Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Cô Gái Đùa Với Lửa

Chương 19

Tác giả: Stieg Larsson

Thứ Tư, 30 tháng Ba

Thứ Sáu, 1 tháng Tư

Blomkvist bỏ ngày thứ Tư ra rà soát kỹ bài viết của Svensson, tìm mọi chỗ nói đến Zala. Như Salander trước đó, anh cũng phát hiện ra thư mục ở trong máy tính của Svensson rồi đọc ba tư liệu [Irina P], [Sandstrom] và [Zala]. Cũng như Salander anh phát hiện ra Svensson có một nguồn tin cảnh sát tên là Gulbrandsen. Anh dò ông ta tới Cảnh sát Hình sự ở Sodertalje nhưng khi anh gọi thì người ta nói Gulbrandsen đang đi ra ngoài không ở sở, thứ Hai tới đây mới trở về.

Anh có thể thấy Svensson đã bỏ rất nhiều thì giờ vào Irina P. Qua biên bản mổ tử thi, anh biết được rằng người phụ nữ đã bị giết chậm rãi, tàn ác. Vụ giết xảy ra vào cuối tháng Hai. Kẻ sát nhân là ai, cảnh sát không có đầu mối nhưng do cô là gái điếm nên họ cho rằng đó là một trong các khách hàng của cô.

Blomkvist tự hỏi tại sao Svensson lại để Irina vào trong thư mục . Rõ ràng anh đã gắn Zala vào với Irina nhưng trong bài viết không có chỗ nào nói tới việc đó. Có lẽ anh để sau sẽ tìm mối quan hệ này.

Tư liệu [Zala] giống như những ghi chép viết rập rạp. Zala (nếu hắn có thật) xem vẻ gần như một bóng ma trong thế giới tội phạm. Có vẻ như hoàn toàn không tin được là có hắn thật nhưng bài viết lại không nhắc đến nguồn tin.

Anh đóng tư liệu lại, gãi đầu. Giải quyết các vụ án mạng này té ra là một việc làm khó hơn anh tưởng rất nhiều. Anh cũng không thể tránh khỏi bị các nghi vấn bủa vây suốt. Không có điều nào nói dứt khoát với anh rằng Salander không gây án. Tất cả những gì anh cần đi tiếp là linh tính của anh, nó làm cho việc ngờ Salander gây án trở nên vô lý.

Anh biết cô không thiếu tiền. Cô đã khai thác bản lĩnh tin tặc để khoắng lấy món tiền vài tỉ curon nhưng Salander không biết là anh biết. Trừ lần anh buộc phải nói rõ tài năng của cô trên trận địa máy tính với Berger ra, anh chưa bao giờ phản bội các bí mật của cô cho người bên ngoài.

Anh hết sức không muốn tin Salander là thủ phạm của các vụ án mạng. Anh sẽ không bao giờ có thể trả được cô món nợ của anh. Bằng việc nộp ngon ơ đầu của Wennerstrom cho các anh, cô không chỉ giữ mạng sống của anh mà còn cứu sự nghiệp chuyên môn của anh và có thể của cả chính Millennium nữa.

Anh cảm thấy mình rất trung thành với cô gái. Cô phạm tội hay không, anh vẫn sẽ cố làm mọi thứ để giúp cô, nếu như cuối cùng cô bị bắt.

Nhưng ở cô có quá nhiều điều anh không biết. Những đánh giá tâm thần, việc cô phải vào một trong những bệnh viện tâm thần được coi trọng nhất của đất nước, việc cô từng bị tuyên bố không thể tự cai quản bản thân, tất cả thiên về xác nhận có một cái gì đó không ổn ở cô. Trưởng khoa ở bệnh viện tâm thần Thánh Stefan ở Uppsala, bác sĩ Peter Teleborian đã được các báo trích dẫn rộng khắp. Ông không tuyên bố đặc biệt gì về Salander, như chờ đợi, mà lại bình luận về sự suy sụp của chế độ chăm sóc sức khỏe tâm thần trong nước. Teleborian không chỉ nổi tiếng và được kính trọng ở Thụy Điển mà còn ở cả thế giới. Trong khi thuyết phục chu đáo và gửi tình cảm của mình tới các nạn nhân cùng với gia đình họ, ông vẫn tỏ ra lo lắng nhất đến hạnh phúc của Salander.

Blomkvist nghĩ liệu anh có nên tiếp xúc với bác sĩ Teleborian không, liệu anh có thể giúp bằng một cách nào đó không. Nhưng anh kìm lại. Một khi cô gái bị bắt, anh sẽ có nhiều thì giờ giúp cô. Cuối cùng anh vào căn bếp nhỏ rót cà phê vào một cái cốc có logo đảng Thống nhất Ôn hòa rồi đi vào gặp Berger.

– Anh có một danh sách dài những má mì chăn dắt gái và ma cô cần hỏi. – Anh nói.

Chị lo ngại nhìn anh.

– Chắc anh phải mất một hai tuần kiểm tra tất cả những người trong danh sách này. Họ ở rải rác từ Strangnas đến Norrkoping. Anh cần một xe hơi.

