Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Cô Gái Đùa Với Lửa

Chương 3

Tác giả: Stieg Larsson

Thứ Sáu, 17 tháng Mười hai

Thứ Bảy, 18 tháng Mười hai

Salander thức dậy lúc 7 giờ sáng, tắm táp, đi xuống gặp Freddy McBain ở bàn tiếp tân ngoài cùng để hỏi liệu có chiếc Beach Buggy, xe con chạy ở bãi biển, nào thuê được không. Mười phút sau, Salander nộp một phần tiền đặt cọc, chỉnh ghế ngồi, kính chiếu hậu, khởi động thử máy và kiểm tra xăng trong thùng. Cô vào trong bar gọi một cà phê latte, một sandwich pho mát cho bữa điểm tâm và một chai nước khoáng mang theo. Vừa ăn cô vừa ngoáy các hình lên giấy lau tay và suy nghĩ về (x3 + y3 = z3) của Pierre de Fermat.

Ngay sau 8 giờ tiến sĩ Forbes vào bar. Mới cạo mặt, ông mặc một bộ đồ sẫm màu, sơ mi trắng và cà vạt lơ. Ông gọi trứng, bánh mì nướng, nước cam và cà phê đen. 8 rưỡi ông đứng lên đi ra ngoài đến một taxi đang chờ.

Salander theo sau ở một khoảng cách thích hợp. Forbes xuống xe ở dưới Seascape, chỗ bắt đầu của Carenage và đi la cà dọc bờ nước. Cô lái xe qua ông, đỗ ở gần trung tâm nơi dạo chơi tại bến cảng, kiên nhẫn chờ cho tới khi ông đi qua, cô lại theo sau.

1 giờ trưa, Salander đầm đìa mồ hôi, chân sưng lên. Trong vòng bốn giờ cô đã đi bộ leo một con phố ở St George rồi đổ xuống một con phố khác. Cô bước nhàn nhã nhưng không bao giờ dừng lại. Những quả đồi cao bắt đầu lên tiếng với các cơ bắp của cô. Cô ngạc nhiên với sinh lực của Forbes khi uống giọt nước khoáng cuối cùng. Cô bắt đầu muốn từ bỏ ý định thì thình lình ông quay về phía Turtleback, Lưng Rùa. Chừng mười phút sau, cô cũng vào nhà ăn, ngồi ở hàng hiên ngoài. Hai người lại ngồi ở chỗ hôm nọ, và như hôm ấy ông cũng uống một chai Coca Cola khi đăm đăm nhìn bến cảng.

Forbes là một trong rất ít người mặc complê và thắt cà vạt ở Grenada. Ông hình như không bị rắc rối vì cái nóng.

3 giờ, trả tiền và rời nhà ăn, ông đã khiến dòng suy nghĩ của Salander bị khuấy động. Ông đi thong thả dọc Carenage rồi nhảy lên một mini bus chạy tới Grand Anse.

Salander đỗ xe ở ngoài khách sạn Keys được năm phút thì chiếc xe bus nhả ông xuống. Cô về phòng, làm một chầu tắm lạnh, nằm duỗi dài trong nước, trán cau rúm lại.

Hôm ấy gắng sức – chân cô vẫn còn đau – nhưng cô đã có một thông tin rõ ràng. Sáng sáng Forbes ăn mặc chỉnh tề cho công vụ, xách cặp rời khách sạn nhưng ông đã để cho ngày hôm ấy trôi đi, chẳng làm gì hết, trừ giết thời gian. Ông có thể làm bất cứ việc gì ở Grenada nhưng kế hoạch xây một trường học mới thì không có đâu, vậy mà ông lại muốn tạo ra ấn tượng rằng ông ở hòn đảo này là vì công việc.

Vậy tại sao lại có tất cả trò diễn này?

Người duy nhất mà có lẽ ông muốn che giấu điều gì đó trong chuyện này là vợ ông, bà có thể vẫn nghĩ là ông cực kỳ bận bịu trong ngày. Nhưng tại sao? Công việc thất bại rồi nhưng ông quá tự hào không muốn chấp nhận nó ư? Cùng với chuyến đến thăm hòn đảo này, ông có một mục tiêu nào khác nữa chăng? Ông đang chờ một việc gì, hay một ai đó sao?

Salander có bốn email. Thư đầu tiên của Dịch Bệnh, trả lời sau khi cô viết cho anh một giờ. Thư mã hóa và hỏi: “Có thật là cậu vẫn sống đấy không?”. Thư Dịch Bệnh không bao giờ viết rông dài, tình cảm nhiều. Ở chuyện này Salander cũng không.

