Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Khu Vườn Bí Mật

Chương 15 – Xây tổ ấm

Tác giả: Frances Hodgson Burnett

Sau một tuần mưa, bầu trời cao xanh vời vợi lại hiện ra cùng với vầng dương nóng bỏng. Dù không có cơ hội để để ngắm nhìn khu vườn bí mật hay gặp mặt Dickon, vậy mà cô chủ Mary vẫn cảm thấy vô cùng vui sướng. Tuần lễ dường như không kéo dài. Con bé được ở bên Colin vài giờ mỗi ngày trong căn phòng của thằng bé để kể về các vị tiểu vương, các khu vườn hoặc về Dickon và túp nhà gianh trên cánh đồng hoang.

Hai đứa chụm đầu xem những cuốn sách tuyệt đẹp với vô số tranh vẽ bên trong, thỉnh thoảng Mary đọc vài truyện cho Colin và có lúc Colin cũng đọc cho nó nghe chút ít. Vào những lúc thằng bé vui cười và thích thú, Mary không thấy nó có vẻ gì của một người tàn tật, trừ khuôn mặt trằng nhợt nhạt và rằng nó luôn phải ngồi trên chiếc sofa.

– Cô thật láu cá khi cứ gỏng tai lên nghe ngóng rồi xuống giường lần ra mọi chuyện vào cái đêm hôm đó. – Một bữa, bà Medlock vừa tủm tỉm vừa bảo. – Nhưng phải công nhận như thế lại may cho chúng tôi.Từ ngày có cô cùng chơi, cậu ấy không còn cáu bẳn hay khóc than sầu thảm nữa. Cô bảo mẫu đã định bỏ việc vì quá mệt mỏi với cậu ấy đấy. Nhưng giờ cô ấy bảo ở lại cũng không sao vì đã có cô chia sẻ nhiệm vụ.

Trong các buổi trò chuyện với Colin, Mary cố thật thận trọng khi nói về khu vườn bí mật. Còn một số điều nó muốn biết về thằng bé, nhưng nó cảm thấy mình có thể tìm hiểu mà không cần phải hỏi thẳng Colin. Ngay từ buổi đầu, khi bắt đầu thích ở chỗ Colin, nó muốn biết liệu thằng bé có phải loại con trai mà người ta có thể gửi gắm một bí mật.

Thằng bé không có gì giống như Dickon, nhưng rõ ràng nó vô cùng thích thú trước ý tưởng về một khu vườn chưa một ai hay biết, đến độ con bé nghĩ có lẽ sẽ tin tưởng được đó. Nhng vì biết nó chưa lâu, nên Mary cũng không chắc lắm. Và còn điều nữa, đó là nếu thằng bé là người có thể tin cậy, nếu nó thực sự đáng tin, thì liệu có thể đưa nó đến khu vườn mà không sợ bị ai phát hiện?

Ông bác sĩ tốt bụng đã dặn rằng Colin cần được sống trong bầu không khí trong lành, còn thằng bé cũng bảo nó chẳng quản ngại không khí tươi mát trong khu vườn bí mật. Biết đâu khi được hít thở đến thỏa thích khí trời nhẹ nhõm, được làm quen với Dickon và chim ức đỏ, được tận mắt thấy muôn vật sinh sôi nảy nở , thì nó chẳng còn nghĩ nhiều đến cái chết nữa.

Thời gian gần đây, Mary thường ngắm nhìn mình trong gương, nó nhận ra một hình hài khác hẳn đứa trẻ nó từng thấy hôm mới từ Ấn Độ sang. Đứa bé này xinh hơn nhiều. Cả Martha cũng nhận ra những thay đổi đáng kể ở con bé.

– Khí trời ngoài cánh đồng hoang đã khiến cô khỏe hẳn lên. Cô không còn la hét, không còn gấy nhẳng như trước. Thậm chí tóc cô cũng không còn lơ thơ trên trán mà đã dày dặn hơn. Khi tóc mọc dài hơn một chút, cô sẽ có một mái tóc óng ả.

– Tóc tôi cũng giống tôi vậy, – Mary bảo. – Đang khỏe ra và dày dặn hơn. Chắc chắn tóc tôi còn dài ra nữa chứ.