Chị mở ví lấy chìa khóa chiếc BMW của mình ra.

– Thật sự được chứ?

– Dĩ nhiên được. Em hiếm khi lái xe đi làm cũng như lái xe ra khỏi Saltsjobaden. Nếu cần em lấy xe của Greger.

– Cảm ơn.

– Tuy vậy, một điều kiện.

– Gì vậy?

– Một số trong đám này là những tay ác ôn ghê gớm. Nếu anh đi để lên án bọn ma cô giết Dag và Mia thì em muốn anh mang cái này đi với anh và luôn giữ nó trong túi áo jacket.

Chị để bình xịt Mace lên bàn làm việc.

– Đâu ra mà em có cái này?

– Em mua ở Mỹ năm ngoái. Ban đêm đi loanh quanh một mình mà không có vũ khí gì thì em khốn to à.

– Bị tóm với một vũ khí bất hợp pháp thì anh cũng sẽ phải khép tội không biết đến bao nhiêu à.

– Còn hơn em viết cáo phó anh. Mikael… Em không chắc anh có biết điều này không chứ có lúc em thật thà lo cho anh đấy.

– Anh biết.

– Anh hay liều mà lại đầu bò đầu bướu, đã quyết định thì dù ngốc nghếch cũng không thể bỏ được.

Blomkvist mỉm cười cầm lấy bình Mace trên bàn làm việc của Erika.

– Cảm ơn đã lo lắng. Nhưng anh không cần nó.

– Mikael, em bắt anh phải lấy nó đi.

– Tốt thôi. Nhưng anh cũng đã sẵn sàng đề phòng cả rồi.

Anh cho tay vào túi áo lôi ra một bình xịt. Đó là bình Mace anh lấy ở trong túi của Salander và mang theo người từ đó.

Bublanski gõ lên cánh cửa để ngỏ vào buồng giấy của Modig rồi ngồi xuống ghế khách ở bên bàn làm việc của chị.

– Máy tính của Dag Svensson. – Ông nói.

– Tôi cũng đang nghĩ đến chuyện đó. – Chị nói. – Tôi có lên bảng thời gian về ngày cuối cùng của Svensson và Johansson. Vẫn còn vài khoảng trống nhưng hôm ấy Svensson không đến tòa soạn Millennium. Nhưng anh ấy lại vào trung tâm thị trấn và vào quãng 4 giờ chiều thì vồ phải một bạn học cũ. Đây là cuộc gặp tình cờ ở một quán cà phê trên đường Drottninggatan. Người bạn nói cái máy tính dứt khoát ở trong ba lô của Svensson. Anh ta trông thấy và còn bình luận về nó mà. Và 11 giờ đêm hôm đó – lúc cảnh sát đến nhà anh ấy – thì chiếc máy tính đi đâu mất.

– Đúng.

– Từ đấy ta nên suy ra sao đây?

– Có thể anh ấy dừng lại ở một chỗ nào khác rồi vì sao đó bỏ lại hay quên mất máy tính.

– Sao lại có thể như thế?

– Rất không thể. Nhưng anh ấy có thể để nó ở đâu để chữa. Rồi có khả năng anh ấy có một chỗ làm việc khác mà chúng ta không biết. Thí dụ anh ấy đã có lần thuê một bàn làm việc ở văn phòng các cây viết tự do gần St Erikplan. Rồi dĩ nhiên có khả năng tên giết người đã lấy chiếc máy tính đi.

– Theo Armansky thì Salander rất giỏi máy tính.

– Chính xác. – Modig nói, gật đầu.

– Hừm. Lý lẽ của Blomkvist là Svensson và Johansson bị giết vì cuộc điều tra mà hai người đang làm. Toàn bộ điều tra ấy ở trong máy tính này.

– Chúng ta hơi lẹt đẹt ở đằng sau. Ba nạn nhân bị giết đã tạo nên quá nhiều tiểu tiết mà chúng ta không bắt kịp, thế nhưng chúng ta chưa thực sự tìm kiếm thích đáng chỗ làm việc của Svensson ở Millennitim.

– Tôi đã nói chuyện với Erika Berger sáng hôm nay. Chị ấy nói ngạc nhiên vì chúng ta chưa đến ngó một cái vào những gì anh ấy để lại.

– Chúng ta mải tập trung vào săn tìm Salander. Cho đến nay chúng ta vẫn chưa biết gì về động cơ. Ông có thể…

– Tôi đã hẹn gặp Berger ở Millennium sáng mai rồi.

– Cảm ơn.

Thứ Năm Blomkvist đang nói chuyện với Eriksson trong buồng giấy thì điện thoại reo ở đâu đó trong tòa soạn. Qua lối cửa anh nhác thấy Cortez đi ra trả lời. Và chợt anh nhận ra đó là điện thoại ở bàn làm việc của Svensson. Anh nhảy dựng lên.

– Ngừng, không đụng đến điện thoại ấy! – Anh hét.

