Albert Trent sống trong một căn nhà cũ kỹ với vỉa hè rộng ở vùng nông thôn xa xôi tại hạt Fairfax về hướng tây.
“Chắc hắn cũng tốn hàng giờ để đi làm tại D.C đấy”, Stone để ý trong lúc ông quan sát nhà hắn qua ống nhòm từ phía sau một tán cây rộng. Annabelle vận trang phục quần jeans đen, giầy thể thao màu sẫm, áo khoác trùm đầu đen, ngồi thu lu bên cạnh Stone. Stone mang theo một ba lô nhỏ.
“Căn nhà có người ở không?”, cô ta hỏi.
Ông lắc đầu, “Tôi không nhìn thấy đèn từ chỗ này và ga-ra không mở, nên chẳng thể nói là có xe đậu bên trong hay không”.
“Một gã làm trong lĩnh vực tình báo như hắn chắc có cài hệ thống báo động”.
Stone gật đầu, “Điều đó hiển nhiên rồi, giờ chúng ta sẽ vô hiệu hóa hệ thống đó rồi đột nhập vào trong”.
“Anh biết làm cách nào à?”
“Như tôi từng nói với Reuben khi anh ta hỏi tôi câu này, cứ thử sẽ biết mà”.
Chẳng có ngôi nhà nào che chắn họ khi họ đi về hướng nhà Albert, nhưng cuối cùng họ cũng tìm cách đến phía sau nhà mà không bị phát hiện. Để làm được điều đó, họ phải vận dụng đủ kỹ năng, bò trườn, đi bằng đầu gối và cúi lom khom theo con dốc cách nhà hai mươi thước. Họ dừng lại, và Stone lại thám thính lần nữa. Căn nhà có tầng hầm với cửa thông ra sân và nối với bậc thang gỗ đã qua xử lý. Phía sau cũng tối om om giống phía trước. Không có đèn đường, và chỉ một ít ánh sáng hắt ra đâu đó nên ống nhòm dùng trong đêm của Stone rất thích hợp vì ông có thể quan sát mọi thứ thông qua lớp kính xanh mờ của nó.
“Tôi chẳng thấy có động tĩnh gì trong đó cả, nhưng cứ thử gọi điện xem sao”, ông nhắc Annabelle.
Milton tìm ra được số điện thoại nhà Trent trên mạng, một nơi còn nguy hiểm cho sự riêng tư của nước Mỹ hơn điều mà Cơ quan An ninh Quốc gia từng nghĩ đến. Annabelle dùng điện thoại riêng của mình để gọi, sau vài tiếng đổ chuông thì giọng hộp thư thoại vang lên, và họ cùng lắng nghe tiếng một người đàn ông hướng dẫn họ để lại lời nhắn.
“Tay gián điệp của chúng ta lại ra ngoài trong đêm giá buốt thế này”, cô ta thốt lên. “Mà anh có chuẩn bị đủ đồ nghề không?”
“Tôi không có súng, cô thì sao?”
Cô ta lắc đầu, “Tôi không thích chuyện đó lắm, tôi thích dùng trí óc hơn súng đạn”.
“Đúng thế, đôi khi súng ống không giải quyết được
vấn đề”.
“Ông có vẻ kinh nghiệm về điều này”.
“Bây giờ đâu phải lúc nói chuyện đời đâu”.
“Tôi biết thế, chỉ mong có dịp nói điều đó”.
“Tôi không nghĩ cô sẽ ở lại sau tất cả chuyện này”.
“Tôi còn không nghĩ mình sẽ ở lại vì chuyện này nữa là. Không ai đoán được chữ ngờ cả”.
“Được rồi, hộp điện thoại được treo ngay móng tường dưới cầu thang, đi thôi, nhớ cẩn thận”.
Khi họ trườn người về phía trước, họ nghe thấy tiếng ngựa hí văng vẳng đâu đó. Đó là một khu có nhiều nông trang nhỏ, nhưng có vẻ đang phát triển khá nhanh dưới sự bành trướng của cái gọi là ‘guồng máy nhà cửa’ từ tiểu bang Virginia phía bắc, sự xâm nhập của căn hộ gia đình, căn hộ chung cư, nhà phố với tốc độ chóng mặt. Trên đường đến nhà Trent, họ có dịp ngắm nhiều chuồng ngựa, những ụ cỏ khô cao ngất ngưỡng, khu chăn dắt và cả những chú ngựa béo tốt đang thong dong gặm cỏ bên đường. Chất thải của chúng nằm rải rác trên đường như nhấn mạnh thêm sự hiện diện này, và có lúc Stone suýt dẫm phải khi bước ra khỏi chiếc xe mà Annabelle đã thuê.
