– Anh phải thả anh ấy ra! – Katherine nài nỉ, rồi bật khóc – Chúng tôi đã làm mọi việc anh yêu cầu?
Cô nghe rõ tiếng Langdon nện điên cuồng hơn khi nước chảy vào hòm.
Gã đàn ông xăm trổ chỉ mỉm cười.
– Bà biết điều hơn anh trai bà đấy. Tôi phải làm bao nhiêu việc để buộc Peter khai ra những bí mật của lão…
– Anh ấy đâu rồi?! – Katherine gặng hỏi – Peter ở đâu?! Cho tôi biết đi! Chúng tôi đã làm đúng những gì anh đòi hỏi. Chúng tôi giải cái kim tự tháp và…
– Không, các người không hề giải kim tự tháp. Các người toàn giở trò. Các người bưng bít thông tin và dẫn nhân viên chính phủ tới nhà này. Tôi không tưởng thưởng cách hành xử ấy.
– Chúng tôi không còn lựa chọn nào khác – Katherine trả lời, cố nén nước mắt – CIA đang truy lùng anh. Họ buộc chúng tôi phải đi cùng một đặc vụ. Tôi sẽ kể cho anh mọi việc. Miễn là anh thả Robert.
Katherine nghe tiếng Langdon hét và nện cái hòm. Nhìn nước chảy qua ống, cô biết anh không còn nhiều thời gian.
Gã đàn ông xăm trổ đưa tay xoa cằm, đoạn nói rất điềm tĩnh.
– Tôi cá là cả tá đặc vụ đang đợi tôi ở Quảng trường Franklin, phải không?
Katherine lặng thinh, gã kia liền đặt bàn tay to bè lên vai cô, từ từ kéo cô về phía trước. Với hai tay vẫn bị trói chặt ở phía sau ghế, vai Katherine căng ra, đau buốt như muốn đứt rời.
– Đúng – cô thú nhận – Có nhiều đặc vụ ở Quảng trường Franklin.
Gã nọ kéo mạnh hơn.
– Địa chỉ trên chóp là gì thế?
Katherine chịu không thấu cơn đau ở cổ tay và hai vai, nhưng cô nín lặng.
– Bà nên nói với tôi lúc này, Katherine, nếu không tôi sẽ bẻ gãy tay bà và hỏi lại lần nữa.
– Tám? – Katherine há miệng vì đau – Số còn thiếu là tám! Cái chóp cho biết: “Bí mật nằm trong Tổ Chức, Tám Quảng trường Franklin”. Tôi thề đấy. Tôi không biết gì thêm để nói với anh đâu. Đó là Tám Quảng trường Franklin!
Gã kia vẫn không buông vai cô.
– Tôi chỉ biết đến thế thôi – Katherine nói – Địa chỉ đấy! Thả tôi đi! Cho Robert ra khỏi cái bể đó!
– Tôi sẽ… – gã kia nói – nhưng khó khăn đây. Tôi mà tới số Tám Quảng trường Franklin thì thể nào cũng bị tóm. Cho tôi biết ở địa chỉ đó có gì?
– Tôi không biết!
– Những biểu tượng trên đế kim tự tháp thì sao? Ở mặt dưới ấy? Bà có biết ý nghĩa của chúng không?
– Biểu tượng nào ở đế? – Katherine ngơ ngác không hiểu – Phần đế làm gì có biểu tượng. Nó nhẵn thín, trống trơn.
Chẳng hề bận tâm trước những tiếng kêu cứu tắc nghẹn phát ra từ chiếc hòm như cỗ quan tài kia, gã đàn ông xăm trổ thản nhiên bước tới cái túi của Langdon lấy kim tự tháp đá. Sau đó, gã trở lại chỗ Katherine và giơ nó lên trước mắt cô cho cô nhìn rõ phần đế.
Trông thấy những biểu tượng khắc, Katherine há hốc miệng kinh ngạc.
Không… không thể như thế được! Đáy kim tự tháp phủ kín những hình khắc rối rắm. Chỗ đó lúc trước không có gì hết. Mình dám quả quyết như thế. Cô không hiểu ý nghĩa của những biểu tượng này. Dường như chúng liên quan đến tất cả các truyền thống bí ẩn, trong đó có nhiều loại cô thậm chí còn không nhớ nổi.
Hoàn toàn lộn xộn.
– Tôi…không hiểu ý nghĩa của nó – cô thú nhận.