Tay Cortez đã đặt lên máy. Blomkvist chạy vội qua gian phòng. Cái công ty ma anh dựng lên ấy tên nó là cái quỷ gì thế nhỉ?

– Chương trình điều tra Thị trường, Mikael nghe đây. Tôi giúp được gì cho bạn?

– Ờ, chào… tên tôi là Gunnar Bjorck. Tôi nhận được thư nói tôi trúng một điện thoại di động.

– Chúc mừng. – Blomkvist nói. – Là một Sony Ericsson, mô đen mới nhất.

– Và không phải trả tiền?

– Đúng thế, được tặng không. Muốn nhận giải thưởng ông chỉ cần cho phỏng vấn. Chúng tôi nghiên cứu về điều tra thị trường và phân tích sâu cho nhiều công ty khác nhau. Chỉ cần mất một giờ trả lời các câu hỏi. Sau đó tên ông lại được đưa vào một chuyến rút thăm nữa và ông có cơ may trúng 100.000 curon.

– Tôi hiểu. Tôi có thể trả lời qua điện thoại được không?

– Không may là không được. Mục hỏi này dính dấp cả đến xem và nhận diện các logo của công ty. Chúng tôi cũng sẽ hỏi ông thích những kiểu hình ảnh quảng cáo nào và chúng tôi đưa cho ông những lựa chọn khác nhau. Chúng tôi sẽ phải cử một nhân viên của chúng tôi đến.

– Tôi hiểu… thế tại sao tôi lại được chọn?

– Mỗi năm chúng tôi làm kiểu điều tra này vài lần. Ngay bây giờ chúng tôi tập trung vào một số người thành đạt ở trong nhóm tuổi của ông. Chúng tôi rút tình cờ ra những con số bảo hiểm xã hội ở trong nhóm người này.

Cuối cùng Bjorck bằng lòng gặp. Ông ta bảo ông ta đang nghỉ ốm và hiện dưỡng bệnh tại một căn nhà nhỏ nghỉ hè ở trên mạn Smadalaro. Ông ta bảo cách đi đến đó. Họ bằng lòng gặp nhau sáng thứ Sáu.

– ĐƯỢC! – đặt máy xuống, Blomkvist kêu to lên. Anh đấm tay vào không khí. Eriksson và Cortez bối rối liếc nhìn nhau.

Paolo Roberto hạ cánh xuống sân bay Arlanda 11 giờ rưỡi sáng thứ Năm. Phần lớn chuyến bay từ New York ông ngủ và thế là được một lần ông không thấy mệt vì bay.

Ông đã ở Mỹ một tháng nói về quyền Anh, xem các trận đấu biểu diễn, tìm ý cho một sản phẩm ông đang dự định bán cho Tivi Strix. Đáng buồn, ông tự chấp nhận với mình, ông đã cho xếp xó sự nghiệp chuyên môn của ông, một phần vì gia đình nhẹ nhàng thuyết phục và cũng vì ông đã cảm thấy tuổi tác. Giữ cho mình mẩy khỏe mạnh không thành vấn đề lắm, việc này ông vẫn tập tành bền bỉ ít nhất một lần một tuần. Ông vẫn là một tên tuổi trong làng quyền Anh thế giới và ông trông đợi vẫn làm việc trong lĩnh vực thể thao theo một khả năng nào đó trong thời gian còn lại trên đời của ông.

Ông thu nhặt hành lý trên băng chuyền hàng ở Hải quan. Ông bị giữ lại và sắp bị lôi ra thì một sĩ quan hải quan nhận ra ông.

– Chào, Paolo. Trong va li anh tất cả là găng đấm box, đúng không? Anh là vũ khí chết người đấy, anh bạn.

Đang đi qua gian sảnh của khách đến để tới thang máy xuống chuyến Tốc hành Arlanda thì ông đứng sững lại, ngẩn ra vì bộ mặt Salander ở trên bảng dán báo chiều. Dẫu sao thì có lẽ ông cũng đã nếm mùi mệt mỏi vì chuyến bay. Ông đọc lại đề báo:

SĂN LÙNG

LISBETH

ALANDER

Ông xem sang bảng dán báo khác.

ĐẶC BIỆT!

TRUY TÌM

BỆNH NHÂN TÂM THẦN GIẾT BA NGƯỜI

Ông mua cả báo chiều lẫn báo sáng rồi đi đến một quán cà phê. Ông đọc báo, mỗi lúc một ngạc nhiên dữ lên hơn.

11 giờ đêm thứ Năm, khi Blomkvist về đến nhà ở Bellmansgatan, anh vừa mệt vừa thất vọng. Anh đã tính có một đêm ở nhà sớm sủa để ngủ bù nhưng anh không cưỡng lại nổi cơn cám dỗ bật máy tính lên xem email. Không có gì lý thú lắm ở đấy nhưng anh mở thư mục . Mạch đập của anh nhanh vội lên khi anh thấy một tư liệu mới có tên [MB2], anh nhấp chuột hai cái.

Công tố viên E. đang rỉ tin cho truyền thông đại chúng. Hỏi ông ta sao không cho rỉ bản báo cáo cũ của cảnh sát ra.