Hai thư nữa được gửi quãng 2 giờ sáng. Một của Dịch Bệnh, cũng mã hóa, bảo cô rằng một chỗ quen biết trên Internet, với tên Bilbo, có vẻ sống ở Texas đã chộp lấy yêu cầu của cô. Dịch Bệnh đính kèm địa chỉ và khóa mật PGP của Bilbo. Thư chỉ nói trong vòng 24 giờ Bilbo sẽ gửi cho cô dữ liệu về tiến sĩ Forbes và vợ ông ta.

Thư thứ tư cũng của Bilbo, gửi lúc chiều muộn. Nó gồm một con số tài khoản ngân hàng mã hóa và một địa chỉ FTP[1] Salander mở địa chỉ URL[2] và tìm thấy một file nén dung lượng 390 KB. Cô giải nén và lưu nó lại. Đó là một thư mục gồm bốn bức ảnh độ phân giải thấp và năm file Word.

Hai trong bốn ảnh là về tiến sĩ Forbes một mình; một trong hai cái chụp trong buổi trình diễn đầu tiên của một vở diễn và cho thấy Forbes cùng với vợ. Bức thứ tư là về Forbes ở bục giảng kinh nhà thờ.

Tư liệu đầu tiên gồm mười một trang chữ viết và là báo cáo của Bilbo. Tư liệu thứ hai gồm tám mươi tư trang chữ viết tải từ Internet xuống. Hai tư liệu sau là OCR, những bài báo cắt dán đã được quét hình của tờ Austin American – Statesman, và tư liệu cuối cùng là một cái nhìn khái quát về hội đoàn công giáo của tiến sĩ Forbes, Nhà thờ Trưởng lão Presbyterian Nam Austin.

Ngoài việc thuộc lòng Sách kinh Leviticus – năm ngoái Salander đã có dịp nghiên cứu các chỗ trong Thánh Kinh nói tới trừng phạt – lịch sử tôn giáo cô chỉ nắm được sơ sài, không hơn một phác họa. Ngoài việc nhà thờ Do Thái được gọi là synagogue, cô chỉ có một cảm nhận mơ hồ về các chỗ khác nhau giữa các nhà thờ Do Thái, Trưởng lão và Thiên chúa. Cô đã có một lúc hoảng lên rằng mình sẽ bị đắm ngập vào các chi tiết thần học. Nhưng suy nghĩ lại thì chuyện tiến sĩ Forbes thuộc về loại hội đoàn tôn giáo nào cô có cần quái gì đâu.

Tiến sĩ Richard Forbes, tức Đức Cha Richard Forbes bốn mươi hai tuổi. Trang chủ của nhà thờ Nam Austin cho biết nhà thờ có bảy nhân viên. Đức Cha Duncan Clegg ở trên đầu danh sách. Bức ảnh cho thấy một người lực lưỡng với bộ tóc rậm đã muối tiêu và bộ râu quai nón cũng muối tiêu tỉa tót công phu.

Forbes đứng thứ ba trong danh sách, phụ trách các vấn đề giáo dục. Cạnh tên ông có dòng chữ “Quỹ Nước Thánh”.

Salander đọc dẫn luận lời tuyên bố sứ mệnh của nhà thờ.

Qua cầu kinh và tạ ơn chúng ta sẽ hầu hạ dân chúng Nam Austin bằng sự cung hiến ổn định, thần học và ý hệ hy vọng như đã được Nhà thờ Trưởng lão của nước Mỹ bảo vệ. Là đầy tớ của Chúa chúng ta cung hiến cho những người cần đến chỗ ẩn náu và lời hứa hẹn về sự đền tội thông qua cầu kinh cùng lễ rửa tội đặt tên. Chúng ta hãy vui vầy trong tình yêu của Chúa. Bổn phận của chúng ta là gỡ bỏ hàng rào giữa dân chúng và xóa nhòa các vật chướng ngại để đi tới hiểu được thông điệp tình yêu của Chúa.

Dưới dẫn luận là con số tài khoản ngân hàng của nhà thờ và một kêu gọi chuyển hóa tình yêu Chúa của bản thân sang hành động.

Qua tiểu sử ngắn gọn Bilbo gửi đến, Salander biết Forbes sinh ra ở Pine Bluff, Nevada, đã làm nhà nông, nhà kinh doanh, quản trị nhà trường, phóng viên địa phương cho một tờ báo ở New Mexico và người điều hành một băng nhạc rock Cơ đốc giáo trước khi gia nhập Nhà thờ Nam Austin vào tuổi băm mốt. Ông là một kế toán viên công cộng có chứng chỉ và có học cả khảo cổ học. Bilbo không thể tìm ra nguồn gốc bằng tiến sĩ của ông.

Forbes đã gặp ở hội đoàn Geraldine Knight, con gái một của chủ trại chăn nuôi William F. Knight, cũng là hội viên của Nam Austin. Hai người lấy nhau năm 1997, sau đó ngôi sao Forbes ở nhà thờ đã trỗi dậy. Ông trở thành người đứng đầu Quỹ Santa Maria, mục tiêu của tổ chức này là “đầu tư quỹ của Chúa vào các dự án giáo dục cho những kẻ cần đến”.

