Khi Hội Camel rời khỏi nhà DeHaven, hai cặp ống nhòm đang chĩa vào họ. Một cặp ống nhòm là từ cửa tầng lầu của căn nhà đối diện và cặp còn lại đang được cầm bởi người đàn ông trong một chiếc xe tải phía cuối đường, bên hông xe in chữ “Công trình công cộng của quận Columbia”.
Khi chiếc mô-tô và chiếc Nova nổ máy, chiếc xe tải cũng vội theo đuôi.
Sau khi mấy cái xe đó đi mất hút, cặp ống nhòm trên cửa sổ nhà đối diện tiếp tục quan sát khu vực đường Good Fellow.
Như Caleb đoán, mất khoảng hai mươi phút để đến tiệm sách của Vincent Pearl. Chẳng có biển hiệu nào ở cửa trước, chỉ có một tấm biển ghi “Giờ mở cửa: 8 giờ tối đến 12 giờ đêm, từ thứ Hai đến thứ Bảy”. Caleb bước tới cửa và bấm chuông.
Reuben nhìn vào cánh cửa dày chắc chắn và cửa sổ có chấn song sắt, “Tôi chắc là ông ta đâu có cần quảng cáo cửa hiệu của mình”.
“Bất cứ ai sưu tập sách nghiêm túc đều biết chính xác phải tìm Vincent Pearl ở đâu”, Caleb trả lời một cách đơn giản.
“Anh có quen biết tay này không?”, Stone hỏi.
“Không, tôi đâu có đủ trình độ để làm việc với Vincent Pearl. Thật ra trong mười năm qua tôi chỉ gặp riêng ông ấy có hai lần ở đây, ngay tiệm sách này, mặc dù trước đó tôi đã từng nghe ông ấy thuyết giảng rồi. Khó mà quên được ông ấy lắm”.
Đứng nơi này có thể thấy được mái vòm sáng đèn của điện Capitol ở phía tây. Khu vực họ đang đứng thẳng hàng thẳng lối với những ngôi nhà bằng gạch và đá cổ kính phủ đầy rêu đã một thời từng là tiêu điểm của cái thành phố thủ đô đâm chồi nảy lộc.
“Anh có chắc là ông ta ở đây không?”, Milton hỏi, ngay lúc đó một giọng nói trầm trầm cất lên, “Ai vậy?”
Milton giật mình nhảy cẫng lên, nhưng Caleb nói vào cái loa nhỏ khó mà thấy được dưới bờ dây trường xuân uốn lượn sát bên cửa, “Ông Pearl à, tôi là Caleb Shaw làm việc ở Thư viện Quốc hội”.
“Ai chứ?”
Caleb có vẻ hơi ngượng ngùng và nói nhanh, “Caleb Shaw, thưa ông. Tôi làm việc trong phòng đọc Sách Quý. Chúng ta đã gặp nhau cách đây vài năm khi một nhà sưu tập những sự việc đáng ghi nhớ của Tổng thống Lincoln đến thăm thư viện chúng tôi và tôi đã đưa người ấy đến gặp ông”.
“Anh không có cuộc hẹn trước vào tối nay”, giọng nói bắt đầu có vẻ khó chịu vì bị làm phiền. Hiển nhiên ông Pearl không cảm thấy dễ chịu với chuyện Caleb vừa đề cập.
“Không có hẹn, nhưng tôi đến vì việc khẩn cấp ông Pearl ạ. Xin ông dành cho tôi vài phút thôi”.
Vài giây sau cánh cửa chính bật mở. Mọi người bước vào, riêng Stone chú ý tia phản xạ nhỏ xíu trên trần nhà. Một chiếc máy quay phim theo dõi họ, được khôn khéo giấu trong nhà dành cho mấy chú chim. Ánh đèn đường chiếu vào ống kính máy quay tạo nên tia phản xạ. Hầu hết mọi người đều không chú ý thiết bị này, nhưng Oliver Stone thì không giống hầu hết mọi người, tất nhiên là đối với những thứ bí mật theo dõi mình như thế này.
