Thứ Năm trước Phục sinh, 24 tháng Ba
Trách nhiệm chỉ đạo cuộc điều tra sơ bộ vụ ám sát dính đôi ở Enskede chính thức rơi vào bàn giấy công tố viên Richard Ekstrom
Ekstrom là một người gầy, năng nổ, cao một mét sáu lăm, bốn mươi hai tuổi, với bộ tóc vàng thưa mỏng và chòm râu dê ở cằm. Ông luôn ăn mặc hoàn hảo và đi giầy gót hơi cao nhỉnh lên. Ông bắt đầu vào nghề bằng làm phó công tố viên ở Uppsala, cho đến khi ông được Bộ Tư pháp tuyển làm điều tra viên, ở Bộ ông đã làm công việc đem luật của Thụy Điển hoà đồng với luật của Liên minh châu Âu và ông đã hoàn thành quá tốt bổn phận nên chỉ sau một thời gian ông đã được đề bạt làm trưởng phòng. Ông thu hút sự chú ý bằng bản báo cáo của ông về những thiếu sót ở mặt tổ chức trong an ninh pháp lý, trong đó ông đã giải quyết được một vụ nhờ tăng hiệu suất công tác chứ không chiếu theo các yêu cầu bổ sung nhân lực của một số người phụ trách cảnh sát. Sau bốn năm ở Bộ Tư pháp, ông được điều đến cơ quan công tố viên ở Stockholm, ở đây ông xử lý một số vụ án liên quan đến các vụ cướp nổi tiếng dữ dằn và các tội phạm bạo hành
Trong cơ quan, ông được coi là một người Xã hội Dân chủ, nhưng thực tế ông không thích thú gì các chuyện chính trị đảng phái. Ngay khi ông bắt đầu gây được chú ý trong truyền thông đại chúng, những vị quyền cao chức trọng đã bắt đầu để mắt tới ông. Rõ ràng ông là một ứng viên cho chức vụ cao hơn và nhờ việc người ta cho rằng ông có liên hệ đảng phái, ông đã có một mạng lưới tiếp xúc rộng rãi trong các nhóm chính trị và cảnh sát. Trong lực lượng cảnh sát, những người bênh vực rằng cách tốt nhất để xúc tiến pháp luật và trật tự là tuyển thêm người đã không ủng hộ các cuộc điều tra của ông. Mặt khác ông trội hơn người ở chỗ không sợ bẩn tay khi đưa một vụ án ra xử.
Nghe viên sĩ quan trực hình sự kể lại ngắn gọn các sự kiện ở Enskede, Ekstrom lập tức kết luận đây là một vụ án nhất định sẽ khuấy động giới truyền thông đại chúng. Hai nạn nhân là một nhà tội phạm học và một nhà báo – người sau làm cái việc mà Ekstrom ghét hay yêu tuỳ ở tình hình.
Ông có một hội đàm ngắn gọn qua điện thoại với trưởng cảnh sát hạt. 7 giờ 15, ông nhấc điện thoại đánh thức thanh tra hình sự Jan Bublanski, được các đồng nghiệp gọi là Sĩ quan Bong bóng. Bublanski được nghỉ trong tuần lễ Phục sinh do ông đã có cả một núi giờ làm thêm cộp lại từ năm ngoái, nhưng ông đã được yêu cầu thôi nghỉ mà chạy ngay lập tức đến trụ sở cảnh sát làm cuộc điều tra về vụ giết hai người ở Enskede.
Bublanski năm mươi hai tuổi và từ năm hai mươi ba tuổi đã ở trong lực lượng. Ông đã qua sáu năm trên xe tuần tra và phục vụ trong hai phòng vũ khí cũng như đột nhập ăn trộm trước khi được huấn luyện bổ túc rồi chuyển đến Phòng tội phạm bạo hành ở cảnh sát Hình sự Hạt. Tổng cộng trong mười năm qua, ông đã tham gia điều tra ba mươi ba vụ án mạng hay giết người. Chịu trách nhiệm mười bảy vụ, trong số đó, ông đã giải quyết mười bốn vụ, còn hai vụ coi như khép lại, điều có nghĩa là cảnh sát biết kẻ giết người là ai nhưng không đủ bằng chứng để đưa hắn ra toà. Trong một vụ tồn đọng, nay đã là sáu năm, Bublanski và các đồng nghiệp đã thất bại. Vụ này dính đến một người nghiện rượu và quậy phá nổi tiếng bị đâm chết tại nhà ông ta ở Bergshama. Hiện trường vụ án là một ác mộng về các dấu tay và vết tích ADN mà qua nhiều năm vài tá người say rượu hay người bị đánh tơi bời đã để lại trong căn nhà. Bublanski và các đồng nghiệp tin chắc rằng có thể tìm ra kẻ giết người ở trong mạng lưới tài giỏi của cảnh sát về các cha say rượu và nghiện ma tuý nhưng mặc dù họ lùng sục sâu rộng đến đâu thì kẻ nào đó kia vẫn cứ lẩn tránh được cảnh sát. Theo tin tức lộ ra thì cuộc điều tra của họ đã bị rút gọn lại vào chỉ có chuyện đâm người mà thôi.
Thống kê của Bublanski lý thú ở mặt số lượng vụ án ông đã giải quyết và ông được các bạn đồng nghiệp đánh giá cao. Nhưng họ cũng coi ông có chút gì kỳ quặc, một phần tại ông là Do Thái. Vào một số ngày lễ lớn nào đó, người ta thấy ông đội một chiếc mũ ôm sát sọ, đi lại trong các hành lang của trụ sở cảnh sát. Việc đó đã thành cơ hội cho một uỷ viên cảnh sát bình phẩm, ông này vừa mới về hưu liền cho ngay ý kiến là ở trong trụ sở cảnh sát, đội cái mũ kiểu ấy nó không hợp, không hợp cũng như một cảnh sát viên đi làm mà lại đội khăn vậy. Về chuyện này về sau không có bàn tán thêm nữa. Một nhà báo nghe thấy lời bình phẩm đã đặt câu hỏi dữ đến mức vị uỷ viên kia vội núp vào trong trụ sở.
Bublanski thuộc vào hội đoàn tôn giáo Soder và ăn rau xanh nếu như thực phẩm ăn kiêng không sẵn. Nhưng ông không chính thống đến nỗi không chịu làm việc trong dịp Sabbath. Bublanski cũng nhận thấy hai vụ giết người ở Enskede sẽ không phải là một cuộc điều tra thường tình. Ngay sau 8 giờ khi ông vừa ló mặt, Ekstrom đã kéo ông ra một chỗ.
– Xem vẻ thì chuyện này tệ hại đây. – Ekstrom nói. – Hai người bị bắn là một nhà báo và bạn gái của anh ta, một nhà tội phạm học. Và chưa hết. Người phát hiện ra họ lại cũng là một nhà báo.
Bublanski gật đầu. Cuối cùng bảo đám là vụ này sẽ được giới truyền thông đại chúng theo dõi sát.
– Và nhón vào vết thương một tí muối nữa đây, nhà báo tìm thấy hai người là Mikael Blomkvistở Millennium.
– Ú. – Bublanski thốt lên.