Forbes đã bị bắt hai lần. Ở tuổi hai mươi lăm, năm 1987, sau một vụ tai nạn xe cộ, ông đã bị buộc tội hành hung về mặt thân thể mang tình tiết nặng. Ông đã được tòa cho trắng án. Từ các bài báo cắt dán thì Salander có thể nói quả là ông vô tội. Năm 1995 ông bị buộc tội tham ô tiền của ban nhạc rock mà ông điều hành. Lần này ông lại trắng án.

Ở Austin ông trở thành một nhân vật nổi nênh trong công chúng và là thành viên ban giáo dục của thành phố. Ông là đảng viên đảng Dân chủ, tích cực tham gia các công việc từ thiện và quyên tiền lập quỹ làm trường cho trẻ con các gia đình kém may mắn. Nhà thờ Nam Austin tập trung công việc vào các gia đình nói tiếng Tây Ban Nha.

Năm 2001 đã có những lý lẽ đưa ra chống Forbes về những bất bình thường tài chính trong công việc của ông với Quỹ Santa Maria. Theo một bài báo, Forbes bị nghi là đã lấy một phần tài sản lớn hơn quy định của quy chế ra làm tiền đầu tư. Nhà thờ đã bác bỏ các kết tội này, Đức Cha Clegg kiên quyết đứng về phía Forbes trong cuộc tranh cãi. Không đưa ra buộc tội nào và một cuộc kiểm toán đã diễn ra, chả cái gì là không bình thường sất.

Salander nghiên cứu bản tóm lược của Bilbo về tài chính của bản thân Forbes. Ông có thu nhập hàng năm 60.000 đôla Mỹ, có thể coi là một món lương tử tế, nhưng ông không có tài sản riêng. Geraldine Forbes chịu trách nhiệm về ổn định tài chính của hai người. Bố bà mất năm 2002. Cô con gái là người thừa kế duy nhất một tài sản trị giá ít nhất bốn chục triệu đôla. Hai vợ chồng không có con.

Do đó Forbes phụ thuộc vợ. Salander nghĩ rơi vào hoàn cảnh này thực không hay ho gì nếu đã quen lạm dụng vợ.

Salander vào Internet gửi đi một thư mã hóa cho Bilbo, cảm ơn anh về bản báo cáo rồi chuyển 500 đôla vào tài khoản của anh.

Cô đi ra ban công, ngả người vào lan can. Mặt trời sắp lặn. Một ngọn gió nhẹ đang làm xào xạc các mũ miện của hàng cọ dọc bức tường chắn biển. Grenada đang cảm nhận được các dàn nhạc ở xa hơn của Matilda. Theo lời khuyên của Ella Carmichael, Salander gói ghém lại máy tính, Các chiều kích trong toán học, túi không thấm nước và quần áo thay đổi vào túi khoác vai rồi đặt nó trên sàn cạnh giường. Rồi cô xuống gọi cá cho bữa tối và một chai bia Carib.

Việc duy nhất đáng chú ý là khi tiến sĩ Forbes, đã thay quần áo, mặc một sơ mi đánh tennis nhạt màu, quần soóc và giày tennis, đi đến quầy bar hỏi Ella về đường di chuyển của Matilda. Ông không có vẻ đặc biệt lo ngại. Đeo một thánh giá ở sợi dây vàng quanh cổ, ông trông khỏe khoắn, thậm chí hấp dẫn.

Salander mệt nhoài sau một ngày loăng quăng vô tích sự ở St George. Sau bữa tối, cô dạo quanh một lúc nhưng gió đang thổi dữ và nhiệt độ tụt gấp xuống. Cô về phòng bò lên giường vào quãng 9 giờ. Gió lay cửa sổ kêu chan chát. Cô có ý đọc một lúc nhưng mau chóng ngủ thiếp đi, gần như ngay lập tức.

Thình lình cô tình dậy vì tiếng đập rầm rầm. Đồng hồ chỉ 11 giờ 15. Cô lảo đảo ra khỏi giường và mở cửa ban công. Những hồi gió đẩy cô lui trở lại. Cô bấu lấy thành cửa, thận trọng bước ra ban công, nhìn quanh.

Vài ngọn đèn treo quanh bể bơi đang lắc đi lắc lại, tạo nên một trò chơi sáng tối đáng sợ trong vườn. Cô để ý thấy mấy người khách đang đứng cạnh chỗ mở của bức tường nhìn ra bãi biển. Những người khác tụ tập ở gần bar. Cô có thể nhìn thấy ánh sáng của St George ở phía bắc. Bầu trời bị che kín nhưng không mưa. Cô không nhìn thấy biển trong bóng đêm nhưng tiếng sóng gầm gào thì lớn hơn bình thường. Nhiệt độ lại còn tụt thêm xuống nữa. Lần đầu tiên đến vùng Caribbean cô bị rét run.

