Niềm tin của bọn trẻ vào Phép màu thật vững chãi. Sau bài niệm chú buổi sáng hôm ấy, thỉnh thoảng Colin có những bài giảng về phép màu.
– Tớ thích việc làm này, – nó giải thích, – bởi vì một khi tớ đã trưởng thành và có những phát kiến khoa học, tớ sẽ buộc phải giảng giải về chúng, vậy nên đây chính là dịp để thực hành. Hiện giờ tớ chỉ có thể trình bày những bài giảng ngắn bởi tớ còn quá trẻ, và bên cạnh đó, ông Ben Weatherstaff sẽ ngỡ mình đang ở giữa nhà thờ và lại ngủ gà ngủ gật.
– Cái hay nhất trong các bài giảng là ở chỗ, – lão Ben lên tiếng, – một gã nào đó có thể đứng nói bất kì cái gì gã thích, và không một ai buồn đáp lại. Đôi khi chính tôi đây cũng có thể làm điều đó.
Nhưng vào những dịp Colin diễn thuyết dưới tán cây, lão Ben cứ hau háu nhìn nó mà không chớp mắt. Nó cũng nhìn lại lão với vẻ hài lòng. Thực ra mấy bài giảng ấy chẳng làm lão quan tâm bằng đôi chân thằng bé lúc này xem ra đã thẳng và cứng cáp lên từng ngày, cái đầu trẻ con của nó ngẩng lên thật cao, rồi cái cẳm nhọn và đôi má hõm của nó này đã tròn trịa trở lại, và nhất là đôi mắt thì đầy sinh khí khiến lão chạnh lòng nhớ đến đôi mắt bà mẹ nó ngày xưa. Đôi khi Colin cảm nhận được cái nhìn da diết của lão, nó vô cùng ấn tượng đến độ tự hỏi không biết lão đang nghĩ gì. Có lần, khi lão đang mê mẩn, nó liền hỏi:
– Ông đang nghĩ ngợi gì thế, ông Ben?
– Tôi đang nghĩ, – lão Ben trả lời, – tôi dám đánh cuộc rằng cậu cần phải nặng thêm ba bốn pao trong tuần này ấy chứ. Cứ nhìn vào bắp chân và đôi vai cậu thì rõ. Tôi chỉ muốn đặt cậu lên một cái cân đĩa.
– Nhờ có Phép màu… và bánh ngọt và sữa và đủ các thứ khác của bà Sowerby – Colin bảo – ông cũng thấy đấy, thí nghiệm khoa học đã thành công.
Sáng hôm ấy, Dickon đến muộn nên không nghe giảng được. Khi đến nơi, cả người nó đỏ gay vì chạy quá nhanh, gương mặt ngộ nghĩnh của nó còn lấp lánh hơn mọi bữa.
Sau cơn mưa, cỏ dại mọc xanh rì nên bọn trẻ phải bắt tay vào làm ngay. Chúng thường phải làm cỏ rất nhiều sau mỗi đợt mưa. Tiết trời ẩm ướt tốt cho hoa lá bao nhiêu thì cũng lợi cho cỏ dại bấy nhiêu. Bọn cỏ đang nhú những mầm lá nhỏ xíu khỏi mặt đất, phải nhổ ngay trước khi chúng bắt rễ sâu vào đất.
Mấy ngày ấy, Colin nhổ cỏ cũng nhanh chẳng kém mọi người, hơn nữa nó còn có thể vừa làm vừa giảng giải.
– Phép màu chỉ tỏ ra hiệu nghiệm nhất khi ta tự mình làm ra. Ta có thể cảm nhận nó rõ ràng trong từng đường gân thớ thịt. Tớ đang đọc mấy cuốn sách viết về cấu tạo xương và cơ bắp, và tớ dự định sẽ viết một cuốn sách về Phép màu nữa. Ngay từ bây giờ, tớ đã vạch sẵn nội dung rồi. Nhất định tớ phải tìm hiểu mọi thứ mới được.
Nói xong câu ấy ít phút, nó đặt cái xẻng xuống đất, rồi đứng dậy. Nó im lặng hồi lâu, mọi người đều cho rằng nó đang mải nghĩ về các bài giảng như mọi bữa. Khi nó buông xẻng và đứng thẳng dậy, Mary và Dickon thấy dường như nó đang có một ý nghĩ mạnh mẽ bất chợt lóe lên. Nó vươn mình cao hết cỡ rồi vung mạnh hai cánh tay. Khuôn mặt nó ửng hồng, còn đôi mắt kỳ lạ thì mở to lộ rõ vẻ vui sướng.
