Mary mang hình vẽ về nhà. Đến bữa tối, nó đưa mẩu giấy cho Martha.
– Ồ! – Martha kêu lên hãnh diện.- Không ngờ thằng Dickon nhà tôi lại sáng dạ đến thế. Đây là bức vẻ một con chim hét tầm gửi đang ở trong tổ, to như thực và còn giống hơn cả ngoài tự nhiên.
Bấy giờ Mary mới hiểu Dickon có ý muốn sử dụng bức hình này là một lời nhắn. Ngụ ý rằng con bé có thể tin tưởng nó sẽ giữ kín bí mật của con bé. Khu vườn là cái tổ và con bé chính là con chim hét tầm gửi. Ôi, sao nó thấy thích cái cậu bé con nhà bình dân lạ lùng ấy đến thế. Nó hy vọng ngày hôm sau Dickon sẽ quay lại và đi ngủ trong tâm trạng ngóng đợi cho trời mau sáng. Nhưng không ai biết trước được thời tiết ở Yorkshire sẽ ra sao, đặc biệt vào mùa xuân.
Mary bị đánh thức vào lúc nửa đêm bởi tiếng mưa rơi nặng hạt quất vào cửa sổ. Trời đang mưa như trút, gió thì gào rú tứ bề, cả trong các ống khói của ngôi nhà cổ đồ sộ. Mary ngồi bật dậy trên giường, nó cảm thấy khổ sở và tức giận vô cùng.
– Cơn mưa thật trái khoáy, chẳng khác gì mình đã từng như vậy.
Nó thừa biết mình không thích mà vẫn cứ đến. Nó gieo mình xuống gối và vùi mặt vào đó. Nó không khóc mà chỉ nằm vật ra, cảm thấy căm ghét tiếng mưa rơi nặng hạt đang quất xuống ràn tạt cùng tiếng gió gào rú.
Con bé không tài nào ngủ lại được. Âm thanh thê lương ấy làm nó tỉnh ngủ, cảm thấy trong lòng buồn rầu vô hạn. Nếu đang lúc vui vẻ, tiếng mưa kia còn dễ ru nó vào giấc ngủ. Còn lúc này đây, cớ sao gió cứ phải gào lên, và những giọt mưa to tướng kia thì cứ quất mãi vào ô cửa sổ!
– Nghe như thể có kẻ đi lạc giữa đồng hoang đang lang thang than khóc,- nó nhủ thầm.
Con bé nằm đó không ngủ được, trở mình hết bên này rồi bên kia dễ đến gần tiếng đồng hồ, bỗng có tiếng gì khiến nó ngồi bật dậy trên giường và ngoái đầu về phía cửa, lắng nghe. Nó nghe ngóng một hồi lâu.
– Bây giờ không phải là gió nữa,- nó thầm thì thành tiếng,- Không phải gió, tiếng gió nghe khác hẳn. Đây chính là tiếng khóc mình đã nghe thấy bữa trước.
Cánh cửa phòng nó khép hờ và âm thanh ấy vọng lại từ ngoài hành lang, một tiếng khóc bẳn gắt lúc xa lúc gần. Con bé lắng nghe mấy phút liền, mỗi lúc lại càng thêm tin chắc. Nó cảm thấy nó phải khám phá cho ra đó là cái gì. Chuyện này ven đường còn kỳ quặc hơn cả khu vườn bí mật với chiếc chìa khóa bị vùi kỹ. Và có lẽ đang trong tâm trạng nổi loạn nên nó mới bạo dạn đến vậy. Nó thò chân ra khỏi giường và đứng trên sàn nhà.
– Mình phải tìm cho ra đó là cái gì. Giờ này ai nấy vẫn còn trên giường, mình không cần phải lo tới bà Medlock, không cần!
Sẵn có cây nến cạnh giường, con bé cầm theo rồi rón rén ra khỏi phòng. Hành lang dài dằng dặc và tối mịt, nhưng Mary quá phấn khích để bận tâm đến điều đó. Nó nghĩ nó vẫn nhớ những chỗ ngoặc phải rẽ để tìm ra đoạn hành lang ngắn có cánh cửa ra vào phủ tấm thảm thêu – đoạn hành lang bà Medlock đã rẽ qua vào cái hôm nó bị lạc.