– Cứ nhìn là biết, – Martha vừa nói vừa khẽ rũ những lọn tóc quanh mặt con bé. – Cô sẽ không còn xấu xí khi tóc mọc dài ra, với thêm một chút hồng hào trên đôi má.

Nếu khu vườn và không khí trong lành có lợi cho nó, thì có lẽ cũng sẽ như vậy với Colin. Nhưng có điều, Colin ghét mọi người nhìn mình, có thể cậu chàng chẳng thích thú gì khi gặp Dickon.

– Tại sao cậu lại tức giận khi có ai nhìn mình hả? – Một hôm, con bé vặn hỏi.

– Tớ luôn căm thù chuyện đó, – thằng bé đáp, – ngay cả khi tớ còn bé tí. Dạo họ đưa tớ tới bãi biển, tớ chỉ nằm lì trong xe ngựa của tớ, ai ai cũng nhìn tớ chằm chằm, cả các quý bà cũng chẳng chịu tha, họ bắt chuyện với người vú em rồi quay sang thì thào to nhỏ, và lúc ấy tớ thừa biết họ đang bảo tớ sẽ chẳng sống nổi chứ đừng nói là lớn lên. Thỉnh thoảng có bà còn vỗ vỗ vào hai má tớ mà nói: “Đứa trẻ thật đáng thương!” Có lần, một bà vừa làm thế là tớ khóc ré lên và cắn vào bàn tay bà ta. Bà ta kinh hoàng chạy biến.

– Chắc bà ta cho rằng cậu điên như một con chó, – Mary bảo, tỏ vẻ không thần phục.

– Tớ không cần biết bà ta nghĩ gì, – Colin nhíu mày nói.

– Tớ đang tự hỏi tại sao cậu không kêu lên và cắn tớ hôm tớ bước vào phòng cậu? – Mary nói. Rồi nó khẽ nhỏen miệng cười.

– Lúc đó tớ tưởng cậu là một con ma hay giấc mộng. Người ta không thể đi cắn một con ma hay giấc mộng được, và nếu có kêu gào lên thì cũng chẳng ai thèm quan tâm.

– Liệu cậu có thấy căm ghét không nếu… nếu có một anh bạn nhìn cậu? – Mary ngập ngừng hỏi.

Thằng bé lại ngả người trên tấm nệm và ngẫm nghĩ.

– Một anh bạn, – nó nói hết sức chậm rãi, như đang cân nhắc từng từ, – có một anh bạn mà tớ cho rằng không cần phải băn khoăn. Đó chính là cái cậu bé biết cả chỗ bọn cáo đang sống. Dickon chứ gì?

– Tớ cả quyết rằng cậu không phải lo về anh ấy, – Mary bảo.

– Ngay đến chim chóc và súc vật cũng không phải lo về cậu ấy cơ mà, – Colin nói, vẫn vẻ ngẫm nghĩ, – đó có lẽ là lý do tại sao tớ không lo. Cậu ấy là một tay thu phục được cả thú hoang, và tớ chính là một gã thú hoang chính cống.

Nói đoạn, nó phá lên cười, và con bé cũng cười theo; quả thực, câu chuyện đã kết thúc với cảnh hai đứa cùng cười ngặt nghẽo và thấy rằng cái ý tưởng một gã thú hoang đang náu mình trong cái hang của gã nghe thật ngộ quá.

Rốt cục, Mary cảm thấy nó không cần phải lo lắng gì về Colin nữa. Vào cái buổi sáng đầu tiên khi bầu trời trong xanh trở lại, Mary thức dậy từ rất sớm. Mặt trời đang tỏa những tia nắng xiên xiên qua mấy tấm rèm cửa, và có một cái gì vui tươi trong cảnh tượng ấy đến nỗi con bé nhảy phắt khỏi giường, chạy tới bên cửa sổ. Nó tự tay kéo rèm và mở cửa sổ, một làn khí thơm mát, trong lành thoang thoảng lướt qua.