– Mary! Dickon! – Nó kêu lên. – Nhìn tôi này! Hai đứa ngừng tay nhổ cỏ và ngước lên nhìn nó.
– Các cậu còn nhớ buổi sáng đầu tiên các cậu đưa mình tới đây không?
Dickon nhìn Colin đăm đăm. Là đứa có khả năng thuần dưỡng bọn thú, nó có thể nhìn thấy nhiều điều, hơn hẳn đa phần mọi người và rất nhiều điều nó nhìn thấy nhưng không bao giờ nói ra. Giờ đây nó đang thấy những điều đó trong anh chàng Colin này.
– Chà, nhớ chứ, – Dickon trả lời.
Mary cũng chăm chú nhìn Colin, nhưng không nói gì.
– Đúng lúc này, – Colin nói, – tự dưng tôi nhớ lại tất cả… khi cúi nhìn tay mình đang cầm xẻng xúc đất… tôi đứng ngay dậy trên đôi chân mình để xem đây là thực hay mơ. Thì ra đây là thực sự! Tôi đã khỏe… tôi hoàn toàn khỏe mạnh!
– Thì cậu đúng là thế mà! – Dickon bảo.
– Tôi đã khỏe! Hoàn toàn khỏe rồi! – Colin nhắc lại, cả khuôn mặt thằng bé đỏ bừng.
Thực ra Colin đã nhận ra điều này từ trước đó, nó đã phập phồng hy vọng, cảm nhận, suy nghĩ về điều đó, thế nhưng chính giây phút ấy một cái gì thật kỳ lạ bỗng tràn ngập cơ thể nó… tựa một niềm tin vô ngần và mạnh mẽ khiến nó phải thốt lên thành lời.
– Tôi sẽ sống mãi mãi! – Nó kêu lên kiêu hãnh, – tôi sẽ còn khám phá ra vô vàn thứ, tớ sẽ hiểu thêm về con người, muông thú cùng cây cỏ… như Dickon vậy… và tôi sẽ không bao giờ từ bỏ Phép màu. Tôi đã khỏe mạnh!… và tôi cảm thấy như muốn hét lên một câu gì đó… một câu gì đó để nói lên lòng biết ơn!
Lão Ben Weatherstaff nãy giờ vẫn làm việc quanh một khóm hồng, bèn quay lại nhà nó.
– Cậu có thể hát thánh ca được rồi đấy, – lão càu nhàu gợi ý, dù chẳng có ý niệm tôn kính cụ thể gì.
Ngay cả Colin có đầu óc khám phá nghiên cứu cũng chẳng biết gì về thánh ca.
– Đó là cái gì? – Thằng bé căn vặn.
– Tôi dám đánh cuộc Dickon có thể hát nó cho cậu nghe, – lão Ben đáp. Dickon đáp lại bằng nụ cười bao dung của một anh chàng dạy thú.
– Người ta hát thánh ca trong nhà thờ, – nó đáp. – Mẹ tôi bảo bà tin rằng chim chiền chiện vẫn hát thánh ca mỗi khi chúng thức dậy vào ban mai.
– Bà mà nói vậy thì chắc chắn đó là một bài ca hay lắm, – Colin bảo. – Bản thân tôi chưa một lần được đặt chân vào nhà thờ, lúc nào cũng ốm với đâu. Hát đi, anh Dickon. Tôi muốn được nghe quá.
Dickon tỏ ra giản dị không chút màu mè. Nó hiểu những gì Colin cảm thấy còn rõ hơn cả chính Colin. Nó hiểu bằng một thứ bản năng tự nhiên đến nỗi nó không nghĩ đó là hiểu biết. Nó bỏ chiếc mũ lưỡi trai xuống rồi ngó quanh, nụ cười vẫn nở rộng trên khuôn mặt tròn.
– Ngay cả cậu cũng nên bỏ mũ ra, – Nó bảo Colin, – và bác nữa, bác Ben, và mọi người cũng biết đấy, ta hãy đứng cả dậy.
