Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Sứ Giả Của Thần Chết

Chương 4

Tác giả: Sidney Sheldon

– Tôi không đồng ý, thưa ngài giáo sư Ashley! – Barry, Dylan, sinh viên trẻ nhất và xuất sắc nhất của nhóm chuyên đề chính trị của Mary Ashley, nhìn quanh với vẻ thách thức – Alexandros Ionescu còn tệ hơn.
– Anh có thể cho chúng tôi vài yếu tố để làm yểm trợ cho câu nói ấy không? – Mary Ashley hỏi.
Có 12 sinh viên tốt nghiệp tại cuộc họp chuyên đề được tổ chức tại Giảng đường Dykstra thuộc Trường đại học Tiểu bang Kansas. Các sinh viên đang ngồi thành một vòng bán nguyệt đối diện với Mary.
Các danh sách chờ để vào các lớp học của cô dài hơn của bất kỳ giáo sư nào tại Trường đại học.
Cô là một giáo sư lỗi lạc có óc khôi hài dễ dãi và một sự ấm cúng bọc quanh người cô một cách thú vị. Mặt cô hình trái xoan biến chuyển từ ưa nhìn đến đẹp, tuỳ theo tâm trạng của cô. Đôi gò má cô cao, hình quả hạnh điển hình và đôi mắt màu nâu lục nhạt. Mái tóc cô đen và dày. Vóc người cô làm cho các nữ sinh viên của cô ganh tị và các nam sinh viên phải tưởng tượng, tuy nhiên cô không biết mình đẹp như thế nào.
Barry tự hỏi liệu cô có hạnh phúc với chồng không. Anh miễn cưỡng tập trung vào vấn đề đang tranh luận.
– Vâng, khi Ionescu lên cầm quyền ở Rumani, ông ta thẳng tay đàn áp tất cả những thành phần thân Groza và tái lập lại một địa vị thân Xô viết theo đường lối cứng rắn.
Một sinh viên khác lên tiếng.
– Vậy thì tại sao Tổng thống Ellison lại quan tâm thiết lập liên hệ ngoại giao với ông ta?
– Bởi vì chúng ta muốn nài nỉ ông ta vào quỹ đạo Tây Âu.
– Ta nói thế nào về sự liên hệ hiện nay của Rumani với các quốc gia khác trong Hiệp ước Warsawa và đặc biệt là Nga? – Mary hỏi.
– Tôi nói rằng bây giờ nó mạnh hơn.
Một giọng nói khác.
– Tôi không đồng ý. Rumani đã chỉ trích cuộc xâm lăng của Nga vào Afganixtan và họ đã chỉ trích thoả hiệp của người Nga với EEC. Cũng vậy, thưa giáo sư Ashley…
Chuông rung. Hết giờ.
Mary lên tiếng:
– Thứ hai, chúng ta sẽ bàn về những yếu tố cơ bản đã ảnh hưởng đến thái độ của Liên Xô đối với Đông Âu và chúng ta sẽ thảo luận đến những có thể xảy ra của kế hoạch xâm nhập vào khối Đông của Tổng thống Ellison. Chúc ngày cuối tuần tốt đẹp.
Mary nhìn các sinh viên đứng lên và đi ra cửa.
– Cô cũng thế, thưa giáo sư.
Mary Ashley yêu thích các cuộc trao đổi tại các cuộc hội nghị chuyên đề. Môn Sử Địa trở nên sinh động trong các cuộc thảo luận sôi nổi giữa các sinh viên tốt nghiệp trẻ và xuất sắc. Các tên người và tên đất ngoại quốc trở thành thực tế và các biến cố lịch sử trở thành sinh động. Đây là năm thứ năm của cô tại một phân khoa thuộc Trường đại học Tiểu bang Kansas, và việc giảng dạy vẫn còn kích thích cô. Cô dạy năm lớp khoa chính trị học mỗi năm, cộng thêm các cuộc hội nghị chuyên đề và mỗi cuộc hội nghị đều đề cập đến Liên Xô và các quốc gia anh em của họ. Đôi khi cô cảm thấy như một sự gian lận. – Mình chưa hề đến bất cứ quốc gia nào mình dậy cả, – cô nghĩ thế. – Mình chưa bao giờ ra ngoài Hoa Kỳ cả!