Tiếng khóc lại vang lên dọc lối đi. Nó bước tiếp trong ánh nến lúc mờ lúc tỏ, hầu như chỉ nhận ra đường qua cảm giác của bàn chân, tim đập thình thịch đến nỗi tường chừng nghe rõ từng nhịp một. Tiếng khóc ai oán vẫn tiếp tục và dẫn đường cho nó. Có lúc âm thanh ấy ngưng bặt giây lát rồi lại nổi lên. Liệu đã đến chỗ rẽ chưa?
Con bé dừng chân suy nghĩ. Phải rồi, chính là lối này. Đến cuối đoạn hành lang này thì rẽ trái, rồi bước lên hai bậc rộng thì rẽ phải. Đúng rồi, cánh cửa treo tấm thảm đây rồi.
Nó nhẹ nhàng đẩy cánh cửa rồi khép lại sau lưng, nó nhận ra mình đang đứng giữa một hành lang khác, tiếng khóc nghe còn rõ hơn mặc dầu không to lắm. Chỗ này đã là bên kia bức tường. Ở phía trái con bé, cách mấy mét, có một cánh cửa. Từ đây, nó nhìn rõ mấy tia sáng le lói hắt ra từ dưới khe cửa. Ai đó đang khóc trong phòng, và người đó còn trẻ. Nó bước tới bên cánh cửa và mở ra, và thế là nó đang đứng trong căn phòng đó!
Đó là một gian phòng lớn, bên trong bày toàn đồ đạc cổ rất đẹp. Ngọn lửa leo lét cháy trong lò sưởi, một ngọn đèn ngủ lập loè bên chiếc giường có bốn cột chạm trổ treo rèm gấm thêu kim tuyến, và trên giường, một thằng bé đang nằm khóc hết sức thương tâm.
Mary ngỡ ngàng không biết phải chăng mình đang ở một nơi có thực, hay mình đã thiếp đi và đang mơ nàng mà không hề hay biết. Thằng bé đó có khuôn mặt dài dài, thanh tú, làn da trắng ngà và đôi mắt dường như quá lớn so với khuôn mặt của nó. Mái tóc buông thành những lọn nặng trước trán khiến khuôn mặt nó trông càng nhỏ hơn. Nó có dáng vẻ của một đứa trẻ bị ốm, nhưng đang gào khóc bởi mệt mỏi và cáu bẳn hơn là vì đau yếu.
Mary đứng ngay bên cửa ra vào, tay cầm cây nến, nín thở. Nó rón rén bước tới, và khi nó đến gần hơn, ánh sáng đã thu hút sự chú ý của thằng bé và thằng bé quay đầu trên gối, nhìn Mary chòng chọc bằng đôi mắt màu xám mở to đến mênh mông của nó.
– Cậu là ai? – Cuối cùng, thằng bé lên tiếng bằng giọng thì thầm pha chút sợ hãi,- Cậu là ma à?
– Không, tớ không phải ma,- Mary trả lời, tiếng thì thầm của chính nó cũng pha lẫn sợ hãi.
– Còn cậu là ma phải không?
Thằng bé vẫn nhìn chằm chằm không chớp, Mary không thể không chú ý đến đôi mắt kỳ lạ của nó. Chúng có màu xám mã não và nom quá to sợ với cả một hàng mi đen sậm viền quanh.
– Không,- thằng bé đáp sau một thoáng chờ đợi,- Tớ là Colin.
– Colin nhà ai? – Con bé ấp úng hỏi.
– Tớ là Colin Craven. Thế cậu là ai?
– Tớ là Mary Lennox. Ông Craven là bác tớ.
– Ông ấy là cha tớ đấy.- Thằng bé bảo.
– Cha cậu ư! – Mary thở hổn hển,- Chưa từng thấy ai bảo tớ ông ấy có một người con trai. Tại sao họ lại làm như thế?
– Lại gần đây,- thằng bé bảo, đôi mắt kỳ lạ của nó vẫn nhìn như dán chặt vào Mary với vẻ lo lắng bồn chồn. Mary tiến lại gần chiếc giường, thằng bé duỗi tay và chạm vào người nó.
– Cậu là người thực, phải không? Tớ rất hay có những giấc mơ giống như y như thực. Cậu có lẽ là một trong số đó.
Mary đã khoác vội một cái áo choàng bằng len trước khi rời khỏi phòng nó, nó liền đặt một mảnh áo vào giữa các ngón tay thằng bé.