Colin bỏ mũ, mặt trời tỏa ra tia nắng ấm áp xuống mái tóc dày của nó trong khi nó vẫn nhìn Dickon chăm chú. Lão Ben Weatherstaff nhỏm dậy khó nhọc trên hai đầu gối, đầu để trần, vẻ bối rối lộ trên khuôn mặt già nua nhăn nheo, như thể lão không biết đích xác tại sao mình phải làm cái việc ngoại lệ này.
Dickon đứng tách khỏi đám cây cối và mấy khóm hồng, nó bắt đầu cất tiếng hát thật giản đơn, bằng một giọng thiếu niên khỏe khoắn dễ thương.
“Tạ ơn Chúa về tất cả ân huệ và sự che chở của Người,
Tạ ơn Người đã vì mọi sinh linh nơi trần thế,
Tạ ơn Người vì bánh thánh Người đã ban cho;
Tạ ơn Cha, Con và Thánh thần, Amen”.
Khi thằng bé kết thúc bài nguyện, lão Ben Weatherstaff vẫn đứng im phăng phắc, mồm há hốc cứng đờ, lão đưa cặp mắt lúng túng nhìn Colin. Khuôn mặt Colin đượm vẻ trầm tư và ngưỡng mộ.
– Bài ca thật tuyệt vời, – nó bảo, – Tôi thích nó. Có lẽ nó nói lên những điều mà chính tớ muốn nói khi tôi hét lên rằng tôi biết ơn Phép màu biết bao. – Nó dừng lời và bối rối suy nghĩ.
– Có lẽ hai điều đó là một chăng. Làm sao chúng ta có thể biết chính xác tên gọi của mọi sự? Hát lại đi, Dickon. Chúng mình hãy thử xem sao, Mary. Tôi cũng muốn được hát theo. Đó chính là bài ca của tôi. Nó mở đầu như thế nào nhỉ? “Tạ ơn Chúa về tất cả ơn huệ và sự che chở của Người” phải không?
Và cả bọn nhất loạt hát lại bài ấy lần nữa, Mary và Colin cố cất giọng sao cho thật du dương, trong khi Dickon gồng mình hát cho to và hay. Lúc cả bọn sang đến câu thứ hai, lão Ben đã đằng hắng sẵn giọng để khi đến câu thứ ba lão liền nhập vào bè với một sự mãnh liệt hoang dại, và ngay khi từ Amen vừa kết thúc, Mary nhận thấy những cảm xúc xảy ra với lão trước đó, vào cái hôm lão phát hiện ra rằng Colin không phải là một kẻ què quặt, nay đã trở lại: cằm lão giật giật, đôi mắt vừa thao láo vừa hấp háy, hai gò má già nua nhăn nheo đẫm lệ.
– Trước đây, tôi chưa từng thấy cảm xúc gì khi hát Thánh ca, – lão nói giọng khàn khàn, – nhưng nay suy nghĩ của tôi đã khác nhiều. Tôi có thể nói cậu sẽ nặng thêm ít nhất năm pao trong tuần này. Cậu chủ Colin ạ.- Những năm pao cơ đấy!
Colin còn đang mải nhìn qua vườn vì có một cái gì đó khiến nó chú ý, mặt lộ rõ vẻ hoảng hốt
– A đang đến kìa, – nó nói vội. – ai thế nhỉ?
Cánh cửa nơi hõm tường phủ đầy dây thường xuân vừa được nhẹ nhàng mở ra, một người đàn bà bước vào. Thực ra bà đã đến từ lúc cả bọn hát sang câu cuối cùng. Bà đứng đó lặng người nhìn và nghe chúng hát. Với mảng tường phủ kín dây thường xuân sau lưng, với ánh nắng nhấp nháy qua các tán lá cây tạo nên những đốm sáng trên tà áo choàng màu xanh của bà, gương mặt nhẹ nhõm tươi tắn ánh lên nụ cười ở phía vườn cây trông thật giống một bức chân dung minh họa với màu sắc dìu dịu trong một cuốn sách nào đó của Colin.
Đôi mắt bà vô cùng tình cảm dường như chứa đựng tất cả – tất cả,cả đến hình sóng của lão Ban Weatherstaff cùng bầy thú hoang và từng bông hoa đang nở rộ. Bà xuất hiện hoàn toàn bất ngờ, thế nhưng không phải một ai trong bọn họ nghĩ bà là kẻ xâm nhập khu vườn. Đôi mắt Dickon sáng ngời.