Mary Ashley sinh ra tại thị xã Junction, như cha mẹ cô. Phần tử duy nhất đã biết châu Âu là ông của cô, xuất thân từ một ngôi làng nhỏ Voronet thuộc Rumani. Mary đã định xuất ngoại một chuyến khi cô nhận bằng cử nhân, nhưng cô đã gặp Edward Ashley mùa hè năm ấy và chuyến đi châu Âu đã biến thành tuần trăng mật ba ngày tại Waterville, cách thị xã Junction 55 dặm, nơi mà Edward đang chăm sóc một bệnh nhân đau tim nguy kịch.
– Năm sau, chúng ta phải đi thật, – Mary nói với Edward ngay sau khi họ kết hôn với nhau. – Em muốn thăm Rome, Paris và Rumani, muốn chết đi được.
– Anh cũng vậy. Đây là một cuộc hẹn. Mùa hè sang năm.
Nhưng mùa hè sau, Beth sinh ra và Edward bận bịu công việc tại bệnh viện Cộng đồng Geary.
Hai năm sau, Tim được sinh ra. Mary đã lãnh bằng Tiến sĩ Triết học và trở về dạy tại Trường đại học Tiểu bang Kansas, và năm tháng trôi qua bằng một cách nào đấy. Ngoại trừ các chuyến đi Chicago. Atlanta và Denver ngắn ngủi, Mary chưa bao giờ rời khỏi Tiểu bang Kansas cả.
– Một ngày, – cô tự hứa với mình. – Một ngày…
***
Mary thu lại sổ sách của mình và liếc ra cửa sổ.
Sương giá đã phủ lên cửa sổ một màu xám mùa đông và tuyết lại bắt đầu rơi. Mary mặc chiếc áo khoác da và quàng chiếc khăn len đỏ rồi đi về lối phố Vather, nơi cô đậu xe.
Sân bãi rộng, 325 héc ta, rải rác với các toà nhà gồm các phòng thí nghiệm, hý viện, nhà nguyện giữa những hàng cây thôn dã. Từ xa, những toà nhà đá vôi nâu của Trường đại học giống như những lâu đài cổ có những tháp nhỏ trên đỉnh, sẵn sàng đánh đuổi quân thù.
Khi Mary đi ngang qua Giảng đường Denison, một gã lạ hoắc mang một chiếc máy ảnh Nikon đang đi về phía nàng. Hắn đưa máy ảnh lên định ngắm toà nhà và bấm. Mary ở vào cận cảnh của bức ảnh “Đáng lẽ mình nên tránh lối cho ông ta, – cô nghĩ thế. Mình đã làm hỏng bức ảnh của ông ta”.
Một giờ sau, âm bản của bức ảnh đang trên đường đi Washington, D.C.
Mỗi thành phố đều có nhịp điệu riêng biệt của mình, một sức sống toát ra từ người dân và đất đai. Thị trấn Junction, tại lãnh địa Geary, là một cộng đồng nông trại, cách thành phố Kansas 130 dặm về phía Tây, tự hào là trung tâm địa dư của Hoa Kỳ đại lục. Nó có một tờ báo “Daily Union” – một đài phát thanh và một đài truyền hình. Khu vực kinh doanh ở phố gồm một loạt các cửa hiệu và các trạm xăng mọc rải rác dọc đường số 6 và tại Washington. Có một Penney, Ngân hàng quốc gia đầu tiên, một Domino Pizza, tiệm nữ trang và một cửa hàng len. Có những cửa hàng bán “món ăn nhanh”, một trạm xe bus, một tiệm bán quần áo đàn ông và một tiệm rượu – loại cơ bản trong hàng trăm thành phố nhỏ khắp Hoa Kỳ. Nhưng người dân thị trấn Junction yêu nó vì vẻ thanh bình và yên tĩnh đồng quê của nó. Ít ra là trong những ngày làm việc trong tuần. Vào các dịp nghỉ cuối tuần, thị trấn Junction trở thành trung tâm nghỉ ngơi và giải trí cho các quân nhân ở Fork Riley gần đấy.