Cánh đồng hoang đượm một màu xanh ngắt. Tưởng chừng như vừa có một phép màu nào đó vừa xảy đến với thế giới đó vậy. Đây đó mọi nơi vang lên những âm thanh nhè nhẹ xao xuyến, của các loài chim đang bắt đầu dọn giọng cho một buổi hòa nhạc. Mary chìa bàn tay ra ngoài cửa sổ, hong nó trong ánh nắng.

– Ấm quá! Ấm quá! Ấm áp thế này thì các mầm non sẽ chóng nhú, chồi và rễ sẽ chóng mọc lên với tất cả sức mạnh của chúng từ trong lòng đất.

Con bé quỳ xuống và ngả hẳn người ra ngoài cửa sổ, hít một hơi sâu rồi khịt khịt mũi cho tới khi nó cười phá lên khi chợt nhớ tới những gì mà bà mẹ Dickon đã nói về chóp mũi rung rung như mũi thỏ của cậu ấy.

– Còn sớm quá, – con bé thầm nhủ. – Mấy đám mây nhỏ kia toàn một màu hồng, mình chưa từng nhìn thấy bầu trời như vậy bao giờ. Chưa một ai thức giấc. Mình thậm chí còn chưa nghe thấy tiếng của những người làm trong chuồng ngựa nữa.

Một ý nghĩ bất chợt khiến con bé giật mình.

– Mình không thể đợi được! Mình phải ra ngó lại khu vườn bí mật xem sao!

Lúc này, Mary đã có thể tự mặc quần áo được rồi, nó chỉnh tề váy áo trong vòng có năm phút. Nó biết một cửa ngách nhỏ mà nó có thể tự mở lấy, nó chạy như bay xuống tầng dưới, trên đôi chân mới chỉ vội xỏ tất, ra đến gần đại sảnh nó mới xỏ xong giày.

Con bé tháo xích cửa, gạt then cài, tra chìa khóa xong thì cánh cửa mới chịu mở ra. Nó lao xuống bậc thềm chỉ với một cú nhảy, và thế là nó đã đặt chân lên bãi cỏ xanh mơn mởn, nơi ánh nắng chan hòa tỏa xuống thân mình nó, mùi hương thoang thoảng ngọt ngào ấm áp vây quanh nó, cùng tiếng vi vu réo rắt và tiếng hót lanh lảnh từ khắp các bụi râm, lùm cây đang vọng đến bên tai.

Con bé xiết chặt hai bàn tay trước niềm vui thuần khiết rồi ngước nhìn bầu trời, bầu trời ấy vừa xanh ngăn ngắt vừa phơn phớt hồng, pha chút ánh ngọc trai lẫn trong màu trắng nõn nà và rồi tràn ngập ánh sáng của tiết xuân, đến nỗi con bé cảm thấy nó muốn tự mình huýt sáo và hát vang lên, biết rằng các con chim hét, chim ức đỏ và cả chim chiền chiện cũng khó lòng mà nén nổi điều đó. Con bé chạy lần theo các bụi cây và đường mòn dẫn tới khu vườn bí mật.

– Tất cả đều khác rồi, – con bé nói. – Thảm cỏ xanh tươi hơn, các chồi biếc đang nhú lên khắp mặt đất, các búp lá đều mở ra và các mầm xanh đang lấp ló. Mình đoán chắc chiều nay Dickon sẽ đến.

Cơn mưa ấm áp kéo dài đã làm nên điều kì diệu cho những luống cỏ viền quanh lối đi dạo cạnh bức tường thấp.

Có gì đó đang bắt đầu đâm chồi và nhú lên từu bộ rễ của các lùm cây, và đây đó thậm chí đã thấy lóe lên sắc tím vương giả cùng sắc vàng đang trào ra từ những than cây nghệ tây. Sáu tháng trước, cô chủ Mary không tài nào hình dung nổi thế giới sẽ bừng tỉnh thế nào, nhưng giờ đây nó không bỏ lỡ một điều gì hết.Lúc con bé đặt chân đến chỗ cánh cửa ẩn dưới đám dây thường xuân, nó giật nảy mình bởi một âm thanh lớn kì quặc. Thì ra là tiếng kêu quàng quạc của một chú quạ, từ đỉnh bờ tường.