– Mẹ đấy mà… còn ai vào đây nữa! – Thằng bé kêu lên rồi bước vội qua bãi cỏ.
Colin cũng tiến về phía bà, Mary cũng đi cùng với nó. Cả hai đứa đều cảm thấy các huyết mạch trong người chúng đập mỗi lúc một nhanh.
– Mẹ! – Dickon thốt lên khi hai mẹ con gặp nhau ở giữa chừng – Tôi biết các cậu muốn gặp bà, nên tôi đã chỉ cho bà chỗ cánh cửa bị che khuất.
Colin chìa tay ra với vẻ bẽn lẽn, nhưng không kém phần quý phái, đôi mắt nó nhìn đăm đăm.
– Ngay cả lúc ốm đau cháu vẫn mong ước được gặp bác, – nó nói, – Bác Dickon và khu vườn bí mất. Trước đây, cháu chưa từng muốn gặp bất kì ai và bất kì thứ gì như thế.
Hình ảnh gương mặt ngẩng cao của cậu bé khiến tâm trạng bà đột ngột biến đổi. Mặt bà đỏ lên, khóe miệng bà hơi giật giật, một làn sương mỏng dường như thoáng qua đôi mắt.
– Ôi! Chàng trai thân mến! – Bà thốt lên, giọng run run. – Ôi! Chàng trai thân mến!
Có lẽ bà cũng không biết mình sắp nói ra câu đó. Bà không gọi “Cậu chủ Colin” mà bất chợt gọi thế. Hẳn bà cũng sẽ gọi Dickon như vậy, nếu có điều gì trên khuôn mặt nó làm bà cảm động. Colin thích điều đó.
– Bác có ngạc nhiên khi thấy cháu khỏe thế này không? – Nó hỏi.
Bà đặt tay lên vai thằng bé, mỉm cười, làn sương trong mắt bà tan biến.
– Ồ, có chứ, – bà bảo, – cháu giống mẹ cháu quá đỗi khiến bác nhói cả tim.
– Bác thấy thế nào, – Colin hỏi với vẻ bối rối, – nhưng liệu điều đó có làm cho cha cháu thích cháu không?
– Trời ơi, chắc chắn là như vậy, chàng trai thương mến, – bà vừa đáp, vừa vỗ nhẹ lên vai thằng bé, – Ông ấy sẽ trở về… ông ấy sẽ trở về.
– Bà Susan Sowerby đấy à. – lão Ben Weatherstaff lên tiếng và tiến lại chỗ bà, – bà đã thấy đôi chân của cậu chủ chưa? Mới hai tháng trước trông chúng chẳng khác nào hai chiến dùi trống trong đôi bít tất dài. Lại thêm nỗi bị vòng kiềng nữa chứ, tôi nghe người ta bàn tán thế. Bây giờ bà hãy xem xem!
Bà Susan Sowerby cất tiếng cười nhẹ nhõm.
– Chúng sẽ là đôi chân của một anh chàng mạnh mẽ đấy – bà bảo – Cứ mặc cậu ấy chơi đùa và làm vườn, cứ ăn cho no, uống cho thật nhiều sữa. Rồi xem, ở xứ Yorkshine này sẽ chẳng thể có đôi chân nào đẹp hơn chúng đâu, lạy Chúa ban phước lành.
Bà đặt tay lên vai Mary và cúi nhìn khuôn mặt nhỏ bé của con bé với dáng vẻ của một người mẹ.
– Cả cô cũng vậy, – bà bảo, – Cô cũng gần mạnh bằng con bé Lizabeth Ellen nhà tôi rồi còn gì. Tôi dám đánh cược cô cũng giống hệt mẹ cô. Con bé Martha bảo tôi rằng, theo như những điều bà Medlock nghe được thì bà nhà là một phụ nữ đẹp tuyệt trần. Rồi cô cũng sẽ trở thành một đóa hồng tươi thắm khi cô lớn lên, cô gái bé bỏng của tôi ạ, cầu Chúa phù hộ cho cô.
Bà không nhắc tới chuyện khi Martha về nhà vào “ngày nghỉ” đã tả lại một đứa trẻ hay cáu bẳn và tẻ nhạt ra sao, rằng chị không mấy tin tưởng vào những gì bà Medlock đã nghe. “Thật vô lý khi một người phụ nữ xinh đẹp lại có thể là mẹ của đứa bé như vậy” – chị bướng bỉnh thêm vào.