Cô đang đứng ở ban công thì có tiếng gõ mạnh vào cửa phòng. Cô quấn khăn trải giường quanh người rồi mở cửa. Freddy McBain nom vẻ kiên quyết.

– Tôi xin lỗi đã quấy rầy cô nhưng hình như có bão đấy.

– Matilda.

– Matilda. – McBain nói. – Xẩm tối nay nó ập vào bên ngoài Tobago và chúng tôi nhận được báo cáo là nó đã phá phách rất dữ.

Salander huy động kiến thức địa lý và thời tiết của cô. Trinidad và Tobago nằm về phía đông nam khoảng 200 cây số. Một trận bão nhiệt đới có thể tràn rộng ra bán kính 100 cây số, mắt bão có thể di chuyển ở tốc độ 30 – 40 cây số một giờ. Có nghĩa là hiện bây giờ Matilda có thể đập vào cửa của Grenada bất cứ lúc nào. Tất cả trông vào việc nó sẽ đến từ hướng nào.

– Không có nguy hiểm ngay trước mắt. – McBain nói. – Nhưng chúng ta không dựa vào chuyện may rủi. Tôi muốn cô cho các thứ giá trị vào một cái túi rồi đi xuống gian sảnh. Khách sạn sẽ phục vụ cà phê và sandwich.

Salander rửa mặt cho tỉnh ngủ, mặc jean, sơ mi flanen và đi giầy vào rồi nhặt túi khoác vai lên. Trước khi rời phòng cô đi mở cửa buồng tắm, bật đèn. Con thằn lằn xanh không còn đó; chắc nó đã chui vào trong một cái lỗ nào. Con ranh đến là khôn.

Trong bar, cô yên vị tại chỗ quen thuộc và nhìn Ella Carmichael chỉ bảo nhân viên, rót đầy nước sôi vào các phích. Một lát sau chị đi đến cái xó của Lisbeth.

– Này, chào. Nom cô như vừa mới dậy.

– Tôi đã ngủ được một ít.

– Chúng ta chờ. Ngoài khơi đang có bão lớn, Trinidad đã báo là chúng ta có bão cấp 8. Nếu tình hình xấu đi và Matilda vào lối này thì chúng ta sẽ xuống hầm rượu. Cô có giúp chúng tôi một tay được không?

– Chị muốn tôi làm gì?

– Trong gian sảnh chúng tôi có 160 cái chăn cần mang xuống. Chúng tôi cũng có nhiều việc cần được xếp dọn.

Salander giúp mang chăn xuống và đưa các bình hoa, bàn, ghế gấp và các đồ không cố định ở quanh bể bơi vào trong. Khi Ella hài lòng và bảo cô được rồi, Salander đi tới chỗ mở trên bức tường đối diện bãi biển rồi đi vài bước vào trong bóng tối. Biển đang kêu ầm ầm đe dọa và gió thổi thốc vào cô mạnh đến mức cô phải tự co mình lại để giữ thẳng được người. Hàng cọ dọc bức tường uốn cong đi.

Cô trở vào trong nhà, gọi một cà phê latte rồi ngồi uống ở bar. Đã quá nửa đêm. Đám khách trọ và nhân viên lo lắng, họ chuyện trò thì thầm, thỉnh thoảng lại nhìn về chân trời và chờ đợi. Có ba mươi hai khách và mười nhân viên ở khách sạn Keys. Salander để ý thấy Geraldine Forbes ở một cái bàn gần bàn tiếp tân ngoài cùng. Chị ta nom căng thẳng và tay thì ủ cốc nước uống. Không thấy chồng chị đâu.

Salander uống cà phê và lại quay về với định lý của Fermat thì McBain ở văn phòng đi ra, đứng giữa gian sảnh.

– Xin các vị chú ý giúp cho tôi được không ạ? Tôi được thông báo một trận bão cấp 8 trở lên đã đổ bộ vào Martinique Nhỏ. Tôi phải yêu cầu mọi người đi xuống hầm rượu ngay tức thì.

Ở đằng sau bàn tiếp tân, gạt đi nhiều câu hỏi, McBain chỉ dẫn các vị khách trọ đến cầu thang hầm rượu. Martinique Nhỏ, một hòn đảo nhỏ thuộc Grenada, ở cách hòn đảo chính về phía bắc chỉ vài dặm. Salander liếc nhìn Ella Carmichael rồi dỏng tai lên khi chị phụ trách quầy bar đi đến với McBain.

– Bão dữ đến đâu?

– Không thể biết: đường dây điện thoại đổ rồi. – McBain thấp giọng nói.