– Cậu thử cọ nó vào da xem nó ấm và dầy thế nào,- con bé nói,- hay tớ sẽ véo cậu một cái nếu cậu muốn, để cho cậu thấy tớ thực đến thế nào. Ban nãy, cũng có lúc tớ thoáng nghĩ cậu chỉ là một giấc mơ.
– Cậu vừa từ đâu tới đây? – Thằng bé hỏi.
– Từ phòng tớ. Gió hú ghê quá khiến tớ không sao ngủ nổi, thế rồi tớ nghe có tiếng ai khóc, và muốn xem đó là ai. Cậu khóc cái gì thế?
– Bởi vì tớ cũng không tài nào ngủ được và tớ thấy đau đầu quá. Nói lại cho tớ tên của cậu đi.
– Mary Lennox. Không có ai từng nói cho cậu hay tớ đến sao?
Thằng bé vẫn mân mê trên tay mảnh áo của Mary, và trông nó, có vẻ như đã tin hơn vào sự hiện diện của Mary.
– Chưa,- thằng bé trả lời,- Họ không dám.
– Tại sao?- Mary hỏi.
– Bởi vì chắc chắn tớ sẽ lo sợ là cậu nhìn thấy tớ. Tớ sẽ không để mọi người trông thấy và dỗ dành mình.
– Tại sao?- Mary gặng hỏi lần nữa, mỗi lúc một cảm thấy hoang mang.
– Bởi tớ lúc nào cũng như thế này, ốm đau dặt dẹo và phải nằm suốt ngày. Cha tớ cũng không cho ai dỗ dành tớ. Bọn gia nhân càng không được phép bàn tàn về tớ. Nếu tớ sống, có lẽ tớ sẽ là một thằng gù, nhưng tớ sẽ không sống nổi đâu. Cha tớ ghét cái ý nghĩ rằng rồi tớ cũng sẽ giống như ông ấy.
– Trời ơi, ngôi nhà này mới kỳ dị làm sao!- Mary kêu lên- Một ngôi nhà kỳ dị quá thể! Mỗi một thứ là cả một bí mật. Các căn phòng khóa chặt, những khu vườn cũng khóa kín, và ngay cả cậu nữa! Cậu đã bị nhốt kín trong phòng chăng?
– Không. Tớ ở lì trong này bởi tớ chẳng muốn ra khỏi phòng làm gì. Di chuyển chỉ khiến tớ mệt lử.
– Cha cậu có hay đến thăm cậu không? – Mary đánh liều hỏi.
– Thỉnh thoảng. Thường thì vào lúc tớ đang ngủ. Ông ấy chẳng muốn gặp tớ.
– Tại sao? – Mary không thể không hỏi lại.
Nét mặt thằng bé thoáng vẻ giận dữ.
– Mẹ tớ chết khi tớ vừa sinh ra, và điều đó khiến ông đau khổ mỗi khi nhìn thấy tớ. Ông cứ nghĩ rằng tớ không biết, nhưng tớ nghe thiên hạ bàn tán thế. Ông hầu như căm ghét tớ.
– Ông cũng ghét lây cả khu vườn, bởi vì bà đã chết,- Mary bảo, nửa như nói với chính mình.
– Khu vườn nào? – Thằng bé hỏi.
– Ồ! Chỉ…chỉ là khu vườn mà mẹ cậu ưa lui tới. – Mary thì thào.- Thì ra cậu luôn ở đây thôi sao.
– Gần như luôn luôn. Đôi lần tớ được đưa tới những chỗ nghĩ bên bờ biển. nhưng tớ không muốn ở lại bởi ai ai cũng nhìn tớ chòng chọc. Tớ thường phải mang một vật bằng sắt để giữ cho lưng thẳng, nhưng rồi có lần một vị bác sĩ giỏi từ Luân Đôn đến thăm bệnh cho tớ, ông ấy bảo chuyện đó quả là ngu xuẩn. Ông sai họ gỡ nó ra và bắt tớ phải sống ngoài trời thoáng đãng. Tớ chúa ghét khí trời và chẳng muốn ra ngoài.
– Ngày đầu mới tới đây tớ cũng vậy,- Mary bảo,- Tại sao cậu cứ nhìn tớ chằm chằm như thế?
– Bởi vì những giấc mơ đó lại quá thực,- thằng bé trả lời, hơi có vẻ cáu kỉnh,- Có những lúc mở mắt rồi mà tớ vẫn không tin mình thức.