– Nổi tiếng từ lần om xòm quanh vụ Wennerstrom.
– Chúng ta biết gì về động cơ không?
– Đến nay thì chưa. Chúng tôi cũng không biết các nạn nhân. Có vẻ họ là một đôi làm việc tận tụy. Người phụ nữ sắp nhận bằng tiến sĩ trong vài tuần nữa. Vụ này được coi là ưu tiên hàng đầu.
Bublanski luôn đặt việc giết người vào ưu tiên hàng đầu.
– Chúng ta đang lập một nhóm. Chúng ta phải làm nhanh và tôi bảo đảm là anh sẽ có mọi nguồn tin anh cần. Anh đã có Faste và Andersson. Anh sẽ có Holmberg. Anh ta đang theo vụ án mạng ở Rinkeby nhưng hình như người làm chuyện này đã bỏ ra nước ngoài. Anh có thể theo yêu cầu mon men tới Cảnh sát Hình sự Quốc gia.
– Tôi muốn Sonja Modig.
– Có phải cái người tre trẻ be bé đấy không?
Bublanski nhướng lông mày ngạc nhiên.
– Cô ấy ba mươi chín, cũng chạc anh, ngoài ra, cô ấy sắc sảo có thừa.
– OK, anh muốn nhóm có ai thì anh tự quyết định nhưng hãy làm gấp lên. Sếp đang gõ đấy.
Bublanski coi đây là ngoa ngoắt. Vào giờ này sếp còn đang ăn điểm tâm.
Cuộc điều tra chính thức bắt đầu với một cuộc họp ngay trước 9 giờ, khi thanh tra Bublanski tập hợp quân của ông vào một phòng họp trụ sở cảnh sát hạt. Ông quan sát đội ngũ, gần như không hài lòng với thành phần của nó.
Modig là người ông tín nhiệm nhất. Chị có mười hai năm kinh nghiệm, bốn năm trong đó ở Phòng Tội phạm Bạo hành, tại đấy chị đã dính vào mấy vụ điều tra do Bublanski chỉ huy. Chị đòi hỏi cao và có phương pháp nhưng Bublanski rất sớm đã quan sát thấy ở chị cái nét mà ông coi là có giá trị nhất trong điều tra tinh vi. Chị có óc tưởng tượng và khả năng liên kết sự việc. Trong ít nhất hai vụ án phức tạp, Modig đã phát hiện ra những quan hệ đặc biệt và không thể ngờ mà mọi người khác bỏ qua, và chính những cái đó đã dẫn đến mở được đột phá. Chị cũng có đầu óc hài hước tươi trẻ và Bublanski tán thưởng điểm này.
Ông thích có Jerker Holmberg ở trong nhóm ông. Holmberg năm mươi nhăm, người gốc gác ở Angermanland. Ông là một người chắc nịch, khá chất phác, không có chút óc tưởng tượng nào của Modig nhưng theo con mắt Bublanski, trong toàn bộ lực lượng cảnh sát Thụy Điển ông có lẽ là điều tra viên tốt nhất tại hiện trường gây án. Nhiều năm qua họ đã làm việc cùng nhau trong nhiều cuộc điều tra và Bublanski đinh ninh rằng nếu có một cái gì đáng được tìm thấy ở hiện trường gây án thì rồi cũng lại đến tay Holmberg. Nhiệm vụ trước mắt của ông là chỉ huy công việc ở trong căn hộ tại Enskede.
Curt Andersson ít được biết đến. Anh là một sĩ quan ít nói, thân hình vạm vỡ với một túm tóc vàng ngắn ngủn khiến từ xa nom như hói. Anh ba mươi tám và mới từ Huddinge về phòng này, anh đã ở Huddinge bảy năm xử lý với các tội phạm băng nhóm. Anh nổi tiếng là dễ xung, cứng rắn, điều có lẽ là uyển ngữ cho việc anh có thể dùng các phương pháp không đúng hẳn như sách vở nói. Mười năm trước anh còn bị lên án thô bạo nhưng một cuộc điều tra đã gỡ được cho anh mọi tội nợ.
Tháng Mười 1999, anh đã lái xe cùng một đồng nghiệp lên Alby để bắt một tên ma cà bông về hỏi cung. Người này đã nhẵn mặt với cảnh sát, trong vài năm đúng là hắn đã khủng bố hàng xóm láng giềng trong toà chung cư. Bây giờ sau một lời mách lẻo, hắn sắp bị giữ để chất vấn liên quan đến vụ trấn lột một cửa hàng video ở Norsborg. Khi Andersson và người đồng nghiệp chẹn hắn lại, tên ma cà bông đã rút dao ra thay vì yên ắng đi theo. Viên sĩ quan kia bị mấy vết thương ở bàn tay rồi ngón tay cái trái của ông bị phạt đứt trước khi tên lưu manh để ý đến Andersson, người mà lần đầu tiên trong nghề buộc phải rút súng công vụ ra. Anh bắn ba phát. Phát đầu để cảnh cáo, phát thứ hai nhằm thật vào người kia nhưng trượt không dễ vì khoảng cách chưa đến ba mét – và phát thứ ba trúng vào đúng giữa ngực hắn, làm vỡ động mạch chủ. Người này xuất huyết và chết trong dăm bảy phút. Cuộc điều tra tất phải có cuối cùng đã gỡ được cho Andersson mọi lỗi lầm nhưng không phải không mang lại cho anh tiếng tăm về cái sự cứng rắn quá đáng.
Thoạt đầu Bublanski cũng có nghi Andersson nhưng sau sáu tháng, ông không gặp điều gì khiến cho ông phải chỉ trích hay nguyền rủa. Trái lại, Bublanski bắt đầu có một sự kính trọng nhất định với cốt cách điềm đạm của Andersson.
Thành viên cuối cùng của nhóm, Hans Faste, bốn mươi bảy tuổi, mười lăm năm thâm niên trong các tội phạm bạo hành và là lý do chính làm cho Bublanski không được thoả mãn hoàn toàn với nhóm công tác. Faste có một mặt cộng và cũng có một mặt trừ. Mặt cộng là ông có nhiều kinh nghiệm – kể cả ở điều tra phức tạp nữa. Mặt trừ là con người này tự tôn duy ngã và có tính châm biếm ác độc đụng vào thần kinh của bất cứ người bình thường nào, tật này đã làm cho Bublanski phải thật tình khó chịu. Faste có hai ba nét mà Bublanski đơn giản không thể tha thứ, nhưng khi được canh chừng ngặt thì ông ta là một thám tử giỏi. Ngoài ra, ông đã trở thành một kiểu sư phụ mách nước cho Andersson, người xem vẻ như không phản đối các cung cách om sòm của ông ta. Họ thường hay làm việc cùng với nhau.
Thanh tra Nyberg của phòng tội phạm hình sự đã được mời đến dự họp để thuật lại với họ chuyện chị phỏng vấn nhà báo Blomkvist hồi đêm. Chánh thanh tra bậc trên Martensson cũng có mặt để báo cáo về những gì đã xảy ra ở hiện trường gây án. Cả hai đều mệt và đều bồn chồn muốn về nhà ngủ nhưng Nyberg còn có thể mang ra các tấm ảnh về toà cao ốc, truyền chúng cho từng người ở trong nhóm xem.