Mary Ashley dừng lại để mua thức ăn chiều tại chợ Dillon trên đường về nhà và rồi đi về hướng Bắc đến đường Old Milford, một khu vực nhà ở đáng yêu trông ra một cái hồ. Những cây sồi và cây du thẳng hàng dọc theo lề trái của con đường trong lúc bên phải là những ngôi nhà đẹp làm bằng đá, gạch hoặc gỗ.
Nhà Eshley là một ngôi nhà lầu hai tầng bằng đá toạ lạc giữa những ngọn đồi thoai thoải. Ngôi nhà đã được bác sĩ Edward Ashley và cô dâu của chàng mua 13 năm trước đây. Nó gồm một phòng khách rộng, một phòng ăn, thư viện, phòng ăn sáng và nhà bếp ở tầng dưới và một dãy phòng của chủ nhà và thêm hai phòng ngủ trên lầu.
– Nó rộng kinh khủng đối với chúng ta, chỉ có hai người, – Mary Ashley đã phản đối.
Edward đã ghì chặt nàng vào lòng:
– Ai bảo rằng nó chỉ cho hai người thôi?
Khi Mary từ Trường đại học trở về nhà, Tim và Beth đang đợi để đón nàng.
– Mẹ hãy đoán gì nào? – Tim lên tiếng. – Chúng ta sẽ được đăng ảnh lên báo?
– Hãy giúp mẹ cất những thứ linh tinh này, – Mary nói. – Báo nào thế?
– Người đó không nói, nhưng ông ấy chụp ảnh chúng con và bảo chúng ta sẽ được tin của ông ấy!
Mary dừng lại và quay sang nhìn con trai.
– Người đó có nói tại sao không?
– Không, – Tim nói, – nhưng điều chắc chắn là ông ấy có một cái máy Nikon rất sộp.
***
Ngày chủ nhật, Mary kỷ niệm – mặc dầu đấy không phải là từ đã nẩy ra trong đầu – ngày sinh nhật thứ 35 của nàng. Edward đã thu xếp một bữa tiệc bất ngờ tại câu lạc bộ của vùng quê. Những người láng giềng của họ, Florence và Douglas Schiffer và bốn đôi khách đang đợi nàng. Edward hài lòng như một đứa bé với vẻ ngạc nhiên trên mặt Mary khi nàng bước vào câu lạc bộ trông thấy bàn tiệc và hàng biểu ngữ mừng ngày sinh nhật hạnh phúc. Nàng chẳng có lòng dạ nào để bảo với chàng rằng nàng đã biết về bữa tiệc từ hai tuần trước. Nàng tôn thờ Edward. “Và tại sao không nhỉ? Ai không chịu nhỉ?”. Chàng hấp dẫn, thông minh và chu đáo. Ông nội và bố chàng đã làm bác sĩ và Edward không bao giờ thoáng nghĩ rằng chàng sẽ làm khác đi. Chàng là một phẫu thuật gia giỏi nhất tại thị trấn Junction, một người cha tốt và một ông chồng tuyệt vời.
Trong lúc Mary thổi tắt những cây nến trên chiếc bánh sinh nhật của nàng, nàng nhìn qua Edward và nghĩ: Một cô gái có thể may mắn như thế nào nhỉ?
Sáng thứ hai, Mary thức giấc với một tâm trạng buồn nản. Đêm trước có nhiều ly Champagne chúc mừng và nàng uống rượu không quen. Nàng phải cố gắng để ra khỏi giường.
– Champegne đã làm mình kiệt sức. Mình sẽ không bao giờ uống nữa!
Nàng bước nhẹ xuống cầu thang và rón rén khởi sự chuẩn bị bữa ăn sáng cho con, cố gắng lờ đi tiếng đập trong đầu.
– Champagne, – Mary rên rỉ, – Là cuộc trả thù của Pháp đối với chúng ta.