– Chúng ta đều đang thức đây,- Mary bảo. Nó liếc quanh gian phòng có trần cao, các góc phòng tôi tối trong ánh lửa mờ ảo,- Chuyện này cũng khá giống một giấc mơ. Cũng đã nửa đêm rồi, mọi người trong nhà đang ngủ cả, tất cả mọi người, trừ chúng ta. Chúng ta đang thức rõ rành rành.
– Tớ không muốn đây chỉ là một giấc mơ,- thằng bé nói một cách bồn chồn.
Ngay lập tức, Mary nghĩ ra một điều gì đó.
– Nếu như cậu không muốn ai trông thấy cậu, cậu có muốn tớ đi khỏi đây không?
Thằng bé vẫn cầm mảnh áo choàng của con bé trong tay, và thử kéo cho giãn ra.
– Không,- nó nói,- Tớ sẽ tin rằng cậu chỉ là một giấc mơ nếu cậu bỏ đi. Còn nếu cậu có thực thì hãy ngồi xuống chiếc ghế lớn để chăn này mà nói chuyện. Tớ rất muốn nghe về cậu.
Mary đặt cây nến của nó lên mặt bàn kê gần giường, rồi ngồi xuống chiếc ghế đẩu bọc nệm. Con bé không muốn bỏ đi chút nào. Nó muốn nán lại trong gian phòng bí hiểm được giấu kín này để chuyện trò với một thằng bé cũng bí hiểm không kém.
– Cậu muốn tớ kể cậu nghe chuyện gì?
Thằng bé muốn biết nó đã ở Misselthwaite được bao lâu, phòng con bé nằm ở hành lang nào; nó còn muốn biết con bé đã làm được những gì; và liệu con bé có chán ghét cánh đồng hoang như nó không; và rồi con bé đã sống ở đâu trước khi đến Yorkshire.
Con bé trả lời tất cả các câu hỏi của nó và còn nhiều hơn thế. Thằng bé kia ngã đầu trên gối lắng nghe. Nó bắt con bé kể cho nó nghe hàng lô hàng lốc chuyện về Ấn Độ cũng như chuyến vượt biển của Mary. Con bé nhận ra rằng bởi vì Colin là người tàn tật nên nó không học cùng những thứ với bọn trẻ khác. Một trong những bảo mẫu của nó đã dạy nó đọc từ khi còn rất nhỏ, và kể từ đó nó luôn đọc và ngắm các bức tranh trong các cuốn sách lộng lẫy.
Cho dù cha nó hiếm khi tới thăm lúc nó còn thức, nhưng Colin vẫn có đủ các thứ đồ chơi tuyệt vời để chơi. Mặc dầu vậy, nó dường như chẳng bao giờ thấy vui. Nó có thể có bất cứ thứ gì mà nó đòi hỏi và chưa bao giờ phải làm những gì nó không muốn.
– Ở đây, mọi người buộc phải làm đủ chuyện cho tớ vui,- nó nói một cách thờ ơ,- Tớ sẽ bị ốm thêm nếu tức giận. Không ai tin rằng tớ sẽ sống để mà lớn lên.
Nó nói như thể đã quen với cái ý nghĩ đó đến nỗi chẳng còn bận tâm gì nữa. Nó có vẻ thích giọng nói của Mary. Khi con bé tiếp tục nói, nó chăm chú lắng nghe với vẻ mặt mơ màng. Có lúc Mary tự nhủ có phải nó đang lơ mơ chìm vào giấc ngủ. Nhưng cuối cùng, thằng bé hỏi một câu khiến câu chuyện mở sang một hướng khác.
– Cậu bao nhiêu tuổi rồi?- thằng bé hỏi.
– Mười tuổi,- Mary trả lời, lúc đó nó đã dường như quên khuấy bản thân- bằng đúng tuổi của cậu.
– Làm thế nào cậu biết được điều đó?- thằng bé hỏi vặn bằng giọng ngạc nhiên.
– Bởi vì khi cậu ra đời, cánh cửa khu vườn bị khóa lại, còn chiếc chìa khóa thì người ta đem vùi kín. Khu vườn ấy đã bị khóa suốt mười năm qua.
Colin nhỏm nửa người lên, quay đầu về phía con bé và tựa mình trên hai khuỷu tay.
– Cánh cửa khu vườn nào bị khóa? Ai đã làm việc ấy? Chiếc chìa bị vùi ở đâu? – Thằng bé thốt lên, bỗng nhiên nó tỏ ra hết sức quan tâm.