Họ đi vào trong tiệm sách, Stone còn để ý hai thứ khác nữa. Cánh cửa, dù trông cũ kỹ và làm bằng gỗ, nhưng thật ra lại được làm bằng loại thép cộng lực đặt trong khung thép; còn ổ khóa thì theo con mắt nhà nghề của Stone, trông có vẻ không thể làm giả được. Và còn cửa sổ trong song sắt là loại kính poly-cabonat dày cỡ 7.5 li.
Phần nội thất trong tiệm cũng khiến Stone ngạc nhiên. Stone tưởng tượng được thấy cách bày trí lộn xộn, với hàng chồng sách bụi bặm nằm trên những chiếc kệ võng xuống vì sức nặng và mỗi khe sách lố nhố hàng đống bản sách viết trên giấy da cừu và các bộ sách đồ sộ dành để bán. Nhưng không, thay vào đó, nơi này sạch bóng, mọi thứ được sắp xếp thẳng thớm một cách hợp lý. Bản thân ngôi nhà cao hai tầng, các kệ sách cao, hoa mỹ xếp thành từng hàng song song với tường nhà, và sách được đặt vào trong, phía sau lớp kính trượt được khóa cẩn thận. Một chiếc thang lắp bánh xe chạy theo thanh sắt dính vào đỉnh của các kệ sách cao gần ba mét. Ba bộ bàn ghế đọc sách hình ô-van làm bằng gỗ cây cherry nằm chính giữa không gian dài và hẹp. Trên trần nhà là chụp đèn bộ ba bằng đồng đang tỏa ra thứ ánh sáng dịu nhẹ đến ngây người.Chắc hẳn hệ thống đèn ở đây đã được chỉnh độ sáng như thế, Stone thầm nghĩ. Cầu thang hình xoắn ốc rộng gần hai mét dẫn lên phần trên, đang hé mở cửa. Stone có thể thấy được ở trên kia còn nhiều sách hơn nữa, với lan can hiệu Chippendale chạy dọc theo đến tầng một.
Phía sau quầy gỗ dài ở cuối gian chính vẫn còn rất nhiều kệ sách. Nhưng cái mà Stonekhông thấylàm ông ngạc nhiên quá đỗi. Chẳng có máy vi tính, thậm chí cái máy tính tiền cũng không có.
Reuben nói, “Giống như cái nơi anh mót châm thuốc lá hút và nốc một hai chai whisky nhỉ?”
“Không đâu, Reuben”, Caleb cảm thấy sốc khi nghe câu ấy. “Khói là tử thần đối với sách cũ đấy. Và chỉ cần một giọt rượu làm đổ thôi cũng có thể hủy hoại cả một kho báu phi thời gian”.
Reuben sắp sửa nói câu gì đấy thì cánh cửa chạm trổ hoa văn phía sau quầy hé mở và một ông lão bước ra. Mọi người, ngoại trừ Caleb, phải trố mắt nhìn ông lão với bộ râu bạc như cước dài đến ngực và mái tóc trắng xõa như thác chảy xuống vai. Bộ trang phục của ông ấy trông còn bắt mắt hơn. Với dáng người to cao, ông mặc áo thụng dài màu tím hoa oải hương có những sọc ngang màu vàng trên gấu áo. Cặp kính không vành đặt trên vầng trán đầy nếp nhăn, những lọn tóc hoa râm lộn xộn trước trán. Còn đôi mắt của ông ta, vâng, Stone khẳng định là màu đen, nếu ánh đèn mờ ảo này không làm anh nhìn nhầm.
“Ông ta là giáo sĩ hả?”, Reuben thì thầm vào tai Caleb.
“Suỵt!”, Caleb nhắc nhở khi ông lão bước tới trước.
“À”, Pearl nói, nhìn vào Celeb trông đợi. “Anh là Shaw?”
“Vâng”.
“Thế chuyện khẩn cấp mà anh nói là gì?”, Pearl bất thình lình nhìn chằm chằm vào những người bạn của Caleb. “Còn mấy người này là ai?”
Caleb nhanh chóng giới thiệu nhưng không đề cập đến họ mà chỉ dùng tên gọi thôi.