Salander xuống hầm rượu, để túi lên một cái chăn ở trong góc. Cô nghĩ một lát rồi đi ngược lại dòng người lên gian sảnh. Cô tìm Geraldine hỏi chị có cần cô giúp đỡ gì không. Nom vẻ lo lắng, chị lắc đầu.

– Matilda chó chết. Chúng ta sẽ phải chờ xem chuyện gì xảy ra.

Salander thấy một tốp năm người lớn và chừng mười đứa trẻ chạy ào vào cửa chính của khách sạn. McBain cũng tiếp nhận họ và chỉ cho họ tới cầu thang xuống hầm rượu.

Salander chợt thấy đầy sợ hãi.

– Ngay bây giờ tôi cho rằng tất cả đều cần xuống dưới hầm rượu. – Cô nói nhẹ nhàng.

Ella nhìn gia đình kia xuống cầu thang.

– Không may ở Grand Anse có ít hầm rượu mà hầm của chúng ta là một trong số đó. Chắc nhiều người sẽ đến đây tìm trú náu nhờ.

Salander ngoắt nhìn chị.

– Những người còn lại sẽ làm thế nào?

– Những người không có hầm rượu ấy hả? – Ella cười to chua chát. – Họ ôm nhau trong nhà hay tìm nơi trú ẩn ở cái nhà cấp bốn nào đó. Họ phải trông vào Chúa thôi.

Quay lại, Salander chạy qua gian sảnh ra ngoài cổng chính.

George Bland.

Cô nghe thấy Ella gọi ở đằng sau nhưng không dừng lại.

Cậu ấy sống trong căn nhà xoàng như thế thì gió nổi lên là sập thôi.

Ra tới đường đi St George, cô loạng choạng khi gió giật thốc vào người, rồi cô bắt đầu rảo bước. Cô bướng bỉnh nhằm thẳng vào hướng gió ầm ầm đang làm cô lảo đảo; cô đã phải mất mười phút để đi qua bốn trăm mét đến nhà Bland. Trên suốt đường đi cô không trông thấy bóng vía nào.

Mưa cứ thế trút xuống như những tia nước lạnh băng phun ra từ vòi cứu hỏa. Cô rẽ vào phía nhà Bland và cùng lúc ấy trông thấy ánh đèn dầu hỏa đung đưa sau cửa sổ. Trong một tích tắc cô đã bị ướt như chuột và chỉ có thể nhìn thấy được có hai mét ở trước mặt.

Cô đấm vào cửa. Bland mở cửa, mắt trợn lên.

– Cậu làm gì ở đây? – Cậu ta hét lên để át tiếng gió.

– Đi nào. Cậu phải đến khách sạn. Họ có một hầm rượu.

Cậu con trai ngớ ra. Gió đóng sầm cửa lại và phải mất mấy giây cậu mới buộc được nó lại mở ra. Salander túm lấy áo sơ mi cậu, kéo cậu ra ngoài. Cô lau nước trên mặt, rồi nắm lấy tay cậu và bắt đầu chạy. Cậu chạy theo cô.

Họ ra đường mòn bãi biển, nó ngắn hơn con đường chính chạy vòng quanh đảo khoảng trăm mét. Khi đi đã được nửa đường, Salander nhận ra đi như thế có thể là sai lầm. Trên bãi biển họ chả có gì để che chắn. Mưa gió quạt thốc vào họ mạnh đến nỗi phải dừng lại vài ba phen. Cát và cành cây bay trong không. Có tiếng gầm gào khủng khiếp. Cuối cùng sau một lúc ngỡ như vĩnh cửu Salander mò ra dẫy tường của khách sạn và bước gấp lên. Ngay lúc họ bước vội vào cổng khách sạn và cómsự hứa hẹn an toàn thì cô ngoái lại sau vai nhìn ra bãi biển. Cô đứng sững.

Sau màn mưa sầm sập cô nhận ra hai người ở bên dưới bãi biển cách cô chừng năm chục mét. Bland lôi tay cô để kéo cô vào qua cửa. Cô buông tay cậu rồi bám vào tường để tập trung nhìn ra rìa nước. Trong chớp nhoáng cô mất hút hai người trong màn mưa. Nhưng lúc đó một tia chớp làm cho cả bầu trời sáng lòe.

Cô thừa biết đó là Richard và Geraldine Forbes. Họ đại khái ở vào cũng cái chỗ cô đã thấy Forbes đi lại lang thang đêm hôm qua.

Khi tia chớp sau lóe lên, Forbes có vẻ như đang lôi vợ, và chị ta thì giằng co với chồng.

Tất cả các mảnh trong trò chơi lắp ghép đâu đã đi vào chỗ đấy. Sự phụ thuộc tài chính. Những lý lẽ của vụ kiện tụng tài chính ở Austin. Việc hắn ta lang thang không ngừng và những giờ bất động ở Lưng Rùa.