– Đó…đó chính là khu vườn mà ông Craven căm ghét,- Mary nói vẻ sợ hãi,- Ông đã khóa chặt cửa. Không ai…không ai biết chỗ ông chôn chiếc chìa khóa.
– Cái thứ vườn nào thế không biết? – Colin nhắc lại, vẻ háo hức.
– Không một ai được phép vào trong đó suốt mười năm qua,- Mary thận trọng đáp lời.
Nhưng thận trọng thì cũng quá muộn rồi. Thằng bé tỏ ra thích thú chẳng kém gì Mary. Bao lâu nay chẳng có gì để mà quan tâm tới, cho nên cái ý nghĩ về một khu vườn được giấu kín thu hút nó, hệt như Mary lúc trước. Nó hỏi hết câu này sang câu khác. Khu vườn ở đâu? Mary chưa bao giờ tìm kiếm cánh cửa ấy à? Mary chưa hỏi những người làm vườn về chuyện đó sao?
– Họ chẳng chịu nói đâu,- Mary đáp,- Tớ nghĩ họ đã được dặn không được phép trả lời bất kỳ câu hòi nào.
– Tớ sẽ bắt đám đó phải nói,- Colin bảo.
– Cậu bắt được à? – Mary ngập ngừng, và bắt đầu cảm thấy sợ hãi. Nếu thằng bé có thể bắt được mọi người trả lời, ai mà biết rồi chuyện gì sẽ xảy ra.
– Ở đây mọi người buộc phải làm vui lòng tớ. Tớ đã bảo cậu rồi đó. Nếu tớ sống được thì một ngày nào đó cả chốn này sẽ thuộc về tớ. Họ thừa biết điều đó. Chắc chắn tớ sẽ bắt họ phải nói.
Mary không biết bản thân nó cũng một dạo hư đốn, nhưng nó có thể nhận thấy rõ ràng thằng bé bí ẩn này cũng đang như thế: nó nghĩ rằng cả thế giới này thuộc về mình; nó mới thật là kỳ dị và cứ nhắc tới chuyện thôi không sống nữa mới thản nhiên làm sao.
– Cậu nghĩ cậu không sống nổi à? – Con bé hỏi, phần vì tò mò, phần vì hy vọng làm Colin quên đi chuyện khu vườn.
– Tớ không cho rằng mình có thể sống được,- thằng bé trả lời, vẫn hững hờ y như trước,- Kể từ khi tớ nhớ được mọi chuyện, tớ đã thấy người ta nói rằng tớ sẽ không sống được. Thoạt đầu, họ nghĩ tớ còn quá nhỏ để có thể hiểu được, còn bây giờ thì họ nghĩ tới không nghe thấy gì cả. Nhưng tớ biết hết. Bác sĩ của tớ là em họ của cha tớ. Ông ta nghèo rớt mùng tơi nên nếu tớ chết đi thì ông ta sẽ có cả trang viên Misselthwaite này khi cha tớ qua đời. Tớ vẫn nghĩ ông ta không muốn tớ sống.
– Thế cậu có muốn sống không? – Mary căn vặn.
– Không,- nó đáp lời với vẻ mệt mỏi buồn chán,- Nhưng tớ cũng không muốn chết. Khi cảm thấy ốm yếu, tớ nằm bệt ở đây suy nghĩ về chuyện đó cho tới khi chỉ còn biết khóc và khóc.
– Tớ đã nghe thấy tiếng khóc ba lần, nhưng không biết là ai. Thì ra cậu khóc về chuyện đó hả? – Con bé hỏi, chỉ muốn Colin quên đi chuyện khu vườn.
– Hẳn rồi. Nhưng chúng ta hãy nói chuyện khác đi. Về khu vườn chẳng hạn. Cậu không muốn nhìn thấy nó à?
– Có chứ,- Mary trả lời bằng một giọng trầm hẳn xuống. – Tớ cũng vậy,- thằng bé tiếp tục một cách dai dẳng, – Trước đây tớ không nghĩ mình lại thích ngắm cái này cái nọ, nhưng bây giờ tớ muốn tận mắt thấy khu vườn ấy. Tớ muốn chiếc chìa phải được đào lên. Tớ muốn cánh cửa được mở ra. Tớ sẽ bắt đám gia nhân khiêng tớ trong chiếc ghế bành đó. Ngoài ấy, chắc không khí trong lành lắm. Và rồi tớ sẽ bắt họn họ phải mở cánh cửa ấy ra.