Beth đi vào phòng mang theo một chồng sách dầy.
– Mẹ đang nói chuyện với ai thế?
– Với mẹ đấy.
– Lạ thật!
– Khi nào con đúng là con đúng. – Mary đặt lên bàn một hộp ngũ cốc. – Mẹ mua cho con một hộp ngũ cốc mới. Con sẽ thích nó!
Beth ngồi xuống bàn nhà bếp và chăm chú nhìn vào cái nhãn trên hộp ngũ cốc:
– Con không thể ăn cái này. Mẹ đang định giết con đấy.
– Đừng đặt ý kiến nào vào đầu mẹ, – mẹ nó gắt. – Làm ơn ăn sáng đi.
Tim, đứa con trai mười tuổi của nàng, chạy vào nhà bếp. Nó nhủi vào một chiếc ghế cạnh bàn và nói:
– Con sẽ ăn thịt mỡ và trứng.
– Chuyện gì đã xảy ra cho cái chào buổi sáng rồi? – Mary hỏi.
– Chào mẹ. Con sẽ ăn thịt mỡ và trứng.
– Nào xin mời.
– Nào nhanh lên, mẹ. Con trễ học mất.
– Mẹ hài lòng vì con đã nói điều ấy. Cô Reynolds đã gọi điện cho mẹ. Con kém toán. Con nói điều gì về điều ấy?
– Tưởng tượng thôi.
– Tim, việc ấy con cho là đùa à?
– Cá nhân con không nghĩ rằng nó buồn cười, – Beth khịt mũi.
Nó cau có với chị.
– Nếu chị muốn buồn cười, hãy soi gương đi!
– Đủ rồi – Mary nói. – Hãy cư xử cho phải phép!
Cơn nhức đầu của nàng trở nên tệ hơn.
Tim hỏi.
– Con có thể đi trượt băng sau khi con học xong được không mẹ?
– Con đã trượt trên lớp băng mỏng rồi đấy. Con phải về nhà ngay và học. Con nghĩ một giáo sư đại học trông như thế nào khi có một đứa con trai yếu môn toán!
– Họ nói về hai tên kinh khủng! – Mary suy nghĩ một cách buồn bã. – Và còn chuyện gì nữa nếu có đến chín, mười, mười một, mười hai tên khủng bố?
Beth nói:
– Tim có nói với mẹ rằng nó được một điểm “D” trong bài phát âm không?
Hắn trợn mắt nhìn chị hắn.
– Mẹ có bao giờ nghe về Mark Twain không?
– Mark Twain có liên quan gì với việc này? – Mary hỏi.
– Mark Twain nói rằng ông ta không phục một người đàn ông nào chỉ biết phát âm đơn điệu một từ.
– Mình thắng không được, – Mary nghĩ, – Chúng nó ranh hơn mình.
Nàng đã gói thức ăn trưa cho mỗi đứa, nhưng nàng lo cho Beth vì nó đang dùng chế độ ăn mới ngốc nghếch.
– Beth, làm ơn ăn hết cho mẹ bữa trưa của con ngày hôm nay nhé.
– Nếu nó không có thuộc phòng bệnh nhân tạo. Con sẽ không để cho tính tham lam của kỹ nghệ chế biến thức ăn làm hại sức khoẻ của con.
– Việc gì đã xảy ra cho những ngày xưa tốt đẹp với thức ăn ướp muối? – Mary tự hỏi.
Tim giật một mảnh giấy long ra từ một trong những quyển vở của Beth.
– Nhìn này, – hắn hét lên.
– Beth thân yêu, hãy cùng nhau ngồi chung trong suốt kỳ học. Anh đã nghĩ đến em suốt cả ngày hôm qua và…
– Trả lại tao! – Beth hét lên. – Của tao mà! – Nó chụp lấy Tim nhưng hắn đã nhảy khỏi tầm với của nó.
Hắn đọc chữ ký ở cuối bức thư.
– Này. Ký tên là Virgil. Em nghĩ rằng chị yêu Arnold chứ.
Beth giật lại bức thư trong tay hắn.