Họ đến gần hộp điện thoại, Stone mất vài phút để xem xét hệ thống báo động và vô hiệu hóa nó. Sau đó, trong lúc gắn lại đám dây điện lằng nhằng, ông bảo, “Chúng ta sẽ đi vào từ cửa sổ đó, chắc là cánh cửa có chốt khoá rồi, tôi có mang theo dụng cụ bẻ khóa, nhưng thử chỗ nào dễ dàng nhất đấy”.
Cánh cửa sổ đầu tiên không phải là nơi dễ dàng, vì nó bị đóng đinh chặt trước đó. Họ tiến về phía sau căn nhà và cuối cùng cũng tìm ra được cửa sổ chỉ gài chốt bên trong. Stone cắt một khoanh kính tròn, thò tay vào trong, gạt chốt và mở cửa. Một phút sau đó, họ đã ở trong nhà, và đi về hướng một gian bếp, Stone đi đầu trong tay cầm một đèn pin dò đường.
“Chỗ này cũng có vẻ đẹp đấy, dù chủ nhà có vẻ là tay thích sự tối giản”. Annabelle nhận xét dựa trên khiếu trang trí nội thất thanh đạm của Trent: chỉ một cái bàn, và một cái ghế, còn nhà bếp thì hầu như không có gì cả.
Stone gật gù, “Có lẽ hắn sống độc thân, và cũng ăn ngoài thôi”.
“Để tìm thử xem hắn có văn phòng ở đâu đó không, thường mấy tay như hắn lúc nào cũng mang việc về nhà cả”.
Họ tìm thấy văn phòng, nhưng cũng trống trải như những nơi khác trong nhà, không thấy giấy tờ, tài liệu gì cả. Có vài tấm hình đặt trên đầu tủ phía sau bàn làm việc, Stone chỉ vào một người đàn ông to lớn, râu ria rậm rạp, khuôn mặt nhìn phúc hậu, tóc bạc phơ, lông mày rậm đang đứng cạnh một người nhỏ thó, dáng vẻ yếu đuối, đầu hói nhưng lại có ánh mắt lanh lợi và tinh ranh.
Stone kết luận, “Người to lớn là Bob Bradley, còn tay kia là Trent đấy”.
“Hắn nhìn giống chú chồn nhỏ vậy”. Cô ta thình lình ngưng lại, “Tiếng gì rung vậy?”
“Chết tiệt, đó là điện thoại của tôi”, Stone giở điện thoại ra, nhìn màn hình, “Caleb đấy, tôi chẳng biết liệu họ đã tìm thấy gì”.
Ông chẳng có cơ hội biết đó là gì, vì ngay lúc đó, một cú đánh mạnh vào đầu khiến ông bất tỉnh ngay lập tức. Annabelle thét lên trước khi cũng bị một miếng khăn ướt tẩm thuốc mê che miệng. Trước khi bị ngấm thuốc mê, ánh mắt cô ta quét nhanh qua tấm gương treo ngay bức tường đối diện và kịp thấy hai gã đàn ông mang mặt nạ đen, một tên đang đứng giữ chặt cô ta từ phía sau, tên kia đang đứng ngay chỗ Stone. Cô ta cũng nhìn thấy cả người thứ ba, đó là gã trong ảnh, Albert Trent, và hắn đang mỉm cười không biết Annabelle nhìn thấy hình ảnh của hắn trong gương. Rồi chỉ thoáng chốc sau đó, cô nàng lịm đi.
Theo lời chỉ dẫn của Roger Seagraves, một trong hai tên tháo chiếc đồng hồ ra khỏi tay Annabelle. Seagraves đã có áo sơ mi của Stone trước đó, dù hắn không tự tay giết họ, nhưng hắn chỉ đạo cái chết của họ và điều đó hoàn toàn hợp lệ với quy tắc sưu tập của hắn. Hắn mong đợi cái ngày này đã lâu, khi mà hắn có thể sát hại một tay trong nhóm 666, và hắn dự định dành cho vật phẩm này một nơi danh giá trong bộ sưu tập của mình.