—–

Blomkvist suy nghĩ về lời nhắn, cụt hứng. Báo cáo cũ nào của cảnh sát? Sao tin nhắn nào cô ta cũng viết như câu đố vậy? Anh tạo một tư liệu mới gọi là [Bí ẩn].

Chào, Salander. Tôi mệt không thở ra hơi và sau các vụ án mạng tôi chạy miết không nghỉ. Tôi thấy không thích chơi trò đoán mò. Có thể cô không cho ra một cái khỉ gì cả nhưng tôi muốn biết ai giết các bạn tôi. M

Anh chờ ở bàn làm việc. Một phút sau hồi âm đến.

Nếu là tôi thì anh làm gì?

—–

Anh hồi âm bằng [Bí ẩn 3].

Lisbeth, nếu như họ nói là đúng, rằng cô đã thật sự vuợt ra khỏi ngưỡng thì có lẽ cô nên nhờ bác sĩ Peter Teleborian giúp cô. Nhưng tôi không tin là cô giết Dag và Mia. Tôi hy vọng và cầu xin điều tôi nghĩ là đúng. Dag và Mia đang sắp xuất bản tường trình của họ về buôn bán tính dục. Tôi nhận thấy việc đó có thể là lý do cho các vụ án mạng. Nhưng tôi không có gì để mà đi tiếp.

Tôi không biết có gì không phải giữa chúng ta, nhưng cô và tôi đã có lần bàn về tình bạn. Tôi nói tình bạn là dựa trên hai điều – tôn trọng và tin cậy. Dù không thích tôi, cô vẫn có thể dựa vào tôi và tin tôi. Tôi không chia sẻ bí mật của cô với ai hết. Ngay cả chuyện gì xảy ra với hàng tỉ của Wennerstrom. Tin tôi đi.

Năm mươi phút sau, Blomkvist gần như đã sắp hết hy vọng thì tệp tin [Bí ẩn 4] hiện ra.

—–

Blomkvist nhẹ người thở phào. Anh thấy một tia hy vọng le lói. Hồi âm nói sao thì có nghĩa là đúng như thế. Cô ấy sẽ nghĩ về chuyện này. Từ khi không một lời giải thích cô biến ra khỏi đời anh thì đây là lần đầu tiên cô đưa ra một triển vọng giao tiếp lại chút nào đó với anh. Anh viết [Bí ẩn 5].

OK. Tôi chờ. Nhưng xin đừng để lâu quá.

—–

Thanh tra Faste đang ở đường Langholmsgatan gần Vasterbron trên đường đi làm thì điện thoại gọi. Cảnh sát không có nhân lực để kiểm soát hai mươi tư trên hai mươi tư giờ căn hộ ở Lundagatan cho nên đã bố trí một ông hàng xóm, một cảnh sát về hưu để mắt giúp cho vào đấy.

– Cô gái Trung Quốc vừa đến đấy. – Ông ta đã báo.

Faste khó mà tìm ra chỗ nào thích hợp hơn ở đây. Ông phá luật, quặt qua con lươn xe bus ở Heleneborsgatan chính ngay trước Vasterbron rồi lái xuôi Hogalidsgatan xuống Lundagatan. Chưa tới hai phút sau khi được gọi, ông đã đến nơi và rảo cẳng qua đường vào thẳng tòa nhà ở đằng sau.

Miriam Wu vẫn còn đứng ở cửa căn hộ nhìn trừng trừng vào ổ khóa bị khoan thủng và băng dính của cảnh sát dán ngang cánh cửa, thì nghe thấy tiếng chân trên cầu thang đằng sau cô. Cô quay lại thấy một người lực lưỡng đang chăm chú nhìn cô. Cảm thấy ông ta thù nghịch, cô vất túi xuống, chuẩn bị nếu cần thì giở món bốc Thái ra.

– Cô là Miriam Wu phải không? – Ông ta hỏi.

Cô ngạc nhiên thấy ông đưa thẻ cảnh sát ra.

– Vâng, cô nói. Có chuyện gì ở đây thế?

– Tuần qua cô ở đâu?

– Tôi đi vắng. Xảy chuyện gì chứ? Nhà bị phá khóa đột nhập ư?

– Tôi phải yêu cầu cô đi với tôi đến Kungsholmen. – Ông ta nói, đặt một tay lên vai cô.

Bublanski và Modig nhìn kỹ Miriam Wu đi theo Faste vào phòng thẩm vấn. Cô cáu ra mạt.

– Mời ngồi. Tôi là thanh tra hình sự Jan Bublanski, đây là đồng nghiệp của tôi, thanh tra Sonja Modig. Tôi xin lỗi đã phải đưa cô đến như thế này nhưng chúng tôi cần cô trả lời cho một số câu hỏi.

– OK. Nhưng tại sao lại thế? Tay này ít lời.

Cô ngoéo ngón tay cái về Faste.

– Chúng tôi đã tìm cô mất một ít thời gian. Cò có thể nói cô đã ở đâu không?