– Mày biết gì về tình yêu mà nói. – Đứa con gái 12 tuổi của Mary lên tiếng chất vấn. – Mày là thằng con nít.
Tiếng đập trong đầu Mary trở nên không chịu đựng nổi.
– Các con ơi, cho mẹ nghỉ một tí.
Nàng nghe tiếng còi xe bus của nhà trường bên ngoài. Tim và Beth đi ra cửa.
– Đợi đã! Các con chưa ăn sáng! – Mary nói.
Nàng theo chúng ra ngoài hành lang.
– Không có thì giờ, mẹ. Phải đi thôi.
– Tạm biệt. Mẹ!
– Trời rét bên ngoài đấy. Hãy mặc áo khoác và quàng khăn vào.
Và thế là chúng nó đi. Mary cảm thấy kiệt sửc.
– Tình mẹ đang ở trong mắt bão.
Nàng đưa mắt nhìn lên lúc Edward xuống cầu thang và nàng cảm thấy dễ chịu.
– Ngay cả sau tất cả những năm này, – Mary nghĩ, – Chàng vẫn còn là người đàn ông hấp dẫn nhất mà mình đã từng biết.
Chính sự dịu dàng của chàng làm Mary thích thú trước tiên. Đôi mắt chàng xám dịu phảng phất một trí thông minh ấm áp, nhưng chúng cũng có thể biến thành đỏ rực, khi chàng say sưa một điều gì đấy.
– Chào em, – chàng đặt lên trán nàng một nụ hôn. Họ cùng đi vào nhà bếp.
– Anh ơi – cho em một đặc ân nhé?
– Chắc chắn rồi, người đẹp. Bất cứ điều gì.
– Em muốn bán con đi!
– Cả hai à?
– Khi nào?
– Hôm nay.
– Ai mua chúng nó!
– Những người lạ mặt. Chúng nó đã đến tuổi mà em chẳng có thể làm điều gì đúng cả. Beth đã trở thành một đứa ăn uống quái đản và con trai của anh trở nên một tên đần độn tầm cỡ thế giới!
Edward nói một cách thận trọng:
– Có lẽ chúng không phải là con của chúng ta.
– Em hy vọng là không. Em đang nấu cháo yến mạch cho anh đây.
– Chàng nhìn đồng hồ đeo tay.
– Xin lỗi, em. Không có thì giờ. Anh phải đi giải phẫu trong nửa giờ nữa. Hank Cates bị vướng vào một cái máy nào đấy. Ông ấy có thể bị mất vài ngón tay đấy.
– Ông ấy già quá mà vẫn làm nghề nông à?
– Đừng để ông ấy nghe em nói điều ấy nhé.
Mary biết rằng Hank Cates đã ba năm rồi chưa thanh toán những phiếu tiền của chồng nàng. Như hầu hết các nông gia trong cộng đồng. Hank Cates phải chịu đựng giá thấp về hàng nông nghiệp và thái độ lãnh đạm của ban quản trị tín dụng nông nghiệp đối với các nông gia. Nhiều người đã mất các nông trại mà họ đã làm việc trên đó suốt cả đời. Edward không bao giờ ép bệnh nhân nào của chàng thanh toán tiền cả, và nhiều người trả chàng bằng hoa màu. Gia đình Eshley có một căn hầm chứa đầy bắp, khoai tây và lúa mì. Một nông gia đã đề nghị trả cho Edward một con bò cái, nhưng khi Edward kể điều ấy với Mary, nàng nói:
– Trời ơi, hãy bảo ông ta rằng việc trị liệu ở trong nhà cơ mà.
Bây giờ Mary nhìn chồng và lại nghĩ: Mình may mắn thật.
– Được rồi1 – nàng nói – Em có thể quyết định giữ con lại. Em yêu bố chúng nó nhiều.
– Nói thật với em nhé, anh hơi mê mệt mẹ chúng nó đấy! – Chàng đưa tay ôm nàng và ghì chặt vào lòng. – Sinh nhật hạnh phúc, thêm một lần nữa!
– Anh vẫn còn yêu em lúc em đã là một phụ nữ lớn tuổi hơn chứ?