Ánh mắt Pearl dừng lại lâu nhất ở Stone, “Tôi đã thấy anh ở công viên Lafayette, phải không? Trong một cái lều đúng không?”, ông lão nói với sự trang trọng hơi quá.
“Đúng vậy, thưa ông”, Stone trả lời.
Pearl nói tiếp, “Vậy nếu tôi có ý thích muốn tìm sự thật, tôi không tin tôi sẽ bắt đầu việc tìm kiếm của mình ở nơi đối diện Nhà Trắng”. Pearl quay lại nhìn Caleb, “Giờ đến công việc gì của anh đây?”
Caleb vội vã giải thích về việc ông được DeHaven chỉ định làm người ủy quyền thư viện và yêu cầu thẩm định giá sách của DeHaven.
“Vâng, đó tất nhiên là một bi kịch đối với DeHaven”, Pearl nói một cách trang nghiêm, “Vàanhđược chọn làm người ủy quyền thư viện của ông ấy?”. Ông ta hỏi với giọng ngạc nhiên.
“Tôi đã từng giúp Jonathan thu thập sách cho bộ sưu tập của ông ấy, và chúng tôi cùng làm việc ở Thư viện Quốc hội”, Ông trả lời chống chế.
“Tôi hiểu rồi”, Pearl đáp cộc lốc. “Nhưng rõ ràng anh vẫn cần một người lão luyện để làm chuyện đó”.
Mặt Caleb ửng hồng vì bối rối, “Ừm, vâng. Chúng tôi có bảng kiểm kê bộ sưu tập của DeHaven trên máy tính xách tay của Milton”.
“Tôi thích làm việc trên giấy hơn”, Pearl trả lời chắc nịch.
“Tôi có thể in ra nếu ông có máy in ở đây”, Milton nói.
Pearl lắc đầu, “Tôi có chiếc máy in từ thế kỉ mười sáu. Tôi không chắc nó có tương thích với máy tính của anh không”.
“Không, tất nhiên là không rồi”, Milton lấp bấp vì quá sốc. Một người tận tụy yêu tất cả những gì thuộc về kỹ thuật số như Milton dĩ nhiên rất ngạc nhiên vì sự không hứng thú của Pearl đối với những sản phẩm công nghệ.
“Thôi để chúng tôi in ra và đem đến cho ông vào ngày mai”, Caleb đề nghị. Ông ngập ngừng rồi nói, “Ông Pearl à, tôi muốn nói với ông một chuyện. Jonathan có quyểnThánh ca của Kinh Cựu ướcấn bản đầu tiên. Ông có biết chuyện này không?”
Pearl đẩy gọng kính xuống mắt, “Xin lỗi, anh nói gì chứ?”
“Jonathan có quyểnThánh ca của Kinh Cựu ước năm 1640”.
“Không thể nào”.
“Tôi đã sờ vào nó”.
“Không, anh chưa chạm vào”.
“Tôi đã chạm vào nó”, Caleb khăng khăng.
Pearl khoát tay, “Vậy đó là ấn bản sau. Làm gì có chuyện long trời lở đất như vậy”.
“Quyển này là ấn bản đầu tiên vì nó không in kèm các bản nhạc. Việc có thêm nhạc chỉ bắt đầu từ ấn bản thứ chín vào năm 1698”.
Pearl trừng mắt nhìn Caleb, “Không còn nghi ngờ gì nữa, anh sẽ không ngạc nhiên khi biết rằng tôi hoàn toàn ý thức điều mình nói. Nhưng, như anh đã chỉ ra, có đến bảy ấn bản khác cũng không có in kèm bản nhạc”.
“Quyển này là ấn bản năm 1640. Năm xuất bản được in trên trang bìa”.
“Vậy, thưa quý ông, hoặc đấy là bản sao hoặc là đồ nhái. Người ta ai cũng lanh lợi hết. Một gã tham vọng đã làm giả bảnOath of a Freeman(Lời thề của một người tự do) và đề lùi một năm sau cuốnThánh cađấy”.
Stone xen vào, “Nhưng tôi nghĩ cuốnThánh ca của Kinh Cựu ướclà cuốn sách in đầu tiên ở Mỹ”.