– Vâng, được chứ. Nhưng tôi không thấy như ông, chuyện dính đến tôi thì không hề lại là việc của các ông mà.

Bublanski nhướng lông mày lên.

– Tôi về nhà thì thấy cửa bị phá mở ra và băng dính cảnh sát dán ngang rồi một tay vai u thịt bắp hùng hổ kéo tôi xuống đây. Tôi có thể được giải thích không đây?

– Cô không thích đàn ông à? – Faste nói.

Miriam ngạc nhiên quay lại nhìn ông trợn trừng. Bublanski giận dữ nhìn ông.

– Tuần qua cô không đọc báo ư? Cô có ra nước ngoài không?

– Không, tôi không đọc báo nào cả. Tôi đến Paris thăm bố mẹ. Hai tuần. Tôi vừa ở Ga Trung tâm về.

– Cô đi xe lửa?

– Tôi không thích bay.

– Cô cũng không xem bản tin nào hay báo chí hôm nay?

– Tôi xuống ga rồi đi xe điện ngầm về đây.

Bublanski nghĩ một lát. Sáng nay trên bản tin không có gì về Salander. Ông đứng lên ra khỏi phòng. Khi quay lại ông cầm tờ Aftonbladet số phát hành Phục sinh với ảnh Salander ở trang nhất.

Miriam Wu gần như bị roi quất.

Blomkvist theo lời Bjorck dặn đi đến căn nhà nhỏ ở Smadalaro. Đỗ xe anh đã thấy “căn nhà nhỏ” là một ngôi nhà một gia đình hiện đại nom như có người ở quanh năm. Nó trông ra cảnh biển hướng về vũng nhỏ Jungfrufjarden. Anh đi bộ theo lối rải sỏi lên nhà rồi bấm chuông. Bjorck dễ nhận ra nhờ tấm ảnh hộ chiếu mà Svensson đã cho vào tệp tin của anh.

– Chào. – Blomkvist nói.

– Chào, ông đã tìm ra chỗ.

– Cảm ơn đã mách đường.

– Vào đi. Chúng ta có thể ngồi ở trong bếp.

Bjorck nom khỏe mạnh nhưng đi hơi tập tễnh.

– Tôi đang nghỉ phép ốm. – Hắn nói.

– Không nghiêm trọng chứ, tôi hy vọng thế.

– Tôi chờ mổ cái đĩa cột sống bị trật. Ông thích cà phê không?

– Không, cảm ơn.

Blomkvist nói rồi ngồi xuống bàn bếp, mở va li nhỏ ra. Anh lấy ra một danh mục. Bjorck ngồi xuống đối diện anh.

– Trông ông quen quen. Chúng ta trước đây đã gặp nhau ở đâu chưa?

– Tôi nghĩ là không. – Blomkvist nói.

– Tôi chắc chắn là đã thấy ông ở đâu đó trước đây.

– Có thể là ở trên báo.

– Ông nói tên ông là gì nhỉ?

– Mikael Blomkvist. Tôi là nhà báo. Tôi làm ở tạp chí Millennium.

Bjorck nom lấn bấn. Thế là hiểu rồi. Kalle Blomkoist. Vụ Wennerstrom. Nhưng hắn vẫn không thấy chỗ liên can.

– Millennium à? Tôi không biết thế ra ông có nghiên cứu thị trường.

– Thỉnh thoảng làm một hồi. Bắt đầu tôi muốn xin ông xem ba tấm ảnh này và nói ông thích tấm nào nhất.

Blomkvist để ba tấm ảnh ba cô gái lên bàn. Một tấm là tải ở một địa chỉ khiêu dâm của Internet xuống. Hai tấm kia là ảnh hộ chiếu phóng to.

Bjorck biến sắc, mặt nhợt đi như một tử thi.

– Tôi không hiểu.

– Không? Đây là Lidia Komarova, mười sáu tuổi, người Minsk. Tấm này là Myang So Chin, tên thường gọi là Jo-Jo, người Thái Lan. Hai mươi lăm tuổi. Và mới nhất chúng tôi có Yelena Barasova, người Tallinn. Ông đã mua dâm của ba người này, vậy tôi hỏi: ông thích ai nhất ở đây. Hãy coi đây là tôi đang nghiên cứu thị trường.

– Tóm lại, cô nói cô quen Salander ba năm nay. Không cần lấy tiền thuê nhà, cô ấy ký trao nhà cho cô mùa xuân này rồi chuyển đi đâu đó. Mỗi lần cô ấy đến với cô, làm tình với cô, thế mà cô không biết cô ấy ở đâu và cô ấy sống thế nào. Cô chờ tôi tin cô hay sao?

Miriam Wu quắc mắt lên nhìn ông.

– Ông tin hay không tôi cũng chả coi là cứt gì. Tôi không làm gì phi pháp, còn tôi sống thế nào, tôi ngủ với ai thì là việc của riêng tôi, không dính gì hết đến công chuyện của các ông bà hay ai đó khác nha.