– Anh thích những phụ nữ lớn hơn.
– Cám ơn! – Mary bỗng nhiên nhớ lại điều gì. – Hôm nay em phải về nhà sớm và sửa soạn bữa ăn chiều. Đến lượt chúng ta phải đi thăm gia đình Schiffer.
Cây cầu nối liền với những người láng giềng của họ là nghi thức đêm thứ hai. Việc Douglas Schiffer là một bác sĩ và cùng làm việc với Edward tại bệnh viện làm họ càng gần gũi hơn.
Mary và Edward cùng rời khỏi ngôi nhà, đầu cúi xuống vì cơn gió tàn nhẫn. Edward phóng mình vào trong chiếc Ford Cranada của chàng và đưa mắt nhìn Mary leo lên sau tay lái của chiếc xe Camionnette.
– Xa lộ có lẽ nhiều băng đấy, – Ellison gọi. – Hãy lái cẩn thận!
– Anh cũng thế nhé!
– Nàng gửi cho chồng một nụ hôn gió và hai chiếc xe chạy ra khỏi ngôi nhà. Edward hướng về bệnh viện và Mary về phố Manhattan nơi Trường đại học toạ lạc, cách đấy 16 dặm.
Hai người đàn ông trong một chiếc xe đậu cách nhà Ashley độ phân nửa khu nhà nhìn hai chiếc xe chạy đi. Họ đợi cho đến khi những chiếc xe khuất dạng.
– Đi thôi.
Họ lái đến ngôi nhà kế nhà Ashley. Rex Olds, người tài xế, ngồi trong xe trong lúc người bạn đồng hành bước đến cửa trước và bấm chuông.
Cánh cửa được một người phụ nữ nước da bánh mật khoảng 35 tuổi mở ra.
– Thưa ông. Tôi có thể giúp gì cho ông?
– Bà Douglas Schiffer?
– Vâng…
Người đàn ông đưa tay vì túi áo khoác và lấy ra một thẻ chứng minh.
– Tên tôi là Donald Zamlock. Tôi đang làm việc trong cơ quan an ninh Bộ Ngoại giao.
– Chúa ơi! Đừng bảo tôi rằng Doug đã cướp nhà băng!
Người nhân viên mỉm cười lịch sự.
– Không, thưa bà. Không phải chúng tôi muốn biết điều ấy. Tôi muốn hỏi bà một ít câu hỏi về người láng giềng của bà, bà Ashley ấy.
Bà ta bỗng nhìn ông lo ngại.
– Mary à? Bà ấy thể nào?
– Tôi có thể vào nhà không?
– Vâng. Dĩ nhiên! – Florence Schiffer đưa ông ta vào phòng khách.
– Mời ông ngồi. Ông thích dùng cà phê không?
– Không, cám ơn. Tôi chỉ làm tốn vài phút của bà thôi.
– Tại sao ông lại hỏi về Mary?
Ông ta mỉm cười trấn an.
– Đây chỉ là một cuộc điều tra thường lệ. Bà ấy không bị nghi ngờ làm điều gì sai quấy đâu.
– Tôi hy vọng là không! – Florence Schiffer phẫn nộ. – Mary Ashley là một trong những người tốt nhất mà ông đã từng gặp đấy. – Bà nói thêm. – Ông đã gặp bà ấy chưa?
– Không, thưa bà. Cuộc viếng thăm này có tính cách mật, và tôi sẽ cảm kích nếu bà giữ nó như thế. Bà đã biết bà Ashley được bao lâu rồi?
– Khoảng 13 năm. Kể từ ngày bà ấy dọn đến ở bên cạnh.
– Bà nói rằng bà biết rõ bà Ashley chứ?
– Dĩ nhiên rồi. Mary là bạn thân nhất của tôi.
– Bà ấy và chồng có hoà thuận với nhau không?
– Ngoài Douglas và tôi ra, họ là đôi vợ chồng hạnh phúc nhất mà tôi đã từng gặp. – Bà ta suy nghĩ một lúc. – Tôi nói lại. Họ là đôi vợ chồng hạnh phúc nhất mà tôi đã từng gặp.
