, mà là ký ức về chúng ta. Mỗi lần nghĩ đến bố anh, mỗi lần mơ thấy ông là anh lại kéo ông ra khỏi cái chết, như kéo một người ra khỏi giấc ngủ vậy.
– Vậy thì bố em chắc phải chán ngấy chuyện này rồi, Keira nói, em có để cho ông ngủ nhiều bao giờ đâu.
Keira muốn đến Cornouailles, chúng tôi rón rén rời khỏi nhà. Chúng tôi để lại mẩu giấy nhắn cho Walter, hắn vẫn đang ngủ khì trong phòng khách, chúng tôi hứa sẽ nhanh chóng quay trở lại. Chiếc ô tô cũ kỹ của tôi đang đợi trong ga ra, nó nhanh chóng khởi động; đến giữa trưa, chúng tôi chạy xe xuyên qua vùng nông thôn nước Anh, các cửa kính xe mở toang. Keira hát vang, chiến công khó mà tin nổi của cô ấy là át được tiếng gió thổi ù ù trong khoang lái.
Cách Salisbury mười ba cây số, từ đằng xa chúng tôi đã nhận ra các tượng đá nguyên khối Stonehenge, đường nét thô đậm của chúng nổi bật trên đường chân trời.
– Em đã tham quan chỗ đó chưa? Tôi hỏi Keira.
– Còn anh?
Tôi có vài người bạn dân Paris chưa bao giờ đặt chân tới tháp Effeil, vài người khác dân New York chưa bao giờ lên tới đỉnh tòa nhà Empire State, tôi là người Anh và tôi thú thật rằng mình chưa từng tham quan điểm du lịch này, tuy thế nó vẫn thu hút vô số du khách đến từ khắp nơi trên thế giới.
– Nếu chuyện này có thể làm anh yên tâm thì em cũng vậy thôi, em rơi vào ngõ cụt rồi, Keira tâm sự với tôi. Hay chúng ta đến đó đi?
Tôi biết nội quy tham quan công trình nghệ thuật hơn bốn nghìn năm tuổi này rất nghiêm ngặt. Vào các giờ mở cửa, du khách đi dạo dọc theo một con đường có cắm cọc tiêu, họ phải tiến lên theo nhịp còi do hướng dẫn viên thổi đến hụt hơi, họ tuyệt đối không được đi sai đường. Tôi không chắc chúng tôi được phép thoải mái dạo chơi trong đó, ngay cả khi trời đã sẩm tối.
– Anh vừa nói rồi đấy thôi, chẳng mấy chốc nữa là trời tối, chừng một tiếng nữa mặt trời sẽ lặn và em chẳng nhìn thấy ma nào sinh sống quanh đây, Keira nói tiếp, chuyện cấm đoán hình như chỉ là để cho vui thì phải.
Sau những giây phút nặng nề của ngày hôm qua, rõ ràng chúng tôi có quyền giải khuây một chút. Đâu phải ngày nào người ta cũng bị nhằm bắn nhỉ. Tôi bẻ lái cho xe tiến vào con đường nhỏ vào mũi đất ven biển nơi các tượng đá nguyên khối vươn lên sừng sững. Một hàng rào dây thép không cho phép đi xa hơn. Tôi chưa tắt động cơ, Keira xuống xe và tiến về phía bãi đỗ vắng tanh.
– Lại đây, vượt qua hàng rào này chỉ là trò trẻ con, cô ấy hồn nhiên bảo tôi.
Chỉ cần cúi rạp người xuống sát mặt đất là có thể luồn qua dưới hàng rào. Tôi tự hỏi liệu có thiết bị báo động nào phát hiện sự xâm nhập của chúng tôi hay không, nhưng tôi không thấy bất cứ thiết bị nào kiểu này chứ đừng nói đến camera giám sát. Dù sao thì cũng đã quá muộn, Keira đang chờ tôi phía bên kia hàng rào.
Điểm tham quan ấn tượng hơn nhiều soi với hình dung của tôi. Vòng vây đầu tiên của các mộ đá tạo thành một hình tròn đường kính một trăm mười mét. Phép màu nào đã giúp con người xây nên một công trình như thế? Xung quanh chúng tôi là quang cảnh thảo nguyên mênh mông không có ngọn núi đá nào lọt vào tầm mắt. Mỗi ngôi mộ đá của vành đai thứ nhất tính từ ngoài vào trong phải nặng đến vài chục tấn, làm thế nào họ có thể vận chuyển chúng tới tận đây, làm thế nào họ có thể dựng chúng lên?
– Vòng tròn thứ hai có đường kính chín mươi tám mét, Keira bảo tôi. Vòng tròn được vạch ra vô cùng đều đặn, vào thời đó thì chuyện này khá khó tin. Vòng tròn thứ ba được tạo thành từ năm mươi sáu lỗ hổng, được đặt tên là các lỗ Aubrey, tất cả được xếp cách quãng đều đặn. Trong đó, người ta tìm ra than gỗ và những bộ hài cốt đã cháy thành than; đây hẳn là phòng hỏa táng. Một dạng nghĩa địa.
Tôi nhìn Keira, sửng sốt.
– Làm sao em biết những chuyện này?
– Em là nhà khảo cổ mà, có phải chủ hiệu kem đâu, nếu không em sẽ giải thích cho anh cách làm ra phô mai từ sữa chứ!