Nửa giờ sau, họ đã có một khúc các sự kiện rõ ràng. Bublanski nói:
– Hãy ghi nhớ trong đầu là giám định pháp y của vụ án mạng vẫn đang tiến hành… Một người không được biết đã vào căn hộ ở Enskede mà không có một hàng xóm hay chứng nhân nào để ý thấy rồi giết cặp nam nữ Dag Svensson và Mia Johansson.
– Chúng ta cũng chưa biết. – Nyberg nói. – Liệu khẩu súng tìm thấy có phải là khẩu súng gây án không, nhưng nó hiện đang ở phòng Khám nghiệm Pháp y Quốc gia và nó là ưu tiên hàng đầu ở đó. Chúng ta đã tìm được một mảnh đạn viên đạn xuyên vào người Svensson còn tương đối nguyên vẹn ở trên tường phòng ngủ. Nhưng viên đạn quật ngã Johansson thì bị vỡ vụn đến mức tôi không hy vọng nó sẽ giúp được nhiều nhặn gì.
– Cảm ơn về thông tin này. Colt Magnum là một kiểu súng của cao bồi đã bị chính thức cấm dứt khoát. Chúng ta có lấy được con số xêri của súng không?
– Chưa, – Martensson nói. – Tôi đã gửi khẩu súng và mảnh đạn đến phòng Khám nghiệm Pháp y Quốc gia qua nhân viên trực tiếp từ hiện trường gây án đưa đi. Chuyện đó họ trông nom thì tốt hơn tôi tự làm lấy bất cứ phân tích nào.
– Thế tốt. Tôi chưa có thì giờ đến hiện trường gây án nhưng các anh chị hai người đã ở đó. Các anh chị nghĩ sao?
Nyberg nhường cho bạn đồng nghiệp nhiều tuổi hơn nói thay.
– Trước hết, chúng tôi nghĩ người bắn đến có một mình. Thứ hai, trước sau đây chỉ là một vụ hành quyết. Tôi có cảm tưởng người nào đó giết Svensson và Johansson là phải có lý do rất đích đáng và hắn đã làm chính xác hành động giết đó.
– Nói thế là anh căn cứ vào cái gì?
– Căn hộ ở gần và chật. Không có dấu vết trấn lột hay hành hung nào đại loại ở đó. Và chỉ nổ hai phát súng. Cả hai đều trúng mục tiêu đã định sẵn ở đầu. Vậy đây là một người biết cách cầm súng.
– Cho tôi rõ ra đi.
– Nếu chúng ta nhìn vào sơ đồ phác thảo của căn hộ… cái bản mà chúng ta có thể căn cứ vào đó mà xây lại ấy, thì chúng tôi đoán người giết là đàn ông, Svensson đã bị bắn gần – có thể là ngay sát sạt. Có những vết cháy ở chỗ đạn đi vào đầu. Chúng tôi đoán anh ấy bị bắn trước. Svensson đã ngã đè lên bàn ăn. Người bắn có thể đã đứng trong gian sảnh hay ở ngay lối cửa vào phòng khách.
– Theo các nhân chứng, những người sống ở cùng tầng gác, thì hai phát súng bắn cách nhau một vài tích tắc. Mia Johansson bị bắn ở khoảng cách xa hơn. Chắc chị ấy đang đứng ở cửa vào phòng ngủ và toan bỏ chạy. Viên đạn trúng vào dưới tai trái chị ấy và ra ở ngay bên trên mắt phải. Sức va đập hất chị ấy lên giường, ở chỗ chị ấy được tìm thấy. Chị ấy va phải chân giường rồi tụt xuống sàn.
– Một người đã quen dùng súng nên chỉ một phát. – Faste nói.
– Hơn thế nữa: không có vết chân trong phòng ngủ, tức là tên giết người đã không vào xem chị ấy chết hay chưa. Hắn biết hắn bắn trúng và rời luôn khỏi căn hộ. Vậy là hai phát súng, hai cái xác rồi ra. Chúng ta phải chờ pháp y nhưng tôi đoán là tên giết người dùng đạn săn. Chết tức thì. Vết thương ở cả hai đều rất to.
Cả nhóm im lặng suy nghĩ về tình hình tóm tắt này. Đây là một ý kiến mà chả ai trong họ cần phải mách bảo. Có hai loại đạn: đạn cứng, bọc thép hoàn toàn xuyên thẳng qua người, gây ra tổn hại tương đối nhỏ, và đạn mềm khi đập vào thân người thì vỡ toang ra, gây nên tổn hại lớn. Có một khác biệt lớn giữa việc bắn trúng một người bằng một viên đạn với đường kính chín li và một viên đạn toè nở ra trong một đường kính hai ba phân hay hơn nữa. Loại đạn sau gọi là đạn săn, mục đích của nó là làm cho chảy nhiều máu. Khi săn nai sừng tấm thì nó được coi là nhân đạo hơn do chỗ mục đích là hạ con mồi càng nhanh, càng ít đau càng tốt. Nhưng luật quốc tế cấm dùng đạn săn trong chiến tranh vì người lính bị trúng đạn này thì gần như cầm bằng chết, bất kể viên đạn vào đâu trên người.
Theo tính toán của mình, hai năm trước, cảnh sát Thụy Điển đã đưa vào kho vũ khí của cảnh sát loại đạn săn rỗng mình. Chưa rõ chính xác vì sao lại thế. Nhưng khá rõ ràng là nếu người biểu tình Hannes Westberg bị bắn vào bụng trong lần bạo động chống Tổ chức Thương Mại Thế giới WTO tại Goteborg năm 2001 mà bị bắn bằng đạn săn chẳng hạn thì ông ta sẽ không sống sót.
– Vậy rành rành mục đích là để giết. – Andersson nói.
Anh đang nói đến hai vụ án mạng ở Enskede nhưng cũng là lên tiếng góp ý kiến vào cuộc thảo luận đang diễn ra ở quanh bàn.
Nyberg và Martensson tán thành.
– Vậy chúng ta có cái khung thời gian chưa chắc đã là đúng này đây. – Bublanski nói.
– Đúng thế. Ngay sau khi nổ súng, tên giết người lập tức rời căn hộ, xuống cầu thang, vất khẩu súng rồi biến vào trong đêm. Một ít sau đó – có thể chỉ là chuyện giây lát – Blomkvist và cô em lái xe đến và đỗ ở bên ngoài. Có khả năng tên giết người rời đi qua lối tầng hầm. Có một cái cửa bên mở ra sân sau và qua một thảm cỏ ra đường phố chạy song song ở bên. Nhưng hung thủ phải có chìa khoá cửa tầng hầm.
– Có dấu hiệu nào về tên giết người rời đi bằng lối ấy không?
– Không.
– Vậy thì thôi mô tả đi. – Modig nói. – Nhưng sao hắn lại để rớt khẩu súng? Nếu hắn mang theo – hay ra xa nhà một ít mới ném đi – thì chúng ta sẽ phải mất thì giờ tìm.
Đây là một câu hỏi không ai trả lời được.
– Chúng ta nên nghĩ thế nào về Blomkvist? – Faste nói.