Ngước mắt nhìn lên, nó nhận ra một con chim có bộ lông xanh đen bong loáng – là một con quạ đang ngó nhìn con bé với vẻ khôn ngoan tinh quái. Từ trước tới giờ, Mary chưa từng nhìn thấy một con quạ gần đến thế, khiến nó thấy hơi lo. Nhưng ngay sau đó, con quạ kia trải rộng đôi cánh bay ngang qua khu vườn. Mary hi vọng nó không định ở lại trong đó , liền đẩy cánh cửa ra xem con quạ có còn đó không.

Khi đã vào hẳn trong vườn, con bé nhận ra con chim đã sà xuống đậu trên một cây táo còi, dưới tán cây táo là một con vật bé xíu có bộ lông hung đỏ và chiếc đuôi bông xù – cả hai con vật đều đang ngắm nhìn tấm lưng trần cúi rạp và cái đầu tóc hung hung của thằng Dickon lúc này đang quỳ trên thảm cỏ làm việc cật lực. Mary phóng như bay qua thảm cỏ tới bên thằng bé.

– Ôi, Dickon! Dickon! – Con bé kêu toáng lên. – Sao anh có thể đến đây sớm thế? Hả anh? Mặt trời mới chỉ vừa mọc kia mà!

Thằng bé đứng dậy, nó cười to sôi nổi, rồi đưa tay vò vò cho mái tóc rối bù lên; đôi mắt nó chẳng khác nào một mảng trời xanh.

– Ồ! Tôi thức dậy trước đó từ lâu rồi. Làm sao có thể lần chần trên giường cơ chứ! Mọi thứ của thế giới đều bắt đầu trở lại vào sang hôm nay. Tất cả đang vận động, rì rầm, bới tìm, líu lo, làm tổ, và cùng nhau hít thở làn hương thơm ngát, đến nỗi người ta phải ra ngoài mà sống chứ chẳng ai chịu nằm dài lưng ở nhà. Khi mặt trời thức dậy, lúc ấy tôi đang nằm giữa bụi thạch thảo, bản than cũng tưởng mình sướng đến phát điên lên, tối cứ hét tướng lên rồi lại hát. Rồi tôi tới thẳng đây. Tôi không thể không tới. Tại sao ư: bởi khu vườn nằm đây và đợi tôi!

Mary đưa hai bàn tay lên ngực, hổn hển, như người vừa mới chạy.

– Ôi, Dickon! Dickon! – Nó thốt lên. – Tôi thấy hạnh phúc đến nỗi khó mà thở nổi!

Thấy Dickon chuyện trò với kẻ lạ mặt, con vật tí hon có cái đuôi xù ngóc đầu khỏi chỗ của nó dưới gốc cây và sán lại gần thằng bé, còn con quạ lại cất tiếng kêu quàng quạc lần nữa, tung cánh từ trên cành cây nơi nó đậu đỗ xuống thật êm ru xuống bên vai Dickon.

– Đây là cáo con, – thằng bé nói, xoa xoa lên cái đầu màu đỏ xinh xinh của con vật. – Tên nó là Đại úy. Còn đây là Bồ hóng. Con Bồ hóng ấy à, nó đã bay qua đồng hoang theo tôi, còn Đại úy, nó chạy thục mạng như thể có bầy chó săn đang truy đuổi đằng sau. Cả hai đứa đều có cùng cảm giác với tôi.

Hai con vật đều nhìn Mary không chút sợ hãi. Khi Dickon bước đi, con Bồ hóng vẫn đậu trên vai thằng bé, còn Đại úy thì quấn quýt liền bên nó.

– Trông này! – Dickon kêu lên. – Xem chúng đang nhú lên này, và đây, đây nữa! Ôi! Nhìn kia nữa kìa!

Nó quỳ thụp xuống, Mary chạy lại bên nó. Chúng thấy cả một khóm nghệ tây đang đua nhau khoe những sắc vàng, da cam và tím từ bao giờ. Mary cúi sát mặt xuống và hôn, hôn mãi lên chúng.

– Người ta chẳng bao giời hôn ai như thế này, – con bé nói khi ngẩng đầu lên. – Nhưng với những bông hoa thì là chuyện khác.