“Đúng vậy”, Pearl tỏ vẻ thiếu kiên nhẫn. “Lời thềtôi vừa đề cập không phải là một quyển sách; nó chỉ là một văn kiện chỉ có một tờ thôi – tờ giấy khổ rộng chỉ in một mặt. Như tên gọi, nó là lời thề, là lời nguyện trung thành mà mỗi người đàn ông theo đạo Thanh giáo phải tuyên thệ để được đi bầu và hưởng các quyền lợi khác ở khu vịnh Massachusetts ngày xưa”.
“Mà nó cũng bị làm giả sao?”, Stone hỏi.
“Trớ trêu thay, tên làm giả sử dụng một cuốnThánh cagiả. Hắn làm thế bởi vì cuốnThánh cađược in cùng nơi với tờLời thề,cùng một nhà in, vì thế sử dụng cùng một cách in ấn”. Pearl vỗ vỗ vào ngực Caleb, “Tên tội phạm quá khéo léo, kết quả là hắn ta gần như dụ dỗ được Thư viện Quốc hội của anh mua cuốnThánh ca. Chỉ khi một chuyên gia trong ngành in chỉ ra được vài điểm bất thường thì vụ việc lường gạt mới được vạch trần”.
Caleb nói, “Tôi đã làm việc trong bộ phận Sách Quý hơn mười năm rồi. Tôi đã kiểm tra cuốnThánh camà chúng tôi có. Theo tôi nghĩ thì cuốn của Jonathan là đồ thật”.
Pearl nhìn Caleb nghi hoặc, “Anh nói tên anh là gì nhỉ?”
Mặt Caleb từ hồng chuyển sang đỏ lừ. “Caleb Shaw”
“À, Shaw à, anh có làm kiểm tra chứng thực chuẩn với cuốnThánh cachưa?”
“Chưa, nhưng tôi nhìn nó, sờ tận tay và ngửi nó”.
“Chúa ơi,chàng trai, anh chẳng thể nói chắc như đinh đóng cột chỉ bằng phương pháp kiểm tra sơ sài. DeHaven không có bộ sưu tập như thế. Một tập thơTamerlanecủa Edgar Allan Poe, vài cuốn sách in trước năm 1500, hay cuốn Dante mà tôi bán cho ông ấy đã tạo nên trái tim và tâm hồn cho bộ sưu tập sách quý của ông ta. Chưa hề có quyểnThánh caấn bản đầu tiên nào trong bộ sưu tập mà tôi biết”.
“Vậy Jonathan lấy quyển ấy ở đâu ra?”, Caleb hỏi.
Pearl lắc đầu, “Làm sao tôi biết được?”. Ông ta nhìn những người còn lại, “Có lẽ anh bạn của các ông cũng nói cho các ông hay là chỉ có mười một cuốnThánh ca của Kinh Cựu ướcnguyên gốc bản in đầu tiên còn tồn tại trên thế giới. Quý vị thử nghĩ xem. Làm một phép so sánh, có đến 228 tập sách kịch bản đầu tiên của Shakespeare, nhưng chỉ có mười một cuốnThánh catrên cả trái đất này. Và trong số mười một cuốn đó, chỉ có năm cuốn là còn nằm trong tình trạng nguyên vẹn”. Ông lão giơ những ngón tay phải lên, “Chỉ có năm thôi”, ông nói thêm với giọng trang nghiêm.
Khi Stone nhìn vào đôi mắt đen lấp lánh như thể loại dầu thô chảy từ lòng đất, ông thấy phép chẩn đoán tinh thần của Vincent Pearl lộ rõ rằng ông lão mắc bệnh cuồng vì sách.
Người bán sách quay lại nói với Caleb, “Và bởi vì cả mười một cuốn đều đã được biết danh biết tính, tôi không biết sao lại có một cuốn chạy đường nào vào bộ sưu tập của Jonathan DeHaven?”
“Vậy thì Jonathan giữ cuốn sách giả trong két sắt làm gì?”, Caleb vẫn phản đối.
“Có lẽ ông ta nghĩ rằng nó là sách thật”.