– Và em biết về tất cả những di chỉ khảo cổ trên thế giới này?
– Tóm lại, Adrian ạ, dẫu sao đây cũng là Stonehenge cơ mà! Chương trình học cũng có nhắc mà.
– Em nhớ tất cả những gì được học ở trường ư?
– Không, nhưng những gì ban nãy đọc được trên tấm biển nhỏ ở ngay sau lưng anh thì em nhớ. Thôi nào, lại đây, em cho anh đi bộ.
Chúng tôi tiến về phía trung tâm của công trình kiến trúc và vượt qua vòng tròn bên ngoài của những tảng đá màu xanh da trời. Sau này tôi được biết rằng, ban đầu vòng tròn này gồm có bảy mươi lăm tượng đá sành màu xanh phơn phớt, bảy mươi lăm con quái vật, con to nhất trong số đó nặng đến năm mươi tấn. Các tảng đá được tập hợp theo dạng rầm xà, nhưng làm thế nào người ta có thể dựng chúng đứng thẳng vào kéo các thanh ngang lên? Chúng tôi lặng lẽ chiêm ngưỡng điều kỳ diệu khó tin ấy. Mặt trời lặn dần, kéo dài những tia sáng của mình lọt qua hàng hiên. Rồi bỗng nhiên, trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, ngôi mộ đá duy nhất nằm theo chiều ngang ở chính giữa bắt đầu phát sáng lấp lánh; không gì có thể sánh kịp ánh sáng đó.
– Một vài người cho rằng Stonehenge do các đạo sĩ tạo ra, Keira nói.
Tôi còn nhớ đã đọc vài bài báo trong các tạp chí phổ biến khoa học. Stonehenge đã khơi gợi trí tò mò của rất nhiều người mộ đạo, và chừng ấy giả thuyết, từ những giả thuyết điên rồ nhất cho tới những giả thuyết dựa trên lý tính, đã được nhắc tới. Nhưng sự thật là thế nào? Chúng ta đang ở đầu thế kỷ XXI, gần bốn nghìn tám trăm năm sau khi những công việc đầu tiên được đào nên mà vẫn chưa ai có thể giải thích được ý nghĩa của công trình kiến trúc này; tại sao cộng đồng người sinh sống tại nơi này cách đây hơn bốn nghìn năm lại tốn nhiều công sức đến thế để xây nên công trình này? Bao nhiêu người trong số họ đã hy sinh cuộc đời mình cho công trình này?
– Một vài người tin rằng có thể giải thích vị trí thẳng hàng của các tảng đá bằng thiên văn học. Vị trí của các tảng đá cho phép xác định các ngày đông chí và hạ chí.
– Giống đĩa Nebra ư? Keira hỏi tôi.
– Đúng thế, giống đĩa Nebra, tôi đáp với vẻ tư lự, nhưng lớn hơn nhiều.
Cô ấy nhìn bầu trời hết sức chăm chú, tối hôm đó chúng tôi không nhìn thấy các ngôi sao, một lớp mây dày đã phủ kín mặt biển. Đột nhiên cô ấy quay sang tôi.
– Anh có thể nhắc lại lời trăng trối của linh mục không?
– Anh vừa bắt đầu quên đi rồi, em chắc chắn muốn nhắc lại chuyện đó à?
Cô ấy không cần trả lời, tôi chỉ cần nhìn cô ấy là thấy ngay cái vẻ mặt vô cùng đặc biệt mỗi khi cô ấy quyết tâm làm chuyện gì.
– Ông ta nhắc đến các kim tự tháp bị che giấu, đến một bản văn khác, đến ai đó mà chúng ta cần phải để cho họ ngủ yên… giá mà chúng ta có thể hiểu được. Nhưng hiểu gì thì anh chịu!
– Hình tam giác và kim tự tháp, hai thứ đó giống nhau phải không nào? Keira hỏi.
– Về phương diện hình học thì quả có thế.
– Người ta chẳng đã nói các kim tự tháp có liên quan đến các ngôi sao là gì?
– Đúng là người ta có nói, trong trường hợp các kim tự tháp của người Maya, người ta nhắc đến đền thờ Mặt trăng và Mặt trời, em mới là nhà khảo cổ kia mà, em phải biết rõ chuyện này hơn anh mới phải.
– Nhưng các kim tự tháp của người Maya không bị che giấu, cô ấy trầm ngâm nói tiếp.
– Có nhiều di chỉ khảo cổ được gán cho những chức năng thiên văn, bất kể đúng sai. Stonehenge có thể là một đĩa Nebra khổng lồ, nhưng nó không có hình kim tự tháp. Chỉ cần xác định xem những kim tự tháp còn chưa được phát hiện có thể nằm ở đâu thôi?
– Đấy đấy, Keira đáp, cái ngày mà chúng ta xới tung tất cả các sa mạc trên thế giới lên, lục soát tất cả các khu rừng rậm có thể tưởng tượng ra và thám hiểm toàn bộ diện tích đáy đại dương, có lẽ em sẽ trả lời được câu hỏi của anh.
Một tia chớp rạch ngang bầu trời, vài giây sau sấm bắt đầu gầm ghè.
– Anh có áo mưa không? Keira hỏi tôi.
– Không.
– Càng hay.