Thằng Dickon có vẻ bối rối, nhưng chỉ mỉm cười.

– Ồ! Tôi đã hôn mẹ nhiều lần như vậy khi từ đồng hoang trở về sau một ngày lang thang, và bà đứng đó, bên cánh cửa, trong ánh nắng, thật vui sướng và dễ chịu.

Hai đứa chạy từ góc vườn này sang góc vườn kia và khám phá ra bao điều kì diệu, đến nỗi chúng buộc phải tự nhắc nhau nói khé. Thằng bé chỉ cho Mary xem búp lá quăn tít trên một nhánh hồng mà bề ngoài tưởng chừng đã chết. Nó cũng chỉ cho con bé hàng ngàn chồi xanh non đang nhú lên từ lớp đất mùn. Chúng ghé sát những cái mũi trẻ thơ đầy háo hức của mình xuống mặt đất, rồi hít lấy hít để hơi thở mùa xuân ấm áp của đất, chúng xới đất, nhổ cỏ và cười khẽ trong nỗi sung sướng vô ngần cho tới khi mái tóc cô chủ Mary rối bù như tóc của Dickon và hai má nó đỏ ửng không khác gì thằng bé.

Biết bao niềm vui trần thế đã đến với khu vườn bí mật buổi sáng hôm ấy, trong đó có một niềm vui còn lớn hơn hết thảy, kì diệu hơn hết thẩy. Một cái gì nhanh như ánh chớp bay vụt qua bức tường, rồi phóng qua cả các lùm cây tới một góc vườn sát ngay đó – con chim ức đỏ tựa như ngọn lửa rực rỡ, mỏ ngậm một vật gì, từ đâu xuất hiện. Dickon đứng lặng người, vịn tay vào Mary, như thể hai đứa chợt nhận ra mình vừa phá lên cười trong một nhà thờ.

– Đừng làm náo động, – thằng bé thì thầm bằng thứ giọng Yorkshire thật nặng. – Chúng mình phải tránh cả thở mạnh nữa. Trông thấy nó lần vừa rồi là tôi biết nó đang mùa kết đôi. Đây là con chim ức đỏ của ông Ben Weatherstaff. Nó đang xây tổ của nó đấy. Nó sẽ ở đây, nếu chúng mình không làm nó sợ.

Hai đứa nhẹ nhàng nằm xoài xuống bãi cỏ, không dám cử động.

– Chúng mình đừng nhìn nó gần quá, – Dickon bảo. – Cậu chàng sẽ bay khỏi đây, nếu lúc này mà bị quấy rầy. Chỉ là hơi khó tính một chút thôi cho tới khi tất cả chuyện này qua đi. Nó đang đảm đương gánh nặng gia đình đấy. Nó dễ e dè và không thoải mái. Nó không có thì giờ để chơi bời thăm hỏi hay nói chuyện tầm phảo đâu. Chúng mình cần giữ im lặng them chút nữa, và cố vờ như mình là cây cỏ hay bụi rậm. Cho tới khi nó quen với chúng mình, tôi sẽ hót một hồi, và rồi nó sẽ hiểu chúng mình chẳng hề cản đường nó.

Cô chủ Mary không chắc có làm nổi như Dickon không: giả vờ bắt chước cỏ cây, bụi rậm cho bằng được. Nhưng thằng bé nói về những điều lạ lung đó như những chuyện đơn giản và tự nhiên nhất đời vậy. Quả thực con bé cảm thấy việc đó hoàn toàn dễ dàng đối với Dickon.

Nó thận trọng quan sát thằng bé mấy phút liền, tự nhủ biết đâu Dickon lại chẳng lặng lẽ mà biến thành cành lá cũng nên.Nhưng thằng bé chỉ ngồi im phăng phắc, và bất chợt buông thấp giọng đến mức cũng lạ là Mary còn nghe được nó, dù rằng con bé đã nghe được.

– Vào cữ này của tiết xuân, chim thường xây tổ ấm, – thằng bé nói. – Tôi dám đánh cược rằng kể từ khi có thế giới thì năm nào chuyện đó cũng đến. Vạn vật có cách nghĩ và cách làm riêng của chúng, và con người tốt hơn hết là đừng có can thiệp vào. Dễ mất một người bạn vào tiết xuân hơn bất kì mùa nào khác, nếu người ta quá tò mò tọc mạch.