– Anh ta bị choáng là tất nhiên. – Martensson nói. – Nhưng anh ta hành động nhạy bén. Anh ta xem vẻ tỉnh táo và tôi nghĩ anh ta là đáng tin. Em gái anh ta, một luật sư, xác nhận cuộc gọi điện thoại và lái xe đến đấy. Tôi nghĩ anh ta không liên quan.
– Anh ấy là một tên tuổi trong làng báo. – Modig nói.
– Vậy chuyện này sẽ thành món om sòm của truyền thông đại chúng đây. – Bublanski nói. – Chúng ta càng có lý do gói chuyện này lại càng nhanh càng tốt. OK… Jerker, anh sẽ làm việc ở hiện trường gây án dĩ nhiên, cả với hàng xóm. Faste, anh và Curt điều tra các nạn nhân. Họ là ai, họ đang làm gì, ai ở trong số bạn bè của họ, ai có thể có động cơ giết họ? Sonja, cô và tôi sẽ đọc hết lời khai của các nhân chứng từ đêm hôm ấy. Rồi cô sẽ dựng lên lịch công việc mà Svensson và Johansson đang làm suốt cái ngày hôm trước hôm họ bị giết. Chiều nay 2 rưỡi chúng ta gặp nhau ở đây.
Blomkvist bắt đầu ngày làm việc ở bàn giấy của Svensson. Anh ngồi lặng một lúc lâu, tựa như không có hứng làm việc.
Svensson có máy tính xách tay và lúc đầu anh làm việc phần lớn ở nhà. Anh quen bỏ ra một tuần hai ngày ở toà soạn, các tuần gần đây thì nhiều hơn. Ở toà báo anh được dùng một PowerMac G3 cũ, một máy tính để trên bàn làm việc của anh mà bất cứ ai trong toà soạn cũng đều dùng được. Blomkvist mở nó và tìm thấy nhiều tài liệu Svensson đang làm. Đầu tiên anh dùng nó để tìm Net nhưng cũng có những thư mục anh đã sao từ máy tính nhỏ của anh sang. Anh cũng có một bản sao dự trữ đầy đủ trên hai đĩa mà anh cất trong ngăn kéo có khoá. Thường thường ngày nào anh cũng sao lưu tư liệu mới và được cập nhật nhưng ít ngày gần đây anh không ở toà soạn nên bản sao mới nhất là từ đêm Chủ nhật. Bỏ mất ba ngày.
Blomkvist sao ổ đĩa Zip rồi cất vào trong két an toàn ở toà soạn. Rồi anh bỏ ra bốn mươi lăm phút đọc hết nội dung của đĩa gốc. Nó gồm khoảng ba mươi thư mục còn thư mục con thì không đếm xuể. Bốn năm tìm hiểu của Svensson về buôn bán phụ nữ. Anh đọc tên các tài liệu và tìm những cái có thể có những dữ liệu nhạy cảm nhất – tên các nguồn tin mà Svensson đang bảo vệ. Rõ ràng anh ấy đã rất cẩn thận với các nguồn của mình – tất cả các tư liệu này đều nằm trong một thư mục mang tên . Thư mục chứa 134 tài liệu, phần lớn khá là nhỏ. Blomkvist tô đen tất cả các tài liệu rồi xoá chúng. Anh kéo chúng vào biểu tượng của chương trình Burn, điều không chỉ đơn giản xoá bỏ dữ liệu mà còn dập nát từng byte từng byte một.
Rồi Blomkvist truy cập thư điện tử của Svensson. Anh ta đã cho tạp chí địa chỉ thư điện tử của anh ta, địa chỉ này dùng cả ở cơ quan lẫn ở máy tính nhỏ của anh ta ở nhà. Anh ta có mật khẩu riêng nhưng không thành vấn đề vì với quyền của người quản trị mạng, Blomkvist vào được toàn thể máy chủ của thư điện tử. Anh tải xuống một bản sao thư điện tử của Svensson và chuyển nó sang đĩa CD.
Cuối cùng anh chất lên thành cả một núi giấy làm bằng các thứ tài liệu tham khảo, ghi chép, cắt dán báo chí, biên bản xét xử của toà án, và mọi thư tín mà Svensson đã tích lại. Anh chơi chắc ăn, sao lại tất cả những gì nom quan trọng. Lên tới 2.000 trang và lấy mất của anh ba giờ đồng hồ.
Anh để sang một bên tất cả các tài liệu có thể bằng một cách nào đó gắn tới một nguồn tin cậy. Đó là một đống khoảng bốn chục trang, chủ yếu là những ghi chép từ hai tập giấy A4 mà Svensson khoá lại ở trong bàn làm việc của mình. Blomkvist để những tài liệu này vào trong một phong bì rồi mang đến buồng giấy của anh. Rồi anh mang tất cả các tài liệu khác vốn là một phần trong dự án của Svensson đến bàn làm việc của anh.
Xong xuôi anh thở một hơi dài rồi đi xuống cửa hàng 7 – Eleven mua tách cà phê và một miếng pizza. Anh đã lầm cho rằng cảnh sát sẽ đến bất chợt lúc nào để lục soát bàn làm việc của Svensson.
Ngay sau 10 giờ sáng, Bublanski đã có một đột phá bất ngờ trong điều tra khi Lennart Granlund ở Phòng Khám nghiệm Pháp y Quốc gia ở Linkoping gọi ông.
– Đây là về vụ giết hai người ở Enskede.
– Sớm thế ư?
– Chúng tôi nhận được vũ khí sáng nay và tôi chưa phân tích xong hẳn nhưng tôi có vài thông tin có thể làm anh thú vị.
– Tốt. Nói xem các anh đã mò ra đến đâu rồi.
– Khẩu súng là một Colt.45 Magnum, được sản xuất ở Hoa Kỳ năm 1981. Chúng tôi có vân tay và có thể cả ADN – nhưng phân tích này sẽ mất một ít thời gian. Chúng tôi cũng xem đến các viên đạn bắn vào hai người kia. Không lạ là chúng đều do cùng một khẩu súng bắn ra. Chuyện thường là thế khi chúng tôi tìm thấy một khẩu súng ở lòng giếng cầu thang tại hiện trường gây án. Các viên đạn bị vỡ ra tệ hại nhưng chúng tôi có một mẩu để đem ra so sánh được. Xem ra nhiều phần đây là vũ khí đã giết hai người kia.
– Một vũ khí bất hợp pháp, tôi cho là vậy. Anh có số xêri của súng không?
– Khẩu súng hoàn toàn hợp pháp. Nó thuộc về một luật sư, Nils Bjurman và mua năm 1983. Ông ta là thành viên câu lạc bộ bắn súng của cảnh sát. Ông ta sống ở đường Upplandsgatan gần Odenplan.
– Anh đang nói chuyện trời biển gì thế?
– Chúng tôi cũng tìm thấy, như tôi đã nhắc tới, một số dấu vết in trên khẩu súng. Dấu vết của ít nhất hai người khác nhau. Chúng tôi có thể chờ đợi kết quả nói rằng dấu vết của một bên là thuộc về Bjurman, khi mà cho đến nay khẩu súng vẫn chưa được báo cáo là bị ăn cắp hay bán đi – nhưng chúng tôi chưa có thông tin về chỗ này.