– Tôi biết rằng bà Ashley có hai đứa con. Một đứa con gái 12 tuổi và một đứa con trai 10 tuổi phải không?
– Đúng đấy, Beth và Tim!
– Bà có cho rằng bà ấy là một người mẹ tốt không?
– Bà ấy là một bà mẹ vĩ đại. Cái gì…
– Bà Schiffer, theo ý kiến bà, bà Ashley có phải là một con người vững vàng về tình cảm không?
– Dĩ nhiên rồi!
– Bà ấy không có những vấn đề tình cảm mà bà biết được chứ?
– Chắc chắn là không!
– Bà ấy có uống rượu không?
– Không. Bà ấy không thích rượu.
– Còn về ma tuý thì sao?
– Thưa ông, ông đã đến nhầm thành phố rồi. Không có vấn đề ma tuý tại thị trấn Junction chúng tôi.
– Bà Ashley kết hôn với một bác sĩ à?
– Vâng!
– Nếu bà ấy muốn có ma tuý…
– Ông mất trí rồi. Bà ấy không dùng ma tuý. Bà ấy không khịt mũi và cũng chẳng lên cơn.
Ông ta dò xét bà một lúc.
– Hình như bà biết tất cả những từ chuyên môn.
– Tôi có xem Miami Vice, như mọi người khác. – Florence giận dữ – Ông còn câu hỏi nào khác nữa không.
– Ông của Mary Ashley sinh ra ở Rumani. Có bao giờ bà nghe bà ấy thảo luận về Rumani không?
– Ồ, có một lần bà ấy kể những câu chuyện mà ông của bà ấy kể cho bà ấy nghe về đất nước cũ. Ông của bà ấy sinh ra tại Rumani nhưng cụ đã đến đây lúc còn thanh xuân.
– Bà có bao giờ nghe bà Ashley bày tỏ một ý kiến tiêu cực về chính quyền Rumani hiện tại không?
– Không. Tôi không nhớ được.
– Một câu hỏi cuối cùng. Bà có bao giờ nghe bà Ashley hoặc bác sĩ Ashley nói điều gì chống lại chính phủ Hoa Kỳ không?
– Tuyệt đối là không?
– Vậy theo ước tính của bà, cả hai đều là những người Mỹ trung thành chứ?
– Ông muốn đánh cuộc không. Xin vui lòng cho tôi biết…
Người đàn ông đứng dậy.
– Tôi muốn cám ơn vì thời giờ của bà, bà Schiffer. Và tôi muốn khẳng định với bà rằng vấn đề này có độ mật khá cao. Tôi sẽ cảm kích nếu bà không thảo luận điều ấy với bất kỳ một ai – ngay cả chồng bà cũng thế!
Một lát sau, ông đi ra cửa. Florence Schiffer đứng dậy chăm chú nhìn theo ông ta.
– Tôi không tin rằng cả chuyện này cũng đã xảy ra. – Bà ta nói lớn.
Hai nhân viên lái xe xuống đường Washington và chạy về hướng Bắc. Họ đi ngang qua một bảng dán thông cáo có ghi “Hãy vui lên trên phần đất Ah!”
– Sắc sảo đấy – Rex Old lẩm bẩm.
Họ đi ngang qua phòng thương nghiệp và kiến trúc hoàng gia của toà nhà Elks, nhà nuôi các con vật cưng Irina và một quầy rượu mang tên “Fat chance”. Các toà nhà kinh doanh chấm dứt đột ngột.
– Chúa ơi, con phố chính chỉ dài có hai khu nhà ở. Đây không phải là một thành phố. Đây là một cái bẫy! – Zamlock nói
– Đối với cậu nó là một cái bẫy, và đối với tớ nó cũng là một cái bẫy, nhưng đối với những người này nó là cả một thành phố. – Rex Old nói.
– Có lẽ đấy là một địa điểm tốt để sống, nhưng chắc chắn là tớ không muốn đến thăm nơi đây. – Zamlock lắc đầu.