– Nếu cứ bàn mãi về nó như vậy, ta sẽ chẳng thể nào ngưng nhìn nó được. – Mary nói khẽ kháng. – Ta nên nói chuyện khác đi. Có điều này tôi muốn nói với anh đây.

– Nó sẽ thích hơn nếu ta nói chuyện gì khác. – Dickon tiếp lời. – Cô định bảo gì tôi?

– Phải rồi. Anh có biết gì về Colin không? – Mary thì thào hỏi.

Dickon ngoái đầu nhìn con bé.

– Thế cô biết những gì về cậu ấy?

– Tôi đã từng gặp cậu ấy. Suốt tuần vừa rồi, ngày nào tôi cũng được nói chuyện với cậu ấy. Cậu ấy rất muốn tôi tới. Cậu ấy bảo tôi đã giúp cậu ấy quên hẳn việc ốm đau chết chóc. – Mary trả lời.

Dickon trông nhẹ nhóm hẳn, ngay khi sự ngạc nhiên trên khuôn mặt bầu bĩnh của nó biến mất.

– Tôi lấy làm mừng vì điều đó, – Dickon thốt lên. – Đáng mừng lắm. Như thế tôi sẽ thấy dễ chịu hơn. Tôi vẫn biết không được phép nói bất cứ chuyện gì về cậu ấy, mà tôi thì lại không thích che giấu điều gì.

– Chẳng lẽ anh không thích giấu chuyện khu vườn bí mật?

– Tôi chưa hề kể với ai về nó, – Dickon đáp. – Nhưng tôi có bảo mẹ: “Mẹ ạ, con có một bí mật buộc phải giấu kín. Đấy không phải là điều xấu, mẹ biết đấy. Chẳng tệ hơn việc che giấu một tổ chim. Mẹ chẳng cần bận tâm làm gì, phải không mẹ?”

Mary lúc nào cũng thích được nghe về người mẹ.

– Vậy bà đã nói gì? – Nó hỏi mà không hề sợ phải nghe câu trả lời.

Dickon tóet miệng cười ngọt ngào.

– Thì cũng giống như bà và những gì bà vẫn nói, – thằng bé đáp. – Bà khẽ xoa đầu tôi rồi cười bảo: “Hừ, anh chàng này, con cứ việc giữ cái bí mật mà con thích. Mẹ biết cái tính của con mười hai năm nay rồi còn gì.”

– Anh biết Colin như thế nào? – Mary hỏi.

– Mọi người ai nấy đều biết ông Craven có một đứa con trai sinh ra vốn què quặt, và họ cũng biết ông Craven không thích nó bị đem ra bàn tán. Dân chúng đều lấy làm tiếc cho ông Craven, bởi bà Craven là một phu nhân xinh đẹp và hai người đã yêu thương nhau đến vậy.

Bà Medlock thường dừng chân ở ngôi nhà gianh của chúng tối mỗi bận bà sang bên Thwaite, và lần nào bà cũng nói chuyện với mẹ tôi, trước mặt cả lũ trẻ con chúng tôi, vì bà biết chúng tôi đã được dạy dỗ thành những đứa đáng tin cậy. Làm thế nào mà cô phát hiện ra cậu ấy? Lần vừa rồi về thăm nhà, nom chị Martha lo lắng lắm. Chị ấy kể rằng cô đã nghe thấy cậu ấy khóc, và cô đã hỏi những câu hỏi khiến chị ấy chẳng biết trả lời sao.

Mary bèn thuật lại chuyện tiếng gào của gió giữa đêm khuya đã khiến nó thức giấc, tiếng nức nở xa xăm đã dẫn bước nó tới những hành lang tối tăm với cây nến trên tay, rồi việc nó mở cánh cửa căn phòng có ánh sang lờ mờ với chiếc giường có bốn cột chạm trổ kê ở góc phòng.Đến đoạn nó miêu tả khuôn mặt trắng ngà nhỏ nhắn và đôi mắt có mi đen kì lạ của Colin thì thằng Dickon lắc đầu.