– A ha, nói cách khác là chúng ta đã có một đầu mối.
– Về dấu vết của bên thứ hai, chúng tôi đã tìm trúng ra nó ở trong sổ đăng ký. Dấu của ngón tay cái và ngón tay trỏ bên phải.
– Của ai?
– Một phụ nữ sinh ngày 30 tháng Tư năm 1978. Bị bắt vì đánh người ở Gamla Stan năm 1995, khi ấy đã lấy vân tay.
– Có tên không?
– Có. Tên cô ta là Lisbeth Salander.
Bublanski viết tên này lại cùng với một số bảo hiểm xã hội mà Granlund cho ông.
Khi Blomkvist quay lại với công việc sau bữa ăn trưa muộn mằn, anh đi thẳng vào buồng giấy của mình, đóng cửa lại, tỏ cho thấy rõ là anh không muốn bị quấy rầy. Anh không có thì giờ xử lý mọi thông tin ngoại vi trong các ghi chép và thư điện tử của Svensson. Anh cần ngồi xuống đọc kỹ hết quyển sách và các bài báo với con mắt hoàn toàn mới, cần ghi nhớ trong đầu rằng nay tác giả đã chết, không còn có thể trả lời cho bất cứ câu hỏi gay go nào mà anh có thể cần đặt ra. Anh cần quyết định xem liệu vẫn có xuất bản quyển sách không. Và anh phải cả quyết xem trong các tài liệu có một cái gì đó có thể gợi đến một động cơ giết người không. Anh mở máy tính và bắt tay vào việc.
Bublanski gọi Ekstrom, ngắn gọn bảo ông những gì đã tiến triển ở Phòng Khám nghiệm Pháp y Quốc gia. Đã quyết định là Bublanski và Modig sẽ gọi cho Luật sư Bjurman. Gọi là để có thể chuyện trò hay thẩm vấn hay thậm chí cả bắt giữ nữa, Faste và Andersson sẽ dò tìm tung tích Lisbeth Salander và yêu cầu cô giải thích tại sao lại có vân tay cô ở khẩu súng gây án.
Lúc đầu việc tìm Bjurman không khó. Địa chỉ của ông ta có ghi trong danh sách thuế, sổ đăng ký vũ khí và kho dữ liệu cấp giấy phép sử dụng xe; có cả ở trong danh bạ điện thoại. Bublanski và Modig lái xe đến Oderplan, toan đi vào tòa cao ốc trên đường Upplandsgatan thì một thanh niên ở trong ra đúng lúc họ đi tới. Họ bấm chuông cửa nhà Bjurman nhưng không ai trả lời. Họ lái xe đến cơ quan ông ở St Eriksplan nhưng cũng không kết quả nốt.
– Có thể ông ta ở tòa án. – Modig nói.
– Có thể đã leo máy bay sang Brazil sau khi bắn hai người ở Enskede. – Bublanski nói.
Modig liếc bạn đồng nghiệp. Cô thích ở bên ông. Chẳng phải cô có điều gì để chống lại việc tán tỉnh ông nhưng vướng nỗi cô lại là mẹ của hai đứa con và hôn nhân của cả cô lẫn Bublanski đều hạnh phúc. Trên biển đề tên bằng đồng ở tầng gác của Bjurman, họ nhận thấy các hàng xóm gần nhất của ông là một nha sĩ, bác sĩ Norman, một công ty tên là N – một công ty tên là N – Tham vấn và Rune Hakansson, một luật sư.
Họ bắt đầu với Hakansson.
– Chào ông, tên tôi là Modig và đây là thanh tra Bublanski. Chúng tôi là cảnh sát và có công chuyện với Nils Erik Bjurman, bạn đồng nghiệp của ông ở cạnh đấy. Ông có biết có thể tìm thấy ông ấy ở đâu không?
Hakansson lắc đầu.
– Gần đây tôi không hay trông thấy ông ấy nhiều. Hai năm trước ông ấy ốm nặng, ít nhiều đã thôi hành nghề. Cứ khoảng chừng hai tháng thì tôi thấy ông ấy một lần.
– Ốm nặng? – Bublanski nói.
– Cái này tôi không chắc. Ông ấy luôn làm việc quên mình thế rồi đổ bệnh, ung thư, tôi đồ chừng là vậy. Tôi ít biết ông ấy.
– Ông nghĩ thôi hay là biết ông ấy bị ung thư? – Modig nói.
– À… Không, tôi không được chắc. Ông ấy có một thư ký, Britt Karlsson, hay Nilsson, đại khái gì đó như vậy. Một phụ nữ già hơn. Ông ấy để bà ấy đi và bà ấy bảo tôi là ông ấy ốm. Đó là hồi mùa xuân 2003. Tôi không trông thấy ông ấy cho mãi đến tháng Mười hai năm ấy. Nom ông ấy già đi đến mười tuổi, hốc hác, tóc hoa râm. Cái này là tự tôi kết luận.
Họ trở lại căn hộ. Vẫn không trả lời. Bublanski lấy di động ra bấm số di động của Bjurman. Ông được lời nhắn: Lúc này không liên hệ được với thuê bao mà bạn gọi. Xin thử gọi lại. Ông thử số máy nhà. Ở lối cửa họ nghe thấy bên kia cửa tiếng chuông réo âm âm rồi máy trả lời cạch một cái và yêu cầu người gọi để lại lời nhắn.
Là 1 giờ chiều.
– Cà phê chứ?
– Tôi cần một burger.
Ở nhà hàng Burger King trên đường Odenplan, Modig có một bánh Whopper còn Bublanski thì một burger rau.
Công tố viên Ekstrom triệu tập họp lúc 2 giờ tại bàn họp trong buồng giấy của ông. Bublanski và Modig ngồi bên nhau ở cạnh tường gần cửa sổ. Andersson đến muộn hai phút, ngồi đối diện với họ. Holmberg vào với một khay cà phê đựng trong các cốc giấy. Ông vừa tạt qua thăm Enskede và có ý quay về muộn vào hồi chiều khi đã làm xong các công việc kỹ thuật.
– Faste đâu? – Ekstrom hỏi.
– Anh ấy đang làm việc với công ty phúc lợi xã hội, năm phút trước anh ấy mới gọi bảo anh ấy bị muộn chút chút. – Svensson nói.
– Thế nào thì cũng cứ bắt đầu đi. Chúng ta đã có được gì? – Ekstrom mở đầu chẳng khách sáo. Ông chỉ vào Bublanski trước.
– Chúng tôi tìm Bjurman, người có đăng ký sở hữu cái chắc là vũ khí gây án. Ông ta không ở nhà cũng không ở cơ quan. Theo một luật sư khác cũng ở trong tòa nhà ấy thì hai năm trước ông ta bị bệnh, ít nhiều đã thôi hành nghề.
Modig nói:
– Bjurman năm mươi sáu tuổi, không có tên trong sổ đăng ký tiền án. Ông ta chủ yếu là luật sư về kinh doanh. Tôi chưa có thì giờ tìm hiểu lai lịch ông ấy sâu hơn.