Nó trở nên thật kích động, đôi mắt kỳ lạ của nó lấp lánh như hai vì sao và trông lại càng mênh mông hơn bao giờ hết. – Bọn họ có bổn phận làm tớ hài lòng. Tớ sẽ bắt họ đưa tớ tới đó và tớ sẽ để cậu đi cùng.
Hai bàn tay Mary nắm chặt vào nhau. Mọi việc rồi sẽ hỏng hết cho mà xem, mọi việc. Dickon sẽ chẳng bao giờ quay lại nữa. Bản thân nó rồi cũng không bao giờ còn cái cảm giác của một con chim hét đang ẩn náu trong chiếc tổ an toàn nữa.
– Ôi, đừng…đừng…đừng làm vậy! – Con bé kêu lên. Thằng bé nhìn trừng trừng như thể nó nghĩ con bé đang phát điên!
– Sao thế? Cậu bảo cậu muốn nhìn thấy nó cơ mà?
– Đúng là tớ muốn vậy,- con bé trả lời, gần như đang thổn thức trong cổ họng,- nhưng cậu bắt họ mở cánh cửa ấy và khiêng cậu vào như vậy thì còn gì là một bí mật nữa. Thằng bé ngả hẳn người về phía trước.
– Một bí mật,- nó nói,- Ý cậu định nói gì? Bảo cho tớ biết đi. Lời nói của Mary trở nên lộn xộn.
– Cậu cũng rõ…cậu cũng rõ…- nó thở hổn hển,- nếu không một ai hay biết ngoài chúng ta…nếu có một cánh cửa, ẩn đâu đó dưới đám thường xuân…nếu có…và chúng ta có thể tự tìm thấy nó, và nếu chúng ta cùng lách qua cánh cửa đó rồi khép nó lại sau lưng mình, thì đố ai biết được có người ở bên trong, đến lúc ấy ta sẽ gọi nó là khu vườn của ta và giả vờ rằng…rằng chúng mình là những con chim hét, còn khu vườn là chiếc tổ của chúng mình, và rồi nếu ngày nào chúng mình cũng được chơi đùa ở đó, tha hồ mà đào xới, trồng cây, gieo hạt và chăm cho chúng được sống…
… – Chẳng lẽ nó chết à? – Thằng bé ngắt lời Mary. – Thì cũng chẳng mấy chốc, nếu không có người chăm sóc cho nó,- con bé nói tiếp,- các loại củ thì vẫn sống, trừ các nhánh hồng… Thằng bé ngắt lời và tỏ ra phấn khích chẳng kém gì Mary. – Các loại củ là cái gì?- Nó hỏi rất nhanh. – Chúng là thủy tiên hoa vàng, ly ly và hoa giọt tuyết. Lúc này, chúng đang cựa mình trong đất…nảy ra những mầm non xanh biếc vì mùa xuân đang tới. – Mùa xuân đang tới ư? Nó như thế nào? Tớ không thể thấy nó trong phòng khi đang ốm đau bệnh tật thế này.
– Ấy là lúc mặt trời chiếu sáng trong cơn mưa và mưa rơi trong ánh nắng, muôn vật trở mình cửa quậy dưới lòng đất,- Mary bảo,- Nếu khu vườn còn là một bí mật, thì chúng mình có thể lẻn vào trong ấy mà ngắm mọi thứ mỗi ngày một lớn dần, và xem có bao nhiêu khóm hồng còn sống. Cậu thấy không? Ôi, cậu không thấy sẽ tuyệt biết bao nếu nó còn là một bí mật hay sao?
Thằng bé buông người xuống chiếc gối, nằm thần mặt ra đó. – Tớ chưa bao giờ có một bí mật nào cả, ngoài cái điều là không được sống mà lớn lên. Họ không biết rằng tớ cũng hiểu được điều đó, vì vậy đó cũng có thể coi là một bí mật. Nhưng tớ thích cái kiểu bí mật này hơn.
– Nếu cậu không bắt họ đưa cậu tới khu vườn đó,- Mary khẩn khoản,- thì có thể…tớ cảm thấy gần như chắc chắn rằng có ngày tớ sẽ khám phá ra cách để vào trong đó. Và nếu ông bác sĩ muốn cậu ra ngoài trong chiếc ghế của cậu, và nếu cậu có thể làm những gì cậu muốn làm…thì có lẽ…có lẽ chúng mình sẽ kiếm lấy một cậu bé đẩy xe cho cậu, như vậy chúng mình có thể ra đi một mình với nhau, và khu vườn đó sẽ mãi mãi là một khu vườn bí mật.