– Chúng giống hệt đôi mắt bà mẹ, chỉ có điều đôi mắt bà luôn biết cười, tôi cũng nghe họ nói vậy. – Thằng bé tiếp, – họ còn bảo ông Craven không thể chịu đựng được việc nhìn cậu ấy khi cậu ấy thức dậy, bởi vì đôi mắt cậu giống bà mẹ quá đỗi, có khác chăng là vẻ đau khổ trên khuôn mặt cậu.

– Anh có cho rằng ông muốn cậu ấy chết cho rảnh nợ không? – Mary thì thầm hỏi.

– Không, nhưng ông ước giá cậu ấy đừng bao giờ sinh ra thì hơn. Còn mẹ tôi, bà bảo rằng đó là điều bất hạnh nhất trên đời đối với một đứa trẻ. Ông Craven đã mua bất kể thứ gì mà tiền bạc có thể mua được cho anh chàng tội nghiệp ấy, chỉ có điều ông muốn quên đi sự hiện diện của cậu ấy trên đời này. Có một việc khiến ông sợ hãi là sẽ tới một ngày ông phải đối mặt với con trai mình, và nhận ra cậu ấy đã lớn lên với cái lưng gù.

– Bản thân Colin khiếp sợ việc ấy đến nỗi cậu ấy không muốn ngồi dậy nữa, – Mary nói. – Cậu ấy bảo cậu ấy luôn nghĩ rằng nếu thấy một cái bướu mọc ra là cậu ấy sẽ phát điên và gào khóc cho tới khi chết.

– Trời ơi! Cậu ấy không nên nằm ì ra mà tưởng tượng những điều như vậy, – Dickon bảo. – Chẳng ai có thể khỏe mạnh được nếu chỉ nghĩ rặt những chuyện vớ vẩn như vậy.

Con cáo nãy giờ vẫn nằm trên vạt cỏ ngay cạnh Dickon, thỉnh thoảng nó ngướic lên như muốn được vỗ về, Dickon cúi xuống xoa nhẹ vào cổ nó và im lặng nghĩ ngợi vài phút. Đột nhiên, thằng bé ngẩng đầu và ngó quanh khu vườn.

– Lần đầu chúng ta vào đây, – nó nói – hình như mọi vật đều xám. Bây giờ nhin xung quanh mà xem, cô không nhận ra có gì đổi khác sao. Mary nhìn quanh và hít một hơi nhẹ.

– Sao thế này! – Con bé kêu lên, – bức tường màu xám đang biến đổi, khác nào có một màn sương màu xanh đang lan toả trên đó. Như một tấm mạng che mặt bằng sa xanh.

– Ấy! – Dickon bảo. – Rồi nó sẽ còn xanh hơn, xanh hơn nữa cho tới khi màu xám úa hoàn toàn biến mất. Cô có đoán tôi đang nghĩ gì không?

– Tôi biết phải là cái gì hay lắm, – Mary đáp lại vẻ háo hức. – Tôi tin rằng điều đó có lien quan đến Colin.

– Tôi đang nghĩ nếu cậu ấy được ra đây thì đỡ phải lo chuyện cái bướu mọc trên lưng, thay vào đó cậu ấy được ngắm những nụ bông hé nở trên các khóm hoa hồng, và chắc chắn sẽ khỏe hẳn ra, – Dickon giảng giải. – Tôi tự hỏi nếu ta giúp cậu ấy được vui vẻ, được ra ngoài này mà nằm dưới tán cây thì hay biết mấy.

– Tôi cũng thường tự hỏi về chuyện đó. Hầu như lúc nào tôi cũng nghĩ tới điều đó mỗi khi nói chuyện với Colin, – Mary bảo. – Tôi tự nhủ không biết cậu ấy có giữ được bí mật không, và liệu chúng ta có thể đưa cậu ấy ra đây mà không sợ ai trông thấy không. Tôi nghĩ có lẽ anh sẽ là người đẩy xe giúp cậu ấy. Bác sĩ bảo cậu ấy cần được hít thở không khí trong lành, và một khi cậu ấy muốn chúng ta đưa ra ngoài trời thì đố ai dám không vâng lời. Cậu ấy sẽ không ra ngoài với những người khác, và có lẽ mọi người sẽ lấy làm mừng khi cậu ấy bằng lòng đi với bọn mình. Cậu ấy có thể ra lệnh cho những người làm vườn đi chỗ khác, thế nên họ sẽ không tài nào phát hiện ra đâu.