– Nhưng ông ta lại sở hữu khẩu súng dùng ở Enskede.
– Đúng. Ông ta có giấy phép và ông ta là thành viên câu lạc bộ bắn súng của cảnh sát. – Bublanski nói. – Tôi đã nói chuyện về vũ khí với Gunnarsson – ông ta là chủ tịch câu lạc bộ và biết rõ Bjurman. Bjurman tham gia năm 1978 và từ 1984 đến 1992 thì làm thủ quỹ. Gunnarson tả Bjurman là một tay bắn súng ngắn xuất sắc, bình tĩnh, tập trung và không có chất gì khác lạ.
– Một dân nghiền súng à?
– Gunnarsson nghĩ Bjurman thích sinh hoạt câu lạc bộ hơn là bắn súng. Ông ta thích ganh đua nhưng ông ta không nổi bật, ít ra thì cũng không phải là một tay cuồng súng. Năm 1983 ông ta tham gia giải vô địch Thụy Điển, xếp thứ mười ba. Mười năm qua ông ta ít bắn hơn và chỉ quay lại câu lạc bộ vì các cuộc họp thường niên đại loại.
– Ông ta còn sở hữu vũ khí gì khác không?
– Từ ngày tham gia câu lạc bộ bắn súng, ông ta có giấy phép cho bốn súng ngắn. Cộng với khẩu Colt, ông ta có một Bereta, một Smith & Wesson và một khẩu để bắn thi của Rapid chế tạo. Ba khẩu này mười năm trước đã bán lại trong câu lạc bộ, giấy phép đã chuyển cho các thành viên khác.
– Thế chúng ta không biết ông ta ở đâu.
– Đúng thế. Nhưng chúng ta mới chỉ tìm ông ta từ 10 giờ sáng hôm nay thôi. Mà ông ta thì có thể đi dạo ở công viên Djurgarden hay quay lại bệnh viện.
Vừa lúc ấy, Faste ập vào. Ông như đứt hết hơi.
– Xin lỗi, tôi muộn. Tôi có thể nhảy ngay vào được không?
Ekstrom ra hiệu “thì cứ làm đi”.
– Lisbeth Salander là một tính cách rất lý thú. Cả sáng nay tôi đã ở Sở Phúc lợi xã hội và Sở Giám hộ. Ông cởi jacket ra treo lên lưng ghế mình rồi ngồi xuống giở một quyển sổ tay.
– Sở Giám hộ hả? – Ekstrom nói, cau mặt.
– Đây là một phụ nữ rất quậy. – Faste nói. – Cô ta bị tuyên bố bất lực không tự cai quản được bản thân do đó bị đặt trong chế độ giám hộ. Đoán xem ai là người bảo hộ cô ấy. – Ông ngừng lại cho lời mình có thêm tác động. – Nils Bjurman, người sở hữu khẩu súng đã được dùng ở Enskede.
Tuyên bố này chắc chắn là có tác động như Faste lường trước, ông bỏ hơn mười lăm phút nói vắn gọn cho cả nhóm nghe những điều ông biết về Salander.
– Tóm lại. – Ekstrom nói khi Faste trình bày xong. – Trên cái vũ khí chắc là đã gây án kia, chúng ta có dấu vân tay của một phụ nữ mà vào tuổi mười mấy đã ra ra vào vào các cơ sở tâm thần, người được biết là gái điếm, người bị tòa án quận tuyên bố không tự cai quản được bản thân, người được liệt vào hồ sơ lý lịch là có những xu hướng bạo lực. Chúng tôi đang thắc mắc cô ta làm cái quỷ gì trên các đường phố như thế chứ.
– Cô ấy có xu hướng bạo lực từ khi học tiểu học cơ. – Faste nói. – Cô ấy có vẻ bị tâm thần thật.
– Nhưng cho đến nay chúng ta chưa thấy cô ấy có mối liên hệ nào với hai người bị giết ở Enskede kia. – Ekstrom gõ đầu ngón tay xuống mặt bàn. – Dẫu sao giải quyết vụ án mạng kép này có thể cũng không phải là khó lắm. Chúng ta có một địa chỉ nào của Salander không?
– Ở đường Lundagatan tại Sodermalm. Sở thuế cho hay cô ấy có thu nhập đều kỳ ở An ninh Milton.
– Thế nhân danh Chúa nào mà cô ấy lại làm việc ở đấy thế?
– Tôi không biết. Trong nhiều năm thu nhập này vẫn cứ nhỏ thế.
– Có thể cô ấy làm nhân viên tạp vụ quét dọn hay gì đó.
– Hừm. – Ekstrom nói. Chúng ta phải kiểm tra ra chỗ này. Ngay bây giờ chúng ta phải tìm cô ấy.
– Chúng ta phải mò dần ra chi tiết. – Bublanski nói. – Nhưng hiện chúng ta đang có một nghi can. Hans, anh và Curt xuống Lundagatan bắt thóp Salander. Hãy cẩn thận – chúng ta không biết cô ấy có còn vũ khí gì nữa không đây, và chúng ta thực sự không biết cô ấy nguy hiểm như thế nào.
– OK.
– Bong bóng. – Ekstrom nói. – Sếp của An ninh Milton là Dragan, trong một vụ án ít năm trước đây tôi đã gặp ông ấy. Hãy đến nói chuyện kín đáo với ông ấy về Lisbeth Salander. Anh gặp ông ấy trước khi xong công việc hôm nay thì tốt hơn.
Bublanski ngán ngẩm ra mặt, một phần vì Ekstrom lôi tên “húy” của ông ra, một phần vì đã diễn đạt yêu cầu của mình như một mệnh lệnh.
– Modig, ông nói, cứ tìm Bjurman nha. Gõ cửa tất cả các nhà hàng xóm. Tôi nghĩ tìm ông này cũng là quan trọng.
– OK.
– Chúng ta phải tìm ra mối liên quan giữa Salander và cặp nam nữ kia. Và chúng ta phải biết khi xảy ra vụ án mạng thì cô ta đang ở đâu tại Enskede. Jerker, kiếm lấy vài bức ảnh của cô ấy và kiểm tra mọi người đang sống ở chung cư ấy. Lấy vài cảnh sát đồng phục giúp anh.
Bublanski ngừng lại gãi gãi gáy.
– Chết thật, chỉ cần một tí teo may mắn thôi là đêm nay chúng ta gói lại xong vụ rắc rối này – tôi nghĩ vụ này sẽ là một vụ dài, kéo lê thê đây.
– Một việc nữa. – Ekstrom nói. – Báo đài họ đang ép chúng ta. Tôi đã hứa với họ họp báo lúc 3 giờ chiều nay. Tôi có thể xoay xở tại cuộc họp miễn là có một ai đó ở tòa báo giúp tôi. Tôi đoán một số nhà báo cũng sẽ gọi trực tiếp cho anh. Chúng ta sẽ không nói gì hết về Salander và Bjurman chừng nào còn phải giấu.
Armansky đã tính về nhà sớm. Là thứ Năm trước Phục sinh, vợ chồng ông đã định đến căn nhà nhỏ mùa hè ở Blido qua cuối tuần và lễ Phục sinh. Ông đã đóng cặp xách lại và mặc áo ngoài vào thì máy ở tiếp tân ri ri kêu và nói có thanh tra hình sự Jan Bublanski tìm ông.