Hắn đang có âm mưu giết vợ. Bốn chục triệu đôla trước mặt. Hắn mượn cơn bão để ngụy trang. Đây là cơ hội của hắn.

Salander quay lại, đẩy Bland qua cửa. Cô nhìn quanh thấy một ghế xích đu gỗ mà người bảo vệ đêm thường ngồi ở đó, người ta chưa dọn nó đi khi bão sắp đến. Cô lấy hết sức quật nó vào tường rồi cầm lấy một chân ghế làm vũ khí. Bland kinh hoàng hét lên ở đằng sau khi cô chạy ra phía bãi biển.

Salander gần như đổ dúi đổ dụi vì gió mạnh, nhưng cô cắn răng cố tìm cách tiến lên, từng bước một trong bão. Cô sắp sửa đến gần cặp vợ chồng thì một tia chớp nữa lại lóe lên, chiếu sáng bãi biển. Cô trông thấy Geraldine Forbes ngập đến đầu gối ở rìa nước, Forbes đứng đằng trước, cánh tay giơ lên để đánh bằng thứ nom như một ống sắt. Cô thấy tay hắn vung lên thành một vòng cung hướng về đầu chị vợ. Geraldine ngừng vật lộn.

Forbes không trông thấy Salander đến.

Cô nện chân ghế đánh rắc một cái vào sau ót hắn và hắn ngã úp sấp xuống.

Salander cúi xuống giữ Geraldine. Trong khi mưa vẫn quất qua họ, cô quay người Geraldine lại. Salander thấy tay mình dính máu. Geraldine Forbes bị một vết thương ở đầu. Chị nặng trịch và Salander thất vọng nhìn quanh, nghĩ thầm làm sao kéo được chị về dẫy tường khách sạn. Thì Bland hiện ra bên cô.

Cậu hét gì đó nhưng Salander không nghe nổi trong tiếng gầm rít của gió bão.

Cô liếc sang Forbes. Lưng hắn quay lại cô nhưng hắn đang bò lồm ngồm. Cô cầm lấy cánh tay trái của Geraldine vắt qua cổ mình rồi ra hiệu cho Bland cầm tay kia. Họ bắt đầu cần mẫn khiêng Geraldine lên bãi biển. Nửa chừng sắp tới dẫy tường khách sạn, Salander thấy mình kiệt quệ, tựa như tất cả sức lực đã rời bỏ cô. Tim cô thót mất một nhịp khi cô thấy một bàn tay nắm lấy bả vai. Cô buông Geraldine ra, quay lại đá vào hạ bộ Forbes. Hắn khuỵu gối xuống. Cô lại đá vào mặt hắn. Cô thấy vẻ mặt kinh hoàng của Bland. Cô chỉ chú ý đến cậu ta một thoáng rồi cô lại ôm lấy Geraldine Forbes và bắt đầu kéo lê chị đi.

Một lát sau, cô quay đầu lại. Forbes đang thất thểu ở đằng sau họ mười bước nhưng hắn nghiêng ngả như người say trong gió mạnh ầm ầm.

Một tia chớp nữa rạch đôi bầu trời và mắt Salander liền trợn trừng. Cô thấy người cô liệt cứng lại vì sợ hãi.

Đằng sau Forbes, một trăm mét ở ngoài biển, cô trông thấy ngón tay của Chúa.

Một hình ảnh đông cứng trong ánh sáng chói lóa, một cây cột than đá đang dựng đứng lên rồi tan biến vào không gian.

Matilda.

Không thể như thế.

Bão lớn – đúng.

Vòi rồng thì không.

Grenada không phải vùng của vòi rồng.

Một trận bão phản trắc ở một khu vực không thể xảy ra vòi rồng.

Vòi rồng không thể hình thành ở trên nước.

Chuyện này là phản khoa học.

Chuyện này là một cái gì đó chưa từng có.

Nó đến để lấy ta đi.

Bland cũng trông thấy vòi rồng. Họ hét nhau nhanh chân lên, không nghe nổi được người kia bảo gì mình.

Hơn hai chục mét nữa thì đến dẫy tường. Mười mét. Salander vướng chân, ngã khuỵu xuống. Năm mét. Đến cổng ra vào cô ngoái lại sau vai nhìn. Cô thấy Forbes đúng lúc hắn bị bứng mạnh ra biển tựa như bởi một bàn tay vô hình rồi mất dạng. Cô và Bland khiêng cái gánh nặng của họ qua cổng. Họ loạng choạng ở sân sau, trong cơn bão Salander nghe thấy tiếng các khung cửa sổ bị đập vỡ tứ tung và tiếng rên rỉ cào rạch của các tấm kim loại bị lắc vặn. Một tấm ván bay ngay qua trước mũi cô. Ngay sau đó cô cảm thấy đau như có vật gì rắn đánh vào lưng. Gió đỡ mạnh đi khi họ vào trong gian sảnh.

