Caleb giúp Stone và Reuben qua khỏi cổng bảo vệ nhờ vào uy tín của mình và lời nói dối rằng đây là những khách viếng thăm khu triển lãm của thư viện sau giờ làm việc, dù giọng nói và điệu bộ của ông ta thật vụng về và gượng gạo.
Trong lúc họ đi thang máy xuống tầng hầm, Caleb cất tiếng phàn nàn, “Tôi có cảm giác mình vừa gây ra tội ác nghiêm trọng vậy”.
“Tội ác chỉ sắp diễn ra thôi, Caleb”, Stone hưởng ứng, tay giơ cao chùm chìa khóa, “Những gì anh đã làm trên ấy tính ra chẳng thấm thía vào đâu cả”. Caleb chỉ còn biết trân trân nhìn ông.
Họ tìm ra vị trí căn phòng, với những lớp cửa đôi to và dầy, Stone nhanh chóng tìm ra chìa khóa mở chúng. Chỉ thoáng chốc sau, họ đã ở trong một căn phòng rộng, và các thiết bị chữa cháy được đặt phía góc tường.
“Giờ thì tôi hiểu tại sao lại cần lớp cửa đôi rồi”, Stone thốt lên.
Những khối xilanh to lớn, mỗi cái có thể nặng cả tấn, sẽ không thể lọt qua khung cửa bình thường. Vài xilanh được nối với ống dẫn xuyên qua trần nhà. Trên các xilanh này là dòng chữ “Khí Halon 1301”. Stone đọc tên của công ty đã lắp đặt hệ thống “Công ty Cứu hỏa”. Tên công ty này cũng được in trên các trụ xilanh trong phòng. Sau đó ông bắt tay vào việc nghiên cứu hệ thống ống dẫn, “Có một cái công tắc dùng tay để điều chỉnh khí, và các ống dẫn phải chạy đến một số phòng khác nữa, ngoài phòng sách. Nhưng tôi không rõ ống nào mới là ống dẫn đến chỗ anh làm việc Caleb ạ”.
Reuben nhìn qua vai Stone, “Và anh cũng chẳng biết rõ liệu ống nào đã thoát khí ra đấy”.
Stone đến quan sát hệ thống điều hòa không khí, rồi rút bảng vẽ của Milton, chăm chú nhìn vào phần hệ thống điều hoà không khí chạy đến trần nhà.
“Oliver, sao anh có vẻ quan tâm đến hệ thống điều hòa không khí quá nhỉ?”, Reuben thắc mắc.
“Nếu có loại khí nào đó gây ra cái chết của Jonathan, thì tên sát nhân phải biết vị trí chính xác của ông ấy trước khi mở đường ống khí từ tận dưới tầng hầm này”.
Caleb tán thành, “Đúng rồi, sao tôi lại không nghĩ ra điều này nhỉ. Vì đâu có báo cháy thì khí gas sẽ không hoạt động, nên chắc chắn để khí thoát ra, chỉ có cách điều chỉnh bằng tay mà thôi. Nhưng phải có mặt trong phòng này thì mới làm được điều đó, tên sát nhân làm cách nào mà biết chính xác Jonathan sẽ đứng tại vị trí nhất định trong phòng sách nhỉ?”
“Tôi nghĩ hắn biết công việc thường nhật của Jonathan. Lúc nào, ông ấy cũng là người đầu tiên có mặt tại phòng sách, kiểm tra một số khu vực nhất định, cả nơi ông ta bị sát hại nữa”.
Reuben lắc đầu, “Cũng có lý, nhưng theo như Caleb kể lại thì anh ta tìm thấy xác của ông bạn DeHaven của chúng ta tại vị trí cách vòi khí khoảng sáu mét, khẳng định khí gas là nguyên nhân chính gây ra tử vong. Nhưng làm thế nào mà kẻ giết người lại biết sự việc rõ khi hắn ở dưới này nhỉ?”
Stone vẫn còn đang nhìn chăm chăm vào bản vẽ của Milton, thình lình ông chỉ tay vào hệ thống điều hòa không khí. “Cái ống này dẫn thẳng đến phòng sách, đi qua tất cả các đường ống của hệ thống”.
“Điều đó có nghĩa là gì?”
Stone nhìn xung quanh hệ thống điều hòa, rồi chợt dừng lại, ông chỉ tay vào một góc khuất tầm nhìn từ vị trí chính của căn phòng. Reuben và Caleb cùng bước đến.
“Sao lại có một hộp truy nhập nằm ngay trong hệ thống này nhỉ?”, Reuben tỏ vẻ không hiểu.
Stone mở hộp và nhìn vào trong, “Caleb này, anh có nhớ đến miệng ống gần nơi phát hiện ra xác của Jonathan không? Có phải là tấm lưới sắt bị bẻ cong?”
“Vâng, đúng vậy, anh còn chỉ tôi xem mà. Có liên quan gì đến chuyện này?”
“Nếu có ai đó đặt một camera có gắn cọng cáp dài bên trong hệ thống thông khí của phòng sách, bẻ cong tấm lưới sắt thì chắc rằng tầm nhìn của camera có thể quay lại rõ vị trí của Jonathan trong phòng sách sáng hôm đó. Còn người này chỉ cần ở dưới này, với thiết bị thu tín hiệu từ camera, tôi tin rằng, hắn hoàn toàn có thể nhìn thấy từng cử động nhỏ của Jonathan”.
“Mẹ kiếp”, Reuben cất tiếng chửi thề, “Chúng biết lợi dụng hệ thống này quá nhỉ”.