– Tớ chắc chắn thích điều đó,- thằng bé nói thật chậm rãi, đôi mắt mơ màng,- Tớ chắc chắn thích điều đó. Tớ sẽ không cảm thấy phiền lòng với cái không khí trong lành trong một khu vườn bí mật đâu.
Mary bắt đầu thở phào, cảm thấy nhẹ cả người. Hình như ý tưởng giữ gìn bí mật đã làm cho thằng bé khoái chí. Nó cảm thấy gần như chắc chắn rằng nếu cứ tiếp tục câu chuyện và làm cho thằng bé mường tượng ra khu vườn như nó đã thấy tận mắt thì thằng bé sẽ thích thú tới mức không thể chịu đựng nổi nếu có kẻ lẹ đột nhập vào trong, một khi chúng đã chọn cho riêng mình.
– Bây giờ tớ sẽ kể cho cậu nghe tớ tưởng tượng nó sẽ như thế nào, nếu ta vào được trong đó nhé,- con bé nói. – Khu vườn đã bị khóa kín lâu đến vậy thì có lẽ mọi thứ mọc lộn xộn lắm…
Thằng bé nằm im thin thít lắng nghe, trong lúc Mary kể tiếp về các khóm hồng. Nó kể rằng biết đâu lúc này chúng chẳng bò từ cây này sang cây khác rồi rủ xuống, chim chóc biết đâu chẳng đang làm tổ ở trên ấy, bởi vì đó là nơi an toàn nhất. Đến đoạn nó kể cho thằng bé về con chim ức đỏ và lão Ben Weatherstaff, và có bao nhiêu chuyện đáng kể về con ức đỏ thì nó nói dễ dàng trôi chảy đến nỗi nó cũng cảm thấy sợ.
Con chim ức đỏ đã làm thằng Colin thích thú quá đỗi, cứ mỉm cười suốt và trông đẹp trai hẳn lên, dù thoạt đầu Mary thấy thằng bé còn xấu xí hơn cả mình, với đôi mắt to và những lọn tóc nặng trĩu rủ trên vầng trán.
– Tớ quả không hình dung nỗi chim chóc lại như vậy. Nhưng, nếu cậu cứ ở lì trong phòng thì cậu sẽ chẳng thấy gì hết. Giờ cậu đã biết được bao thứ trên đời. Tớ có cảm tưởng như cậu đã từng vào trong khu vườn.
Mary không biết nói gì, vì thế nó chỉ im lặng. Thằng bé Colin rõ ràng cũng chẳng đợi câu trả lời, ngay lập tức nó làm Mary ngạc nhiên.
– Tớ định cho cậu xem cái này. Cậu có thấy tấm màn lụa màu hồng treo trên tường, phía trên bệ lò sưởi kia không?
Nãy giờ Mary không để ý tới tấm màn, nó ngước mắt lên và nhìn thấy vật đó. Một tấm màn bằng lụa mềm phủ lên một cái gì tựa như bức tranh.
– Có,- Con bé đáp.
– Có sợi dây treo ở đó đó – Colin bảo,- Cậu tới kéo nó đi.
Mary đứng dậy, vô cùng tò mò. Nó tìm ra sợi dây. Khi nó kéo sợi dây, tấm màn lụa chuyển động, thu lại trên những chiếc khuyên tròn, để lộ ra một bức tranh. Đó là bức chân dung một phụ nữ có khuôn mặt tươi cười. Bà có mái tóc sáng màu được buộc bằng một dải ruy băng xanh. Đôi mắt vui vẻ đáng yêu của bà nom giống hệt đôi mắt bất hạnh của thằng Colin, cũng một màu xám mã não và trông còn to hơn thực với viền mi đen nhánh bao quanh.
– Bà là mẹ tớ,- Colin nói giọng ca thán,- Tớ không rõ tại sao bà chết. Đôi khi tớ thấy hận bà vì việc đó.
– Ôi, kỳ quặc làm sao! – Mary kêu khẽ.
– Nếu bà còn sống, tớ tin rằng tớ sẽ không phải đau ốm liên miên thế này,- nó cáu kỉnh,- Tớ dám nói rằng mình cũng sẽ sống nữa. Và cha tớ hẳn sẽ không ghét phải nhìn thấy tớ. Tớ dám chắc tớ cũng sẽ có một cái lưng, khỏe mạnh. Thôi, cậu kéo tấm màn lại đi.