“Giám đốc bộ phận Sách Quý lại bị một cuốn sách giả lừa được ư?”, Caleb khinh khỉnh nói, “Tôi nghi ngờ điều này khó mà xảy ra”.
Pearl vẫn bình thản, “Như tôi đã nói, thư viện của các anh gần như bị lừa mua tờLời thềgiả. Con người sẽ tin vào điều họ muốn tin, và những người sưu tập sách cũng không miễn nhiễm với sự thúc đẩy đó. Theo kinh nghiệm của tôi, sự tự dối mình không có điểm dừng”.
“Có lẽ sẽ tốt hơn nếu ông đến nhà Jonathan để ông có thể tận mắt nhìn bản gốc cuốnThánh ca”, Caleb vẫn bướng bỉnh.
Pearl vuốt bộ râu rối của mình bằng các ngón tay thon dài trong khi mắt vẫn nhìn Caleb không rời.
“Tất nhiên, tôi rất hoan nghênh ý kiến về mặt chuyên môn của ông đối với tất cả các phần sách còn lại của bộ sưu tập”, Caleb nói thêm với giọng điệu bình tĩnh hơn.
“Tối mai tôi có chút thời gian rảnh”, Pearl nói với thái độ vô tư không vụ lợi.
“Tốt rồi”, Caleb trao cho ông lão danh thiếp của mình. “Đây là số điện thoại của tôi ở thư viện, xin hãy gọi để xác nhận lại. Ông có địa chỉ của Jonathan không?”
“Tôi có lưu trong sổ sách”.
“Tôi nghĩ tốt nhất ông không nên đề cập sự tồn tại của quyểnThánh cacho ai hết. ông Pearl à, ít nhất là vào thời điểm này”.
“Tôi hiếm khi đề cập bất cứ cái gì với bất cứ ai”, Pearl nói. “Đặc biệt là những thứ không có thật”.
Caleb đỏ mặt tía tai khi Pearl đuổi họ nhanh nhanh ra khỏi tiệm.
“Được rồi”, Reuben đội mũ bảo hiểm và nói, “Tôi nghĩ tôi vừa mới gặpGiáo sư Dumbledore”.
“Ai?”, Caleb hỏi lại, có vẻ như vẫn còn rất giận hành động xua đuổi của Pearl.
“Dumbledore.Trong truyện Harry Potter, anh biết mà”.
“Không, tôi không biết”, Caleb vặt lại.
“Thật là một gã muggle* khốn kiếp”, Reuben lầm bầm khi đeo kính bảo hộ vào. [* Muggle: từ được sử dụng trong bộ truyện Harry Potter, dùng để chỉ ‘người thường’]
Caleb nói, “Pearl rõ ràng không tin quyển Thánh ca là đồ thật”. Ông dừng lại, rồi nói tiếp với giọng thiếu tự tin hơn, “Mà có thể ông ta đúng. Ý tôi là tôi chỉ nhìn vào quyển sách được một chốc thôi mà”.
Reuben nói to, “Vậy mà anh cương quyết cãi với Pearl cho thấy như là anh nói đúng đó”.
Caleb xấu hổ, “Không tin nổi là tôi lại làm chuyện ấy. Ý tôi là, ông ta rất nổi tiếng trong lĩnh vực sách quý, còn tôi chỉ là một thủ thư nhà nước”.
“Một người thủ thư hạng nhất ở một trong những thư viện vĩ đại nhất trên thế giới”, Stone nói thêm.
“Ông ta có thể giỏi trong lĩnh vực của ông ta thôi, nhưng thực sự mà nói thì ông ta cần có một chiếc máy vi tính. Và một cái máy in không phải từ thế kỷ mười sáu”, Milton nhận định.
Chiếc Nova phóng đi. Trong lúc Reuben đang đạp máy chiếc mô-tô Ấn Độ, Stone, giả vờ như điều chỉnh tư thế ngồi trên thùng xe và liếc về phía sau.
Khi họ khởi hành, chiếc xe tải vẫn tiếp tục chạy phía sau.
Chiếc Chevy Nova và chiếc mô-tô chia tay, chiếc xe tải bám theo chiếc mô-tô.