Bublanski thở dài. Sáng nay khi được tin Miriam Wu xuất hiện, ông thấy nhẹ hẳn người. Cuối cùng đã đột phá. Nhưng thông tin ông lấy được ở cô chả làm sáng thêm được điều gì. Thực tế, đây là điều lạ lùng nhất. Mà vấn đề là ông lại tin cô ta. Cô trả lời rõ ràng, dễ hiểu, không chút ngập ngừng. Cô kể ra những chỗ và ngày giờ gặp Salander cũng như chuyện vì sao cô dọn đến Lundagatan chính xác đến nỗi Bublanski và Modig cả hai đều cảm thấy chắc chắn rằng câu chuyện kỳ quặc này tất phải là thật.

Nghe chất vấn, Faste mỗi lúc lại một cáu lên nhưng ông cố nín thinh. Ông nghĩ cho đến nay Bublanski đã quá khoan hồng với cô gái Trung Quốc vốn chẳng qua chỉ là một con điếm ngạo mạn, lấp liếm để tránh trả lời duy nhất các câu hỏi quan trọng. Cụ thể là cái con điếm lố lăng Salander kia nó hiện đang ẩn ở cái hỏa ngục nào?

Nhưng Wu không biết Salander ở đâu. Cô ta không biết Salander làm nghề ngỗng gì. Cô không nghe đến An ninh Milton bao giờ. Cô không nghe đến Dag Svensson và Mia Johansson bao giờ, do đó không thể cho ra được tí thông tin nào có thể giúp ích. Cô mù tịt việc Salander từng bị giám hộ hay hồi mười mấy tuổi đã từng vướng đến pháp luật hay lý lịch có đầy những đánh giá về tâm thần.

Mặt khác, cô có ý xác nhận cô và Salander đã đi Kvarnen hôn một cái rồi về nhà ở Lundagatan và sáng hôm sau chia tay nhau sớm. Sau đó ít lâu Wu đi xe lửa đến Paris, lỡ mất các tít trên báo chí Thụy Điển. Ngoài việc đến gặp chớp nhoáng trả chìa khóa xe, từ buổi tối ở Kvarnen đó, cô không gặp Salander.

– Chìa khóa xe? – Bublanski nói. – Salander không có xe mà.

Wu nói Salander có một Honda màu mận chín đỗ ở bên ngoài chung cư. Bublanski đứng lên nhìn Modig.

– Cô có thể hỏi giúp tôi được không? – Ông nói và ra khỏi phòng.

Ông phải tìm Holmberg bảo ông ta phanh phui xem xét một chiếc Honda màu mận chín đỗ ở bên trên đường Lundagntan. Và ông cần một mình để suy nghĩ.

Gunnar Bjorck, phó đội trưởng đội di cư của Cảnh sát An ninh, hiện nghỉ ốm, ngồi xám ngoét như con ma trong gian bếp nhìn ra cảnh quan đẹp đẽ của Jungfrufgarden. Blomkvist nhìn hắn với con mắt trung lập, kiên nhẫn. Đến nay anh chắc chắn hắn không dính đến các vụ án mạng. Do Svensson chưa cố đối mặt hắn, Bjorck không biết hắn sắp sửa bị vạch ra, tên và ảnh của hắn sẽ đăng trên Millennium và trong một quyển sách.

Bjorck đã cho một thông tin có giá trị. Hắn biết Nils Bjurman. Họ gặp nhau ở câu lạc bộ bắn súng, Bjorck từng là thành viên tích cực ở đây trong hai mươi tám năm. Có một dạo hắn còn cùng với Bjurman ở trong ban quản trị câu lạc bộ. Họ không là bạn thân nhưng cùng chơi bời và thỉnh thoảng có ăn tối với nhau.

Không, hắn không thấy Bjurman đã mấy tháng rồi. Lần cuối cùng vồ phải nhau là mùa hè trước, khi cả hai cùng uống ở một quán bar. Hắn buồn là Bjurman bị giết – à bởi con bé mắc bệnh tâm thần nhưng hắn sẽ không đi dự tang lễ.

Blomkvist bận tâm về trùng hợp này nhưng dần dần hết câu hỏi. Bjurman chắc phải quen biết cả trăm con người trong đời sống nghề nghiệp cũng như xã hội của hắn ta. Với hắn, việc một ai đó hắn tình cờ biết mà lại đi vào tài liệu của Svensson là chuyện lạ xét về thống kê cũng như về xác suất. Bản thân Blomkvist cũng tình cờ quen một nhà báo và hắn cũng xuất hiện trong quyển sách.

Đã đến lúc kết thúc câu chuyện. Bjorck đã trải qua tất cả các giai đoạn Blomkvist lường sẵn. Trước tiên phủ nhận, rồi – khi được thấy một phần tư liệu – giận dữ, đe dọa, toan hối lộ và, mau thôi, bào chữa thanh minh. Anh đã giả điếc với tất cả các cơn cớ của Bjorck.

– Ông hại đời tôi nếu in cái trò đó ra. – Bjorck nói.

– Vâng.

– Và ông sẽ cho in thật.