Armansky không biết Bublanski nhưng việc một sĩ quan cảnh sát cao cấp đến cơ quan cũng đủ khiến cho ông treo áo lên cây mắc mũ áo. Ông không thích gặp bất cứ ai hết nhưng An ninh Milton không thể cho phép lờ cảnh sát. Ông gặp Bublanski ở gần thang máy trong hành lang.
– Cảm ơn đã bỏ thì giờ ra gặp tôi. – Bublanski nói. – Sếp tôi – công tố viên Ekstrom – xin gửi lời chào ông.
Họ bắt tay nhau.
– Ekstrom à, tôi đã làm việc với ông ấy trong một vài lần. Ông có muốn dùng cà phê?
Armansky dừng lại ở chỗ máy cà phê, bấm nút lấy hai tách rồi mời Bublanski vào buồng giấy, dành cho chiếc ghế dễ chịu nhất ở bên cửa sổ.
– Armansky… ông là người Nga? – Bublanski nói. – Tên tôi cũng là “ski” tận cùng.
– Họ của tôi đến từ Armenia. Còn họ của ông?
– Ba Lan.
– Tôi giúp gì được ông đây?
Bublanski lấy sổ tay ra.
– Tôi đang điều tra vụ giết hai người ở Enskede. Tôi cho là ông đã nghe tin hôm nay.
Armansky khẽ gật một cái.
– Ekstrom nói ông kín đáo.
– Ở địa vị của tôi, cộng tác với cảnh sát thì có lợi. Tôi có thể giữ được bí mật, nếu đó là điều ông nghĩ.
– Tốt. Chúng tôi đang tìm một người đã làm cho công ty của ông một dạo. Lisbeth Salander. Ông biết cô ấy?
Armansky cảm thấy một tảng xi măng đang hình thành ở trong bụng mình, vẻ mặt ông không thay đổi.
– Sao ông lại tìm cô Salander?
– Chúng ta hãy nói chúng tôi có lý do để coi cô ấy là một người cần quan tâm trong cuộc điều tra.
Tảng xi măng trong bụng Armansky nở to ra. Nó gần như làm cho ông thấy đau đớn. Từ ngày đầu gặp Salander ông đã có một linh cảm mạnh mẽ rằng đời cô đang ở trên một quỹ đạo hướng tới tai họa. Nhưng ông luôn hình dung cô là nạn nhân chứ không phải kẻ xâm phạm. Ông vẫn không lộ ra cho thấy cảm xúc nào.
– Vậy là ông nghi Lisbeth Salander về vụ giết hai người ở Enskede. Tôi hiểu như thế có được đúng không?
Ngập ngừng một chút rồi Bublanski gật.
– Ông có thể nói gì về cô ta với tôi không?
– Ông muốn biết điều gì?
– Trước hết, làm sao tìm được ra cô ta.
– Cô ấy sống ở Lundagatan. Tôi sẽ nhòm xem địa chỉ chính xác. Tôi có số máy di động của cô ấy.
– Địa chỉ thì chúng tôi có biết. Số máy di động sẽ được việc hơn.
Armansky ra bàn làm việc, đọc con số lên và Bublanski ghi lại.
– Cô ấy làm việc cho ông?
– Cô ấy có công việc của cô ấy. Từ 1998 đến khoảng một năm rưỡỉ trước đây, thỉnh thoảng tôi giao cho cô ấy những việc tự do.
– Cô ấy đã làm những việc gì?
– Nghiên cứu điều tra.
Bublanski ngước mắt lên khỏi sổ tay.
– Nghiên cứu điều tra? – Ông nói.
– Nói chính xác hơn là những điều tra về cá nhân.
– Xin dừng lại một tí… chúng ta vẫn đang nói đến cô gái ấy đấy chứ? Con người Lisbeth Salander mà chúng tôi đang tìm đây chưa học hết phổ thông và bị tuyên bố chính thức là không có khả năng, bất lực trong việc tự trông nom lấy bản thân.
– Từ nay trở đi họ không nói “không có khả năng” nữa. – Armansky nói bình thản.
– Tôi chả cần quái gì từ đấy đến nay họ nói thế nào. Cô gái mà chúng tôi tìm đây có một biên bản ghi nhận rằng cô ấy là một cá nhân rất phá quấy và thiên về bạo hành. Trong hồ sơ của Sở Phúc lợi xã hội về cô ấy có nói hồi cuối những năm 90 cô ấy là gái điếm. Trong các biên bản về cô ấy không có bất cứ cái gì cho thấy cô ấy có thể làm nổi công việc văn phòng.
– Hồ sơ là một đằng. Con người ta là một cái khác.
– Ông muốn nói là cô ấy có tư cách làm các việc điều tra cá nhân cho An ninh Milton?
– Không chỉ thế. Cô ấy là điều tra viên giỏi nhất, hơn xa mọi điều tra viên mà tôi từng có.
Bublanski đặt bút xuống cau mày.
– Nghe như ông… coi trọng cô ấy.
Armansky nhìn tay mình. Câu hỏi đánh dấu một ngã ba ở trên đường. Ông luôn luôn sợ sớm muộn Salander sẽ đi tới chỗ nước sôi lửa bỏng, nhưng ông không thể hình dung nổi cô lại dính vào một vụ giết hai người ở Enskede – với tư cách hung thủ hay bằng một cách nào khác. Nhưng ông biết gì về đời tư của cô ấy chứ nhi? Armansky nghĩ tới lần cô đến cơ quan gặp ông mới đây, lần ấy cô giải thích mập mờ rằng cô có đủ tiền để sống và không cần việc làm.
Điều khôn ngoan nhất phải làm lúc này là tách ông, và trên hết An ninh Milton, ra khỏi mọi liên hệ vớỉ Salander. Nhưng thế thì chắc Salander sẽ là người cô đơn nhất mà ông biết.
– Tôi kính trọng tài năng của cô ấy. Ông không tìm thấy các cái đó ở trong kết quả học hành hay ghi nhận về cá nhân.
– Vậy ông biết về lai lịch cô ấy.
– Biết cô ấy phải chịu chế độ giám hộ và cô ấy được nuôi dậy khá lôi thôi thì có, vâng.
– Và ông vẫn tin cô ấy.
– Chính xác ra đó là lý do tại sao tôi tin cô ấy.
– Xin giải thích cho.
– Người giám hộ trước kia của cô ấy, Holger Palmgren là luật sư của An ninh Milton. Ông nhận lấy trường hợp của Salander khi cô ấy còn ở tuổi mười mấy và ông đã thuyết phục tôi cho cô ấy một việc làm. Ban đầu tôi dùng cô ấy làm công văn thư từ bưu phẩm đi đến và trông coi máy sao chụp, những việc đại loại như thế. Nhưng hóa ra cô ấy có những tài năng không thể tin nổi. Và ông có thể quên bất cứ báo cáo nào nói cô ấy là điếm đi. Đó là trò vớ vẩn. Ở vào tuổi mười mấy của mình, Lisbeth đã có một thời kỳ khó khăn và rõ là đã có lúc hơi man dại một chút – nhưng cái này không giống với chống phá pháp luật. Làm điếm chắc là cái việc cuối cùng trên đời này mà cô ấy phải quay đầu vào.