Chiếc xe mui kín dừng lại trước mặt ngân hàng của tiểu bang và Rex Old bước vào bên trong.
Chàng trở lại hai mươi phút sau.
– Sạch sẽ, – chàng vừa nói, vừa bước vào trong xe. – Gia đình Ashley có 7.000 đô-la ở nhà băng, một văn tự cầm cố về ngôi nhà của họ và họ thanh toán những phiếu nợ của họ đúng kỳ hạn. Giám đốc ngân hàng cho rằng vị bác sĩ quá từ tâm để trở thành một thương gia giỏi, nhưng theo ông ta để ý, ông ấy có nguy cơ thiếu nợ cao nhất!
Zamlock nhìn vào cặp giấy tờ bên cạnh.
– Chúng ta hãy kiểm tra một vài người nữa và trở lại đất văn minh trước khi tôi bắt đầu chịu hết nổi.
Douglas Schiffer bình thường là một con người vui tính, dễ dãi, nhưng lúc này mặt chàng có vẻ dữ tợn. Gia đình Schiffer và Ashley đang chơi ván bài bridge hàng tuần của họ và gia đình Schiffer bị gác 10.000 điểm. Lần thứ tư buổi chiều hôm ấy, Florence Schiffer đã đánh con bài sai lầm.
Douglas Schiffer dằn mạnh tay bài của chàng xuống.
– Florence – Chàng la lớn, – Em đang chơi cho bên nào thế? Em không biết chúng ta bị gác thế nào à?
– Xin lỗi, – nàng khẩn trương nói. – Chỉ vì em không thể tập trung được thôi.
– Ra là thế, chồng nàng khịt mũi.
– Có gì quấy rầy chị không? – Edward Ashley hỏi Florence.
– Tôi không thể cho anh biết đâu.
Tất cả đều nhìn nàng ngạc nhiên.
– Thế nghĩa là gì? – Chồng nàng hỏi.
Florence Schiffer hít một hơi dài.
– Mary! Chuyện của chị đấy.
– Chuyện gì của tôi?
– Chị đang gặp một loại rắc rối nào đó chứ?
Mary nhìn nàng đăm đăm.
– Rắc rối à? Không. Sao chị lại nghĩ như thế?
– Người ta bảo tôi không được nói. Tôi đã hứa.
– Chị hứa với ai thế? – Edward hỏi.
– Một nhân viên Liên bang từ Washington. Ông ta đến nhà sáng nay hỏi tôi đủ thứ câu hỏi về Mary. Ông ta làm như chị là một loại gián điệp quốc tế ấy!
– Loại câu hỏi nào vậy – Edward chất vấn.
– Ồ anh biết đấy. Chị ấy có phải là một người Mỹ trung thành không? Chị ấy có phải là một người vợ và một người mẹ tốt không? Chị ấy có dùng ma tuý không?
– Tại sao họ lại hỏi bà những câu hỏi quỷ quái như thế nhỉ?
– Đợi một phút đã, – Mary lên tiếng một cách khích động. – Tôi nghĩ rằng tôi biết. Đấy là về nhiệm kỳ của tôi!
– Gì thế? – Florence hỏi.
– Tôi đang có nhiệm kỳ tại Trường đại học. Trường đại học làm một số công việc nghiên cứu bén nhạy của chính phủ trên khu đại học, do đó, tôi cho rằng họ phải kiểm tra mọi người thật kỹ.
– À Cám ơn Chúa vì chỉ có từng ấy! – Florence Schiffer thở một hơi nhẹ nhõm. – Tôi nghĩ rằng họ sẽ bắt giam chị đấy chứ!
– Tôi hy vọng họ làm thế, – Mary mỉm cười. – Tại tiểu bang Kansas.
– Nào, giờ thì việc ấy đã xong! – Douglas Schiffer lên tiếng, – ta có thể tiếp tục chơi nữa không? – Chàng quay sang vợ. – Nếu em còn nhầm thêm một con bài, anh sẽ đặt em lên đầu gối của anh đấy!
– Xin hứa. Xin hứa.

Bình luận
× sticky