Mary không có thời gian để chú ý đến khuôn mặt đang thay đổi của nó. Nó chỉ biết rằng mình trông “khác hẳn” trước kia, tóc mình đã dày và dài ra rất nhanh. Chợt nhớ lại niềm vui mỗi khi được ngắm nhìn mẹ thưở trước ở Memsahib, nó vui mừng khi có người nói một ngày nào đó trông nó cũng được như bà.
Bà Susan Sowerby cùng mọi người đi dạo một vòng quanh khu vườn của chúng và được kể cho nghe toàn bộ câu chuyện về nơi này, được chỉ cho xem từng khóm cây nhỏ, từng cái cây lớn nay còn sống. Colin đi bên cạnh bà, Mary đi bên kia. Cả hai đứa đều không rời mắt khỏi khuôn mặt hồng hào, nhẹ nhõm của bà. Chúng không khỏi thầm ngạc nhiên trước cảm giác vui tươi mang lại cho chúng – một thứ ấm áp, khích lệ. Dường như bà hiểu bọn trẻ như Dickon hiểu bầy thú của nó vậy. Bà khom mình trên những đóa hoa và nói về hoa cỏ như về bầy trẻ. Bồ hóng lẽo đẽo bay qua bà, thỉnh thoảng cất tiếng quạ quạ, rồi tự nhiên đậu xuống vai bà như vai Dickon. Khi bọn trẻ kể với bà về con chim ức đỏ và những chuyến bay đầu tiên của bầy chim ra ràng, bà cất tiếng cười dịu dàng của một người mẹ.
– Tôi nghĩ học bay cũng tựa như trẻ con tập đi vậy. Nhưng nếu đôi chân ta bỗng dưng bị thay bằng đôi cánh thì cũng đáng lo lắm đấy. – bà nói.
Và bởi là một phụ nữ tuyệt vời trong túp lều tranh êm đềm của bà trên cánh đồng hoang nên cuối cùng, bà đã được kể cho nghe về Phép màu. –Bác có tin vào Phép màu không? – Colin hỏi sau khi đã giải thích một hồi về các thầy tu ở Ấn Độ, – cháu hy vọng bác cũng biết tới Phép màu.
– Tôi có biết, anh bạn ạ, – bà đáp, – Tuy tôi không biết nó dưới cái tên ấy, nhưng tên thì có nghĩa gì đâu? Tôi dám chắc người ta gọi nó bằng những cái tên khác nhau ở Pháp và ở Đức. Nhưng cùng một điều đó, đã khiến cho hạt giống này mầm và mặt trời chiếu sáng, và giúp cậu trở thành một anh chàng khỏe mạnh, ấy là Đấng tối cao. Người không hề giống chúng ta, những người khờ khạo đáng thương cứ cho rằng việc không gọi được đúng tên là một vấn đề. Đấng tối cao không ngừng lo lắng và che chở cho cậu. Người cũng bận tâm lo lắng cho hàng triệu sinh linh trên thế giới này nữa. Cậu không bao giờ được thôi tin tưởng vào Người và phải hiểu rằng thế giới này luôn ngập tràn Người – và gọi tên thế nào là tùy cậu. Cậu chẳng vừa hát ngợi ca Người lúc tôi đặt chân vào khu vườn này đấy thôi.
– Lúc ấy cháu thấy vui quá – Colin nói, mở to đôi mắt đẹp kỳ lạ nhìn bà, – Đột nhiên, cháu cảm thấy mình khác trước biết bao, tay chân mình mới khỏe làm sao, bác cũng thấy đấy… cháu đã có thể xới đất, đứng dậy rồi nhẩy cẫng lên, muốn hét thật to một điều gì đó để mọi người cùng nghe thấy.
– Người đã chứng kiến hết khi cậu hát Thánh ca. Người nghe rõ từng lời cậu hát. Đó chẳng qua vì cậu quá hạnh phúc. Ôi, anh bạn, anh bạn…
Người còn có một tên nữa là Đấng Sáng Tạo Niềm Vui, – nói đoạn bà lại đưa tay vỗ nhẹ, lên vai thằng bé.