Salander giữ Bland đừng lại, túm lấy cổ áo cậu, kéo đầu cậu vào miệng mình, hét vào tai cậu:

– Tìm thấy bà ấy ở bãi biển. Không trông thấy ông chồng. Hiểu chứ?

Cậu gật.

Họ đưa Geraldine xuống cầu thang hầm rượu và Salander đá vào cửa. McBain mở ra, trừng trừng nhìn họ. Rồi ông kéo họ vào, đóng cửa lại. Trong một tích tắc, từ tiếng gầm gào không thể chịu đựng nổi, cơn bão tụt xuống thành một tiếng cọt kẹt và giũa mài ở trong hậu cảnh. Salander hít một hơi thở sâu.

Ella rót cà phê vào một cốc to cho Salander. Cô mệt quá đến nỗi không thể giơ tay lên đón lấy. Cô ngồi thượt ra sàn, dựa vào tường. Ai đó đắp chăn lên cô và Bland. Cô ướt đẫm và vết rách dưới đầu gối cô chảy máu dữ. Quần jean của cô có một chỗ bị xé toạc mười phân nhưng cô không nhớ nó đã xảy ra như thế nào. Cô nhìn mụ mị trong khi McBain và hai vị khách trọ săn sóc Geraldine, quấn băng quanh đầu chị. Nghe lõm bõm đây đó, cô hiểu một ai đó trong đám khách là bác sĩ. Cô nhận thấy hầm rượu chật lèn, người ở bên ngoài tìm nơi trú lánh đã đến nhập bọn với khách trọ.

Một lúc sau McBain đến với Salander, ngồi xổm xuống.

– Bà ấy sẽ sống.

Salander không nói năng.

– Xảy ra chuyện gì thế?

– Chúng tôi tìm thấy chị ấy ở ngoài dẫy tường trên bãi biển.

– Khi đếm khách xuống hầm rượu tôi thấy thiếu mất ba người. Cô và hai vợ chồng Forbes. Ella nói ngay khi bão tới cô chạy đi như điên.

– Tôi đi đón anh bạn George của tôi. – Salander gật đầu về Bland. – Anh ấy sống ở dưới đường trong một căn nhà khó lòng đứng vững nổi với bão.

– Như vậy là dũng cảm nhưng mà ngốc nghếch đáng sợ đấy. – McBain nói, liếc về Bland. – Trong hai người có ai trông thấy ông chồng không?

– Không. – Salander nói, mặt bình thường. Bland liếc cô rồi lắc.

Ella ngoẹo đầu nhìn soi vào Salander. Salander nhìn lại, mắt chẳng biểu lộ gì. Geraldine tỉnh lại vào quãng 3 giờ sáng. Lúc đó Salander đã ngủ, đầu gục lên vai Bland.

Nhờ sự lạ kỳ nào đó Grenada sống sót qua đêm bão. McBain cho phép các vị khách rời hầm rượu. Khi bình minh tới, trận bão tan đi thì một trận mưa như thác mà Salander chưa từng thấy đã đến thay thế. Khách sạn Keys cần phải sửa chữa lớn. Khách sạn và dọc bờ biển bị tàn phá nặng. Quán bar của Ella bên bể bơi gần như không còn và một dãy hiên đã bị sập. Cửa sổ trên mặt tiền bị lột đi hết, mái một bộ phận dự án của khách sạn đã gập lại thành hai. Gian sảnh là một đống ngổn ngang gạch vữa. Salander đưa Bland theo, loạng choạng lên phòng cô. Cô treo một tấm chăn lên cửa sổ trống toang trống hoác để ngăn mưa. Bland bắt gặp ánh mắt cô.

– Nói không thấy chồng chị ấy thì ít phải giải thích. – Salander nói, không cho cậu kịp hỏi.

Cậu gật. Cô cởi quần áo, ném xuống sàn rồi vỗ vỗ vào thành giường cạnh cô. Cậu lại gật rồi cởi quần áo trườn vào bên cô. Họ gần như ngủ ngay tức khắc.

Vào cỡ trưa cô tỉnh dậy, mặt trời đang chiếu rọi qua khe nứt giữa các đám mây. Toàn thân cô đau, đầu gối sưng tệ hại đến nỗi cô khó gập lại được. Cô trườn ra khỏi giường đi tắm. Con thằn lằn xanh đã trở lại bức tường. Cô mặc soóc, áo nịt và lảo đảo ra khỏi phòng mà không đánh thức Bland.

Ella vẫn đứng chong chỏng. Nom chị mệt phờ nhưng chị còn có cái quán bar ở gian sảnh tầng trên đang mở. Salander gọi cà phê sandwich. Qua cửa sổ bị thổi bung ở cạnh cửa ra vào, cô nhìn thấy một xe cảnh sát. McBain đi ra khỏi bàn giấy ở cạnh quầy tiếp tân ngoài cùng, một viên cảnh sát theo sau. Nhác thấy cô, McBain nói gì đó với viên cảnh sát rồi hai người đến bàn Salander.