“Vì đó là cách duy nhất để nối dây cáp. Hệ thống vô tuyến không thể hoạt động qua cái đống bê tông và những vật cản khác”, Stone giải thích, “Tôi tin rằng khi chúng ta kiểm tra hệ thống điều hòa không khí trong phòng sách sau miếng lưới sắt bị bẻ cong, chúng ta có thể tìm ra được dấu tích nơi camera được gắn. Tên sát nhân ngồi đây đợi, rồi hắn nhìn thấy Jonathan, mở công tắc, trước đó là tắt hệ thống báo động, và mười giây sau, khí gas tràn ngập phòng và sát hại Jonathan”.
“Nhưng tên này sau khi sát hại Jonathan, chắc phải tháo camera ra chứ, vậy sao hắn không bẻ tấm lưới sắt lại cho đàng hoàng?”, Reuben hỏi tiếp.
“Hắn có làm, chỉ có điều, khi đã bẻ cong rồi, rất khó làm lại hình dáng ban đầu”, ông ngưng lời, nhìn sang Caleb, “Này anh sao vậy?”
Mặt Caleb trắng bệch, “Nếu những gì anh nói là đúng, vậy thì kẻ nào đó, hiện đang làm việc tại thư viện chính là tên sát nhân. Chẳng ai được bước vào phòng sách một mình cả”.
“Tiếng gì vậy?”, Reuben rít lên.
Stone nhìn cánh cửa, cảnh giác, “Có người đang đến, nhanh lên, lại đây nào”.
Họ nép mình vào phía sau hệ thống điều hòa không khí, Reuben gần như phải đỡ ông bạn Caleb đang run lẩy bẩy vào chỗ nấp. Họ chỉ kịp vào chỗ an toàn thì cửa bật mở. Bốn người đàn ông bước vào, tất cả đều mặc đồ bảo hộ lao động màu xanh da trời. Một chiếc xe nâng do người đàn ông thứ năm lái cũng vừa trờ tới sau lưng. Người mới xuất hiện, cũng là ông chủ, lấy ra một bìa hồ sơ và những người còn lại đứng xung quanh.
“Rồi bây giờ chúng ta sẽ lấy trụ này, trụ này, và trụ đằng kia”, ông ta vừa nói vừa chỉ vào ba xilanh, gồm cả hai cái đang gắn với ống dẫn, “rồi thay chúng bằng những trụ đang nằm trên xe nâng nhé”.
Những người thợ cẩn thận tháo rời những trụ xilanh cồng kềnh khỏi ống dẫn. Stone và các cộng sự dõi theo từ chỗ nấp. Reuben nhìn Stone, tính cất tiếng hỏi, nhưng ông lắc đầu, ra hiệu im lặng. Còn Caleb vẫn không ngớt run rẩy, đến nỗi Stone phải nắm chặt một cánh tay, còn Reuben đỡ tay kia để giữ ông ta đứng thẳng.
Nửa tiếng sau đó, ba trụ xilanh đã được đặt yên vị trên xe nâng, trong lúc ba trụ mới được gắn vào hệ thống ống dẫn. Chiếc xe nâng rời khỏi phòng, và những người thợ nối đuôi theo sau. Khi cửa vừa đóng, Stone lập tức đến bên những trụ mới, và đọc nhãn ghi trên thân, “Chất khí FM-200. Caleb này, anh nói rằng thư viện đang thay đổi hệ thống khí chữa cháy à. Chắc là chất này đây”.
Caleb trả lời, “Chắc thế”.
“Vậy thì chúng ta sẽ đi theo họ”, Stone quả quyết.
Caleb lắp bắp, “Làm ơn đi, Oliver, không đi có được không?”
“Caleb, chúng ta phải đi”.
“Tôi… không… muốn chết!”
Stone lay ông ta thật mạnh, “Này, bình tĩnh nào anh bạn. Đi thôi!”
Caleb nhìn trân trối Stone rồi lại lắp bắp, “Tôi chẳng thích cái kiểu anh hành hung tôi như thế”.
Stone phớt lờ, “Chỗ đi lên ở đâu nhỉ?”
Caleb trả lời, rồi mọi người lục tục kéo ra ngoài. Lúc này, điện thoại của Stone reo, đó là Milton. Stone kể vắn tắt chuyện đã xảy ra rồi kết luận, “Chúng tôi theo dấu mấy cái trụ, sẽ liên tục báo tin cho anh”.
Milton tắt điện thoại, nhìn Annabelle. Họ đang ở trong khách sạn của cô ả, ông kể lại câu chuyện.
“Nghe có vẻ nguy hiểm đấy”, cô ả nhận xét. “Họ không biết họ sắp gặp chuyện gì cả”.
“Vậy chúng ta nên làm gì?”
“Yểm trợ họ, anh nhớ chứ?”
Cô ả chạy lại tủ, lôi ra một cái túi, lấy một hộp nhỏ ra khỏi túi.
Milton lập tức bối rối vì nó là hộp đựng băng vệ sinh. Nhận thấy điều này, Annabelle lên tiếng, “Đừng mắc cỡ, anh Milton ạ. Phụ nữ hay giấu những thứ họ không muốn người khác tìm ra trong hộp này đấy”. Cô mở hộp, lấy một món đồ rồi bỏ vào túi áo. “Họ nói tên công ty là “Chữa cháy” à. Tôi nghĩ họ đang đi đến kho hàng của công ty này đấy. Anh tìm ra chỗ được không?”
“Khách sạn này có mạng không dây, nên tôi tra trên mạng nhanh mà”, vừa nói tay ông ta đã lướt trên bàn phím.
“Tốt quá. Có cửa hàng bán đồ dùng nào gần đây không nhỉ?”, cô ả hỏi thêm.
Ông suy nghĩ một lát, rồi trả lời, “À, có đấy, có cả vài món đặc biệt nữa. Mà lại mở cửa đến tối nữa chứ”.
“Tuyệt vời”.