– Tôi cũng vậy. May thay, chúng ta có một chuyên gia để tuỳ ý sử dụng – Gã bắt cóc liếc mắt về phía cái hòm – Ta thử hỏi ông ta nhé?
Gã mang kim tự tháp tới chỗ cái hòm.
Trong khoảnh khắc hy vọng ngắn ngủi, Katherine những tưởng gã sẽ mở khoá nắp. Thế nhưng gã thản nhiên ngồi lên nóc hòm, cúi xuống và đẩy một ô nhỏ sang bên để lộ khuôn cửa sổ bằng kính Plexiglas.
Ánh sáng!
Langdon che mắt, hấp háy nhìn ánh sáng từ trên tràn xuống. Khi mắt đã điều tiết, niềm, hy vọng trong anh biến thành nghi hoặc. Anh đang trông ra ngoài nhờ ô cửa sổ trên nóc hòm. Qua đó, anh trông thấy trần nhà màu trắng và một bóng đèn huỳnh quang.
Không hề báo trước, gương mặt xăm trổ đột ngột xuất hiện phía trên anh, chòng chọc nhìn xuống.
– Katherine đâu? – Langdon gào toáng – Thả ta ra!
Gã kia mỉm cười.
– Cô bạn Katherine của ông vẫn ở đây với tôi, – gã nói – Tôi có khả năng tha mạng cho cô ta, và tha mạng cho cả ông nữa. Nhưng thời gian của ông rất ngắn, vì vậy tôi đề nghị ông nên lắng nghe cẩn thận.
Dưới lớp kính, Langdon chỉ nghe tiếng được tiếng mất. Nước đã dâng cao lên nhiều, mấp mé tràn qua ngực anh.
– Ông có biết có các biểu tượng ở đế kim tự tháp không? – gã hỏi.
– Có! – Langdon gào to, vì anh đã phát hiện ra điều ấy khi kim tự tháp còn nằm lăn lóc trên sàn – Nhưng tôi không hiểu ý nghĩa của chúng. Anh cần tới số Tám Quảng trường Franklin. Câu trả lời nằm ở địa chỉ ấy? Cái chóp cho biết…
– Thưa Giáo sư, cả hai ta đều rõ CIA đang rình tôi tại đó. Tôi không định chui đầu vào bẫy. Hơn nữa, tôi không cần số phố. Trên quảng trường chỉ có duy nhất một toà nhà may ra liên quan là Đền thánh Almas – Gã ngừng lại, đăm đăm nhìn xuống Langdon – Giáo phẩm Ả-rập Cổ đại của các Hiệp sĩ Đền thánh Thần bí.
Langdon bối rối. Anh rất quen với Đền Almas, nhưng anh quên bẵng nó nằm ở Quảng trường Franklin. Hiệp sĩ đền thánh chinh là…”Tổ Chức” ư? Đền thờ của họ nằm trên một cầu thang bí mật chăng?
Sử sách không ghi chép điều gì tương tự cả, nhưng tình thế của Langdon lúc này không cho phép anh tranh luận về sử học.
– Đúng, – anh hét lên – Chắc chắn là nó. Bí mật nằm ngay trong Tổ Chức!
– Ông biết toà nhà đó thì phải?
– Biết rất rõ! – Langdon ngóc đầu để giữ cho tai cao hơn khối chất lỏng đang dâng lên rất nhanh – Tôi có thể giúp anh! Thả tôi ra!
Nghĩa là ông tin rằng ông có thể cho tôi biết mối liên hệ giữa Đền thánh Almas và biểu tượng trên đế kim tự tháp phải không?
– Đúng! Chỉ cần cho tôi nhìn các biểu tượng.
– Rất tốt! Để xem ông sẽ đi đến đâu nào.
Mau! Chất lỏng âm ấm cứ dâng cao xung quanh, Langdon rướn lên gần nắp hòm, sẵn sàng đợi gã kia mở khoá. Nào! Mau mau!
Nhưng cái nắp chẳng hề mở ra. Thay vào đó, đế kim tự tháp đột nhiên xuất hiện, lơ lửng trên ô kính Plexiglas.
Langdon trân trối ngó lên trong tâm trạng hoảng hốt.
– Tôi tin thế này đủ gần cho ông rồi chứ? – gã đàn ông giữ kim tự tháp bằng đôi bàn tay đầy hình xăm của mình – Nghĩ nhanh lên, Giáo sư! Tôi đoán ông còn chưa đầy sáu mươi giây.