Mary làm theo lời nó rồi quay về chiếc ghế đẩu. – Bà đẹp hơn cậu nhiều, riêng đôi mắt nom giống hệt mắt cậu, ít ra là về hình dạng và màu sắc. Tại sao phải dùng tấm màn để che bức tranh?
Thằng bé cử động không được thoải mái lắm.
– Tớ bảo bọn gia nhân làm thế,- thằng bé nói,- Đôi khi tớ không muốn bà nhìn tớ. Bà thì luôn mỉm cười trong khi tớ ốm đau khổ sở thế này. Ngoài ra, bà là của tớ và tớ không muốn bất kỳ kẻ nào được ngắm bà. Một thoáng im lặng, rồi Mary lên tiếng.
– Liệu bà Medlock sẽ làm gì nếu bà phát hiện ra tớ đã từng ở đây? – Con bé hỏi. – Bà ấy sẽ làm những gì tớ bảo bà ấy làm. Và tớ sẽ bảo bà ấy rằng tớ muốn cậu tới đây nói chuyện với tớ mỗi ngày. Tớ lấy làm mừng vì cậu đã tới.
– Tớ cũng vậy. Tớ sẽ thường xuyên tới khi nào có thể, nhưng…- con bé lưỡng lự,- hằng ngày tớ còn phải tìm kiếm cánh cửa khu vườn.
– Ừ, cậu phải thế mới được,- Colin bảo,- rồi cậu có thể kể cho tớ nghe về nó sau đó. Nó nằm suy nghĩ mấy phút như lúc trước, rồi lại lên tiếng. – Tớ cho rằng cả cậu cũng là một điều bí mật. Tớ sẽ không kể cho mọi người cho tới khi họ phát hiện ra. Tớ vẫn thường cho cô bảo mẫu ra khỏi phòng, bảo rằng tớ muốn ở một mình. Cậu có biết Martha không?
– Có chứ, tớ biết chị ấy rất rõ là đằng khác, – Mary bảo,- Chị ấy phục vụ tớ mà.
Colin hất hàm về phía ngoài hành lang.
– Chị ấy là người ngủ ở phòng bên cạnh. Cô bảo mẫu đi vắng từ hôm qua và ngủ lại qua đêm với em gái. Cô ấy thường bảo Martha trông nom tớ mỗi khi muốn đi đâu đó. Martha sẽ báo cho cậu khi nào nên đến đây.
Mary bỗng vỡ lẽ buồn rầu của Martha mỗi bận nó hỏi chị về tiếng khóc đó.
– Martha đã biết cậu suốt thời gian qua à? – Con bé hỏi.
– Phải, chị ấy thường xuyên chăm sóc tớ. Còn cô bảo mẫu thì chỉ muốn thoát khỏi tớ, mỗi lần như thế Martha lại tới.
– Tớ ở đây quá lâu rồi,- Mary bảo,- Bây giờ tớ đi được chứ? Mắt cậu díp cả lại kìa.
– Ước gì tớ ngủ được trước lúc cậu bỏ tớ mà đi,- nó nói với vẻ ngượng ngùng.
– Nhắm mắt lại nào,- Mary vừa nói, vừa kéo chiếc ghế đẩu lại gần,- tớ sẽ làm những gì mà Ayah của tớ vẫn làm ở Ấn Độ cho cậu xem. Để tớ vỗ nhẹ bàn tay cậu, vuốt ve thế này rồi hát khẽ cho cậu nghe nhé.
– Chắc tớ sẽ thích lắm đấy,- thằng bé nói trong cơn ngái ngủ.
Không rõ tại sao, Mary cảm thấy thương thằng Colin và không muốn nó phải trằn trọc, thế là con bé liền ngã người vào thành giường và bắt đầu xoa bàn tay nó, miệng khẽ hát một bài thánh ca bằng tiếng Hindu.
– Hay quá,- thằng bé nói trong cơn mơ màng.
Mary vẫn tiếp tục hát và xoa nhẹ tay cho nó. Khi Mary nhìn Colin lần nữa thì đã thấy những sợi lông mi đen của nó rợp xuống đôi má, nó đã nhắm nghiền mắt, chìm nhanh vào giấc ngủ. Con bé bèn nhẹ nhàng đứng dậy, cầm cây nến rồi rón rén đi ra không một tiếng động.