Sáng hôm ấy, bà đã sắp sẵn một giò thức ăn như mọi bữa. Khi chúng đói bụng và Dickon mang chiếc giỏ ra khỏi nơi hằng ngày cất giấu, bà ngồi xuống cùng chúng dưới một tán cây, ngắm nhìn chúng ăn ngấu nghiếm. Bà cười mãn nguyện trước cảnh ngon miệng của bọn trẻ. Bà có đủ các thứ chuyện hài hước khiến bọn chúng cười bò. Bà kể chúng nghe mấy chuyện bằng thứ giọng Yorkshine đặc sệt, đồng thời dạy cho chúng thuật lại những từ mới. Bà ôm bụng cười khi chúng thuật lại những khó khăn ngày một tăng lúc thằng Colin phải tiếp tục giả vờ là một kẻ tàn tật hay cáu bẳn.
– Bác thấy đấy, chúng cháu không thể nín được cười mỗi khi ở cạnh nhau, – Colin giải thích, – Thật chẳng có vẻ gì là đau ốm cả. Chúng cháu đã cố tỏ ra khó chịu, nhưng rồi lại phải cười lăn ra không sao kìm được.
– Cháu vẫn còn băn khoăn một điều, – Mary nói, – và cháu khó lòng yên tâm được mỗi khi bất chợt nghĩ đến nó. Ấy là cháu lo cho cái khuôn mặt mỗi ngày một tròn vành vạch của Colin. Nó không béo từng tý một mà cứ to lên phèn phẹt từng ngày… cháu e rằng đến một buổi sáng nào đó, nó lại chẳng giống như…
– Cầu Chúa phù hộ cho tất cả chúng ta. Tôi có thể hình dung bấy lâu nay cậu đã phải giả bộ như thế nào, – bà Susan Sowerby nói, – Nhưng cậu không thể kéo dài chuyện này lâu hơn nữa. Ông chủ Craven sắp trở về.
– Bác nghĩ ông sắp trở về à? – Colin hỏi – Tại sao?
Bà Susan Sowerby cười lặng lẽ.
– Tôi cho rằng cậu sẽ rầu lòng nếu ông ấy phát hiện ra trước khi cậu tự hào kể cho ông mọi chuyện. Cậu đã phải thức hàng đêm để lập ra kế hoạch này.
– Cháu không tài nào chịu nổi nếu có ai đó báo cho ông biết, – Colin nói, – Ngày nào cháu cũng nghĩ ra đủ mọi cách. Nhưng bây giờ cháu chỉ muốn chạy thẳng vào phòng ông để cho ông thấy.
– Đây mới chính là một sự khởi đầu tốt đẹp đối với ông ấy. – Bà Sussan Sowerby nói, – tôi thích được ngắm khuôn mặt ông vào lúc ấy, anh bạn ạ. Tôi rất muốn được như vậy! Ông ấy chắc chắn sẽ trở về.
Một trong những chuyện khiến mọi người bàn bạc sôi nổi là chuyến thăm sắp tới của họ đến túp lều gianh của bà. Họ xúm vào cùng vạch kế hoạch cho chuyến đi. Họ sẽ phải băng qua cánh đồng hoang và ăn trưa ngoài trời giữa các bụi thạch thảo. Họ chẳng những sẽ gặp được đủ cả mười hai người con của bà mà còn được ngắm khu vườn của Dickon, và nhất định là sẽ không quay trở về cho tới khi ai nấy đều mệt lử.
Cuối cùng, bà Susan Sowerby đứng dậy để vào trong nhà gặp bà Medlock, cũng là lúc Colin ngồi lại vào xe. Trước khi bước vào xe, nó còn đứng kề bên bà Susan, nhìn bà với vẻ tha thiết, bối rối. Đột nhiên, nó đưa tay nắm vạt áo choàng xanh của bà rồi giữ chặt lấy.
– Bác chính là những gì… những gì cháu ao ước bấy lâu nay. Cháu ước gì bác là mẹ của cháu… cũng như mẹ Dickon vậy!
Ngay lập tức, bà Susan Sowerby cúi xuống, kéo thằng bé vào vòng tay ấm áp của bà, áp đầu nó vào ngực bà dưới tấm áo choàng xanh – như một đứa em của Dickon vậy. Một làn sương mờ nhẹ nhàng qua trước mắt bà.
– Ôi, chàng trai yêu quý! – Bà thốt lên – Mẹ của con ở trong từng tấc đất của khu vườn này, ta tin như thế. Bà không thể nào rời xa chúng ta được. Cha con nhất định sẽ trở về với con… ông nhất định trở về!