– Tuyệt đối thật.

– Tại sao? Ông có thể cho tôi nghỉ chút không. Tôi không khỏe.

– Thú vị là ông đã lấy lòng tốt của con người ra làm một lý lẽ để bàn.

– Thương cảm thì chả có mất mát gì đâu mà.

– Ông nói chỗ này đúng. Khi ông rên rỉ tôi hại đời ông thì ông đã thích thú phá hủy đời các thiếu nữ bằng gây tội ác với họ. Chúng tôi có thể chứng minh ba người trong số họ. Chúa biết còn có bao nhiêu cô gái như thế nữa. Vậy lúc ấy lòng thương cảm của ông ở đâu?

Anh nhặt giấy tờ cho vào va li nhỏ.

– Tôi tìm được đường đi ra.

Đến cửa anh quay lại Bjorck.

– Ông có nghe nói đến một người tên là Zala không?

Bjorck trừng trừng nhìn anh. Hắn còn hoảng hốt nên không nghe rõ câu anh hỏi. Rồi mắt hắn trợn thao láo lên.

Zala!

Không thể được.

Bjurman!

Sao lại như thế được không?

Thấy Bjorck đổi thần sắc, Blomkvist quay lại bàn.

– Tại sao ông hỏi Zala 2414 ? – Bjorck nói. Hắn nom vẻ bị choáng.

– Tôi quan tâm đến ông ta. – Blomkvist nói.

Blomkvist gần như thấy được các bánh răng đang chuyển động trong đầu Bjorck. Một lúc sau, Bjorck túm lấy bao thuốc lá ở bậu cửa sổ. Từ khi Blomkvist vào nhà, đây là điếu đầu tiên hắn châm.

– Nếu tôi biết gì đó về Zala thì tôi được gì ở ông?

– Để còn xem điều ông biết là gì đã.

Bjorck nghĩ về chỗ này. Cảm xúc và ý nghĩ nháo nhào trong đầu hắn.

Cái quỷ gì mà Blomkvist lại biết được về Zalachenko như thế chứ?

– Cái tên này tôi nghe thấy đã lâu rồi. – Cuối cùng Bjorck nói.

– Vậy ông biết ông ta là ai?

– Tôi không nói thế. Ông tìm cái gì?

– Tên ông ta ở trong danh sách những người mà Svensson điều tra.

– Tôi được gì ở ông?

– Được gì là được thế nào?

– Nếu tôi đưa ông đến được Zala… Ông có bỏ tôi ra khỏi báo cáo của ông không?

Blomkvist từ từ ngồi xuống. Sau vụ Hedestad anh đã quyết định không còn mặc cả mặc lẽ giải quyết một chuyện nào khác nữa. Anh cũng không có ý thương lượng với Bjorck, bất kể chuyện gì xảy ra, hắn cũng sẽ phải bị tù mọt gông. Nhưng anh nhận thấy anh có thể thương lượng với Bjorck rồi bỏ kệ hắn mà không sợ tai tiếng. Anh không cảm thấy có lỗi. Bjorck là một cảnh sát phạm tội. Nếu anh biết tên của kẻ sát nhân thì việc của anh là can thiệp vào – chứ không phải dùng thông tin để giữ lấy cái mạng anh. Bjorck có thể đang hy vọng thoát thân nếu hắn chìa ra thông tin về một tội phạm khác. Blomkvist cho tay vào túi áo jacket, bật máy ghi âm mà anh đã cho tắt đi trước khi anh đứng lên rời khỏi bàn. Và lấy ra một khăn tay.

– Ta hãy nghe cái này. – Anh nói.

Modig nổi nóng với Faste nhưng chị không lộ ra mặt những điều chị nghĩ về ông ta. Cuộc chất vấn Miriam Wu, tiếp tục sau khi Bublanski ra khỏi phòng, chỉ là làm như sách vở.

Modig cũng ngạc nhiên. Chị không bao giờ ưa Faste và cái kiểu đàn ông đàn ang hiên ngang của ông ta nhưng chị vẫn coi ông là một sĩ quan cảnh sát có tài. Cái tài đó hôm nay thiếu vắng lộ liễu. Rõ ràng Faste cảm thấy người phụ nữ đẹp, thông minh và đồng tính ái nữ này đe dọa mình. Cũng rõ ràng là Wu biết Faste cáu nên càng không khoan nhượng chọc tức.

– Thế ông thấy cái dây trói người của tôi ở trong ngăn kéo ư? Ông mơ tưởng lăng nhăng về nó thế nào.

Miriam cười điệu một cái là lạ. Faste cảm thấy như mình sắp nổ toang ra.

– Im miệng đi mà trả lời câu hỏi.

– Ông hỏi tôi đã bao giờ đ. với Salander bằng cái dây trói ấy chưa. Tôi trả lời đó [bad word] phải là việc của ông.

Modig giơ tay lên:

– 11 giờ 12 rồi, thẩm vấn Miriam Wu dừng ở đây đã.

Chị tắt máy ghi âm.

