Không hành lý. Vé điện tử để cô có thể check in bằng máy chứ không phải người. Cô đợi trong phòng đón khách lân cận, cố dán mắt vào màn hình chỉ giờ bay, đợi dòng On time hiện lên bên cạnh chuyến bay của cô chuyển sang Boarding.
Cô ngồi trong ghế nhựa cong ba chiều và nhìn ra đường nhựa. Một TV om sòm chương trình CNN. “Tiếp theo là Những thông tin chính trong mục Thể thao.” Cô để cho đầu óc trống rỗng. Năm năm trước, cô đã sống trong một ngôi nhà nhỏ gần Goa, Ấn Độ. Mặc dù thực sự là đáy của địa ngục, ngôi làng vẫn nhộn nhịp bởi vì có một bậc thầy yoga trăm tuổi sống ở đó. Cô trải qua một khoảng thời gian với ông thầy yoga này. Ông đã cố dạy cô kỹ thuật thiền, pranayma, tinh tẩy trí óc. Nhưng không một cái nào từng thực sự đọng lại. Có những khoảnh khắc cô đã có thể chìm vào trạng thái đầu óc trống rỗng. Tuy nhiên, thường xuyên hơn, mỗi khi cô chìm, Beck ở đó.
Cô băn khoăn về bước đi tiếp theo. Thực sự không có lựa chọn nào cả. Đây là gìn giữ. Gìn giữ nghĩa là chạy trốn. Cô đã làm mọi thứ xáo trộn hết cả lên và giờ đây cô lại bỏ chạy, để công việc dọn dẹp lại cho người khác. Nhưng còn có lựa chọn nào khác không? Bọn chúng truy đuổi cô. Cô đã cẩn thận khủng khiếp, nhưng bọn chúng vẫn theo dõi. Tám năm sau.
Một đứa trẻ mới biết đi trườn về phía cửa sổ kính mỏng, lòng bàn tay đập vào kính với tiếng bộp rất sung sướng. Ông bố vội vã đuổi theo và cười khúc khích bế nó lên. Cô nhìn và trí óc cô trườn đến những-thứ-đáng-lẽ-đã-có-thể một cách rõ ràng. Một đôi vợ chồng già ngồi bên phải cô, chuyện trò rất đáng yêu những chuyện vơ vẩn. Khi còn mười mấy tuổi, cô và Beck ngắm ông và bà Steinberg tản bộ trên Downing Place tay trong tay, không bỏ lỡ một tối nào, rất lâu sau khi con cái họ đã trưởng thành và bay ra khỏi tổ ấm. Cuộc sống của họ cũng sẽ giống thế, Beck đã hứa. Bà Steinberg mất ở tuổi tám hai. Ông Steinberg, vốn tráng kiện một cách đáng kinh ngạc, theo bà bốn tháng sau. Người ta bảo chuyện đó xảy ra rất nhiều với người già, rằng – diễn giải Springsteen nhé – hai trái tim hòa làm một. Khi một chết, trái tim còn lại đi theo. Cô với David có phải sẽ như vậy không? Họ đã không ở được bên nhau sáu mươi mốt năm như ông bà Steinberg, nhưng khi bạn nghĩ về chuyện đó với những thời kỳ mang tính chất tương đối, khi bạn tính toán rằng bạn hầu như đâu có ký ức gì trước năm tuổi, khi bạn biết rằng cô và Beck đã không rời nhau từ khi họ lên bảy, rằng họ khó mà tìm ra được bất kỳ kỷ niệm nào mà không có người kia, khi bạn nghĩ đến khoảng thời gian ở bên nhau không chỉ theo thời kỳ năm mà là phần trăm trong cuộc đời, họ đã thuộc về nhau thậm chí còn nhiều hơn cả ông bà Steinberg.
Cô quay đi và nhìn màn hình. Bên cạnh chuyến bay British Airways số 174, từ Boarding bắt đầu nhấp nháy.
Chuyến bay của cô đã bị hủy.
Carlson và Stone, cùng với hai anh bạn thân địa phương Dimonte và Krinsky, đứng với viên quản lý vé đặt trước của British Airways.
“Anh ta có vé nhưng không tới đây,” viên quản lý, một phụ nữ mặc đồng phục xanh và trắng có quàng khăn quanh cổ, một giọng tuyệt hay, và một cái bảng tên đề Emily nói với họ.
Dimonte chửi rủa. Krinsky nhún vai. Việc này nằm ngoài dự kiến. Beck đã né tránh tuyệt đối thành công những kẻ săn lùng trong cả ngày hôm nay. Anh ta không ngu đến nỗi cố dùng tên thật lên máy bay.
“Ngõ cụt,” Dimonte nói.
Carlson, vẫn cầm hồ sơ khám nghiệm tử