– Đây là cảnh sát trật tự Ferguson. Ông muốn hỏi cô ít câu.

Salander chào lễ độ. Ferguson cũng đã có một đêm dài. Ông lấy sổ tay, bút ra rồi viết tên Salander.

– Thưa cô Salander, tôi biết cô và bạn cô đã phát hiện thấy bà Richard Forbes trong trận bão đêm qua.

Salander gật.

– Hai người tìm thấy ở đâu?

– Ở bãi biển ngay dưới cổng ra vào. – Salander nói. – Chúng tôi suýt nữa vấp phải bà ấy.

Ferguson ghi điều đó.

– Bà ấy có nói gì không?

Salander lắc.

– Bà ấy bất tỉnh chứ?

Salander gật dứt khoát.

– Có một vết thương không hay ở đầu bà ấy.

Salander lại gật.

– Cô không biết bà ấy bị thương vì sao à?

Salander lắc đầu. Ferguson cáu kỉnh làu bàu trước việc cô thiếu câu trả lời.

– Nhiều thứ bay trong không. – Cô nói, vẻ hợp tác. – Tôi suýt thì bị một tấm ván quạng vào đầu.

– Cô bị thương ở chân mà. – Ferguson chỉ vào chỗ băng bó. – Sao bị thế?

– Tôi chả thấy cái gì cho tới khi xuống hầm rượu.

– Cô đang cùng với một thanh niên.

– George Bland.

– Anh ấy sống ở đâu?

– Trong một căn nhà loàng xoàng ở đằng sau Rặng Dừa, trên đường tới sân bay. Nếu căn nhà còn đứng thì là nó đấy.

Salander không nói thêm rằng cậu con trai lúc này đang ngủ trên giường cô ở tầng trên đầu họ.

– Hai người có ai trông thấy ông chồng, Richard Forbes không?

Salander lắc đầu.

Có vẻ Ferguson không nghĩ ra được câu nào nữa để hỏi, ông gấp sổ tay lại.

– Cảm ơn cô Salander. Tôi sẽ phải viết báo cáo về cái chết.

– Bà ấy đã chết?

– Bà Forbes ư? Không, bà ấy đang ở bệnh viện tại St George. Rõ ràng bà ấy phải cảm ơn việc nhờ cô và bạn cô mà bà ấy còn sống. Nhưng chồng bà ấy thì đã chết. Hai giờ trước đấy đã tìm thấy xác ông ấy ở một bãi đỗ xe tại sân bay, sáu trăm mét xa hơn về phía nam. Ông ấy bị quăng quật khá tồi tệ. – Ferguson nói.

– Quá bất hạnh. – Salander nói, không có dấu hiệu nào bị choáng.

Khi McBain và Ferguson đã đi rồi, Ella đến ngồi vào bàn Salander. Chị đặt xuống hai li rượu rum hơi. Salander nhìn chị, ánh mắt khó đoán.

– Sau một đêm như vừa rồi thì cô phải cần một cái gì đó để lấy lại sức. Tôi đang mua. Tôi đang mua toàn bộ bữa điểm tâm.

Hai người phụ nữ nhìn nhau. Rồi họ cụng li nói:

– Chúc sức khỏe.

Rồi một thời gian dài sau, Matilda đã là đối tượng của các nghiên cứu khoa học ở các viện khí tượng trong vùng Caribbean và toàn Hoa Kỳ. Trong vùng này gần như không biết đến vòi rồng nào vào cỡ Matilda. Dần dần các chuyên gia đồng ý với nhau rằng một chùm kết hợp đặc biệt hiếm hoi của các dòng thời tiết đã tạo nên một “vòi rồng giả mạo” – một cái gì đó không là vòi rồng đích thực mà chỉ là nom giống vòi rồng.

Salander không màng đến các tranh cãi lý luận. Cô biết điều cô đã trông thấy và quyết định là trong tương lai phải tránh đi vào con đường của bất cứ hậu duệ nào của Matilda. Nhiều người trên đảo đã bị thương trong đêm ấy. Chỉ một người chết.

Sẽ chẳng có ai biết điều gì đã dụ Richard Forbes đi ra ngoài trời giữa một trận bão lớn, có thể loại bỏ đi sự ngu xuẩn hoàn toàn vốn có vẻ là nét chung của du khách Mỹ. Geraldine không thể cho ra một giải thích nào. Chị bị chấn thương nghiêm trọng và chỉ nhớ lõm bõm về các sự kiện trong đêm bão ấy.

Mặt khác, cũng chẳng ai an ủi nổi được chị về việc bị chồng bỏ ở lại làm quả phụ.

Bình luận