– Cô có muốn ở lai đây không, Miriam? – Modig quay sang Faste. – Tôi muốn nói với anh một chút.

Miriam cười dịu dàng khi Faste tục tĩu nhìn cô rồi ông lừ khà lừ khừ theo Modig ra hành lang. Modig quay ngoắt lại, nhìn vào mắt Faste, mũi chị gần như sát vào mũi ông ta.

– Bublanski phân công tôi thẩm vấn. Ông hỗ trợ tôi cái kiểu của khỉ gì vậy?

– Ô, dẹp cái giọng bà tướng ấy đi. Cái thẽm xoăn tít ấy nó ngoắt ngoéo như rắn ấy.

– Trong cách chọn ví von của ông nó có chút nào cái chất biểu tượng của Freud không đấy?

– Cái gì?

– Quên nó đi. Đi tìm Curt mà thách đấu cờ ca rô hay đi đến câu lạc bộ mà bắn súng hay làm bất cứ cái gì ông muốn. Miễn là ở ngoài cuộc thẩm vấn này, thế thôi.

– Modig, chị làm cái con khỉ gì thế chứ?

– Vì ông phá cuộc thẩm vấn của tôi.

– Bà lên cơn với nó đến nỗi chỉ muốn riêng bà chất vấn nó đấy à?

Chưa kịp kiềm chế thì bàn tay Modig đã vung lên tát một cái vào giữa mặt Faste. Ngay lập tức chị ân hận nhưng đã quá muộn. Chị liếc xuôi ngược hành lang, và ơn Chúa, không có ai chứng kiến.

Thoạt tiên Faste có vẻ ngạc nhiên. Rồi ông cười khinh bỉ, vắt jacket lên vai đi. Modig suýt gọi ông lại để xin lỗi nhưng lại quyết định không. Chị chờ hẳn một phút cho người lắng dịu xuống. Rồi chị lấy hai tách cà phê ở máy bán tự động đem về phòng thẩm vấn.

Họ ngồi im lặng uống cà phê. Cuối cùng Modig ngẩng nhìn Miriam Wu.

– Tôi xin lỗi. Có lẽ đây là buổi thẩm vấn tồi tệ nhất từng được tiến hành ở trụ sở cảnh sát này.

– Ông ta nom vẻ là một cha ghê gớm khó hợp tác. Để tôi đoán xem nha: ông ta lưỡng tính ái, đã li hôn. Và trong giờ giải lao cà phê cà pháo thì là đầu têu của các chuyện đùa nhảm về đồng tính ái nam.

– Ông ta là… di vật của một cái gì đó. Tôi chỉ có thể nói được như vậy.

– Chị thì không?

– Ít nhất tôi không phải là một kẻ sợ người.

– Tôi ủng hộ chị cả hai tay đấy.

– Miriam, tôi… chúng tôi, tất cả chúng tôi trong mười hôm nay đều làm việc suốt cả đêm lẫn ngày. Chúng tôi mệt và bực mình rồi. Chúng tôi đang cố mò ra đáy của vụ giết hai người ở Enskede cũng như một vụ kinh khủng khác nữa ở gần Odenplan. Bạn cô, Lisbeth Salander có liên can đến địa điểm xảy ra án mạng. Chúng tôi đã có chứng cứ pháp y. Báo động trên cả nước đã được đặt ra vì cô ta. Xin hiểu cho rằng chúng tôi với bất cứ giá nào cũng phải bắt được cô ta để cô ta không làm hại được cho ai khác nữa hay thậm chí cho bản thân chính cô ta.

– Tôi biết Lisbeth Salander. Cô ấy không giết ai cả.

– Cô không tin cái đó hay cô không muốn tin đây? Miriam, chúng tôi không hề vô cớ mà lại đi báo động trong cả nước vì một ai đó. Nhưng tôi có thể nói với cô nhiều đến mức này: sếp của tôi, thanh tra hình sự Jan Bublanski không tin là cô ấy phạm tội. Chúng tôi đã thảo luận về khả năng cô ấy có một đồng phạm hoặc thế nào đó không biết, cô ấy đã bị kéo vào trong tất cả chuyện này trái lại với ý muốn của cô ấy. Nhưng chúng tôi phải tìm thấy cô ấy. Cô tin cô ấy vô tội, Miriam, nhưng nếu cô sai thì xảy ra cái gì đây? Cô tự nói ra cô cũng không hiểu cô ấy nhiều lắm mà.

– Tôi không biết tin vào cái gì.

– Vậy hãy giúp chúng tôi tìm ra sự thật.

– Tôi có bị bắt vì gì đó không?

– Không.

– Lúc muốn tôi có thể rời khỏi đây được không?

– Về danh nghĩa, được.

– Thế về không danh nghĩa?

– Cô sẽ cứ là một dấu hỏi trong mắt chúng tôi.

Miriam Wu cân nhắc lời Modig.

– Bắt đầu đi nào. Hễ hỏi mà làm tôi cáu là tôi không có trả lời đâu đấy.

Modig lại mở máy ghi âm.

Bình luận
× sticky