– Người giám hộ hiện thời của cô ấy là một luật sư tên là Nils Bjurman.
– Tôi chưa gặp ông ta bao giờ. Hai năm trước, Palmgren bị xuất huyết não. Ngay sau khi xảy ra chuyện này Lisbeth cắt, không làm việc với tôi nữa. Việc cuối cùng cô ấy làm là vào tháng Mười, một năm rưỡi trước đây.
– Tại sao ông thôi mướn cô ấy?
– Đâu phải tôi chọn. Cô ấy hủy hợp đồng rồi biến đi nước ngoài. Không một lời giải thích.
– Biến ra nước ngoài.
– Cô ấy đã đi hơn một năm.
– Cái ấy không thể đúng được. Trong suốt năm ngoái Bjurman vẫn gửi báo cáo hàng tháng về cô ấy cơ mà. Trên Kungsholmen, chúng tôi có bản sao các báo cáo ấy.
Armansky nhún vai mỉm cười.
– Ông thấy cô ấy lần cuối cùng vào lúc nào?
– Đầu tháng Hai. Cô ấy vọt ở đâu ra đến chào thăm xã giao tôi. Cả năm ngoái cô ấy ở nước ngoài, du lịch đến châu Á và vùng Caribbean
– Xin lỗi ông, tôi có hơi bị sa lầy ở đây. Tôi có cảm tưởng cô Lisbeth Salander này là một cô gái có bệnh tâm thần chưa học hành đến nơi đến chốn và bị giám hộ. Bây giờ ông bảo ông tin cô ấy là một điều tra viên khác thường, là cô ấy có công việc riêng của cô ấy, là cô ấy kiếm ra đủ tiền để nghỉ làm cả năm và đi du lịch quanh thế giới, tất cả cái đó đều là không với người giám hộ ở bên. Chỗ này nghe thấy đáng báo động. Một cái gì đó không ăn nhập ở đây.
– Có một chút gì đó không ăn nhập với cô Salander.
– Tôi có thể hỏi ý kiến bao trùm của ông về cô ấy là gì không?
Armansky nghĩ một lúc. Cuối cùng nói:
– Cô ấy là người dễ cáu nhất, kiên định nhất mà tôi từng gặp trong đời.
– Kiên định?
– Cô ấy không làm bất cứ cái gì mà cô ấy không thích làm. Salander bỏ ngoài tai tất cả những gí người khác nói về cô ấy. Cô ấy có năng khiếu ghê gớm. Và cô ấy không giống bất cứ một ai mà tôi đã từng gặp.
– Cô ấy có bị mất cân bằng không?
– Ông định nghĩa không cân bằng là thế nào?
– Cô ấy có thể lì lợm giết hai người được không?
Armansky lặng lẽ một lúc lâu.
– Tôi xin lỗi, tôi không trả lời câu hỏi này được. Tôi theo thuyết hoài nghi. Tôi tin rằng ai cũng có trong hắn cái chất lì lợm để giết kẻ khác. Trong cơn giận dữ hay thù hận, hay ít nhất để tự vệ.
– Trong trường hợp nào ông cũng coi thường tính khả dĩ.
– Nếu như không có lý do chính đáng Lisbeth Salander sẽ không làm bất cứ một điều gì cả. Nếu cô ấy giết một ai đó thì cô ấy phải cảm thấy có một lý do rất chính đáng để làm việc ấy. Tôi có thể hỏi … ông nghi cô ấy dính dáng đến vụ giết hai người này là dựa trên cơ sở nào?
Bublanski bắt gặp mắt Armansky nhìn mình.
– Chúng ta có thể giữ bí mật được điều này không?
– Tuyệt đối.
– Khẩu súng là của người giám hộ cô ấy. Có vân tay cô ấy ở trên khẩu súng đó.
Armansky nghiến răng lại. Đây là chứng cớ rất gián tiếp.
– Tôi mới nghe radio nói đến vụ giết này. Nó là về chuyện gì? Ma túy?
– Cô ấy có dính phải ma túy không?
– Tôi không biết cái đó. Nhưng như tôi đã nói, hồi mười mấy tuổi cô ấy đã qua những ngày tháng tồi tệ, đã bị bắt vài lần vì say rượu. Các biên bản về cô ấy sẽ cho ông biết cô ấy có dính vào ma túy hay không.
– Chúng tôi không có động cơ của vụ giết hai người này. Hai người này làm việc tận tình chu đáo. Chị ấy là một nhà tội phạm học, sắp sửa nhận bằng tiến sĩ. Anh ấy là một nhà báo. Dag Svensson và Mia Johansson. Hai cái tên này có nói lên được điều gì không?
Armansky lắc.
– Chúng tôi đang tìm mối quan hệ giữa hai người và Lisbeth Salander.
– Tôi chưa nghe đến tên họ bao giờ.
Bublanski đứng lên.
– Cảm ơn nhiều về thời gian ông dành cho tôi. Chuyện chúng ta vừa nói là hấp dẫn đấy. Tôi không biết nhờ đó tôi đã khôn lên được bao nhiêu nhưng tôi hy vọng tất cả những chuyện này chúng ta giữ với nhau thôi.
– Dĩ nhiên.
– Nếu cần tôi sẽ quay lại với ông. Và dĩ nhiên nếu cần tiếp xúc với Salander.
– Chắc chắn thế.
Họ bắt tay. Đã ra đến cửa, Bublanski lại đứng lại.
– Tình cờ ông có biết ai mà Salander cùng làm chung không? Bạn bè, chỗ quen biết…?
Armansky lắc đầu.
– Tôi chả biết tí nào về đời tư của cô ấy. Trừ người giám hộ già có một ý nghĩa nào đó với cô ấy. Holger Palmgren. Ông ấy đang ở nhà điều dưỡng tại Ersta. Từ khi trở về có thể Salander đã tiếp xúc với ông ấy.
– Khi làm việc ở đây cô ấy có khách bao giờ không? Liệu có biên bản nào về chuyện ấy không?
– Không. Cô ấy làm việc chủ yếu ở nhà và chỉ đến để nộp báo cáo. Trừ một ít ngoại lệ, cô ấy không bao giờ gặp khách hàng. Có thể…
Một ý nghĩ chợt làm cho Armansky dừng lại.
– Sao?
– Có thể cô ấy tiếp xúc chi có đúng một người, một nhà báo cô ấy quen hai năm trước. Anh ấy đã tìm cô ấy khi cô ấy ở nước ngoài.
– Một nhà báo?
– Tên anh ấy là Mikael Blomkvist. Ông có nhớ vụ Wennerstrom không?
Bublanski từ từ đi vào lại buồng giấy của Armansky.
– Chính Mikael Blomkvist đã phát hiện ra hai người ở Enskede kia. Chúng tôi chỉ mới lập ra một liên hệ giữa Salander với các nạn nhân của vụ án mạng.
Armansky lại cảm thấy cái đau chắc nịch của tảng xi măng ở trong bụng ông.