Dickon đăm chiêu suy nghĩ trong lúc đưa tay gãi lưng cho con Đại úy.

– Được thế thì thật tốt cho cậu ấy, tôi tin chắc như vậy, – thằng bé nói. – Sẽ không ai còn dám nghĩ thà cậu ấy đừng sinh ra trên đời. Trước đây chỉ có hai đứa chúng mình được ngắm cây cối trong vườn mọc lên, giờ thêm cậu ấy nữa là ba. Hai chàng và một nàng cùng nhau ngắm mùa xuân. Tôi dám đánh cược rằng điều đó còn tốt hơn mấy món thuốc của ông bác sĩ.

– Bấy lâu nay, cậu ấy phải nằm bẹp trong phòng và luôn lo sợ cái lưng sẽ khiến mình dị dạng, – Mary bảo.

Cô bé ngừng lại 1 lát rồi nói tiếp.

– Cậu ấy hiểu biết nhiều nhờ sách vở, ngoài ra thì chẳng có gì. Cậu ấy bảo cứ ốm yếu suốt thế thì lấy đâu ra sức lực để nhận biết mọi thứ khác, thành thử cậu ấy ghét ra khỏi nhà, ghét vườn tược và ghét luôn cả người làm vườn. Nhưng cậu ấy lại thích nghe về khu vườn này, bởi nói là cả một bí mật. Tôi không dám kể lể nhiều, nhưng cậu ấy bảo rất thèm được ngắm nó.

– Đợi tới khi thật chắc chắn ta mới đưa cậu ấy ra đây,- Dickon tiếp – Tôi đủ sức đẩy xe cho cậu ấy. Cô có để ý thấy con chim ức đỏ và con mái của nó vẫn mải mê làm việc trong lúc ta ngồi đây không? Hãy xem nó đang đậu trên cái cành kia kìa, nó đang phân vân tự hỏi đâu là chỗ tốt nhất để nó cài cành nhỏ vừa ngậm trong mỏ mang về.

Thằng bé huýt một tiếng trầm ngâm, con chim ức đỏ quay đầu nhìn nó vẻ dò hỏi, mỏ vẫn ngậm cái cành non. Dickon nói với nó theo kiểu lão Ben Weatherstaff vẫn thường làm, nghe như một lời khuyên thân thiện.

– Nơi nào mày chọn để làm tổ, hẳn đó là nơi yên lành. Trước khi rời khỏi vở trứng thì mày đã hiểu phải làm một cái tổ cho gia đình mình ra sao rồi. Tiếp tục đi, anh bạn. Đừng để phí thời gian.

– Ôi, tôi thích nghe anh nói chuyện với nó! – Mary nói và bật cười sung sướng. – Ông Ben Weatherstaff cứ mắng mỏ và trêu chọc nó, còn nó thì nhảy nhót xung quanh và hiểu được từng từ một, và tôi biết nó thích thế lắm. Ông Ben bảo nó tự phụ đến mức thà bị ném đá chứ không thể không được ai để ý.

Dickon nghe thế cũng phải bật cười, thằng bé tiếp tục trò chuyện.

– Mày thừa biết bọn tao không muốn quấy rầy mày, – nó bảo với con chim ức đỏ.– Như bọn tao đây cũng gần như những kẻ sống đời hoang dã. Bọn tao cũng đang xây tổ đấy. Chúa phù hộ cho mày. Coi chừng, đừng nói với ai về bọn tao nhé, nghe không?

Và mặc cho con chim ức đỏ không trả lời, bởi vì nó đang ngậm đầy mỏ, Mary vẫn biết rằng khi nó bay đi cùng với cái cành nhỏ, trở về góc vườn của nó, bóng sẫm trong đôi mắt như giọt sương của nó ngụ ý rằng nó không đời nào đi kể lại bí mật của chúng cho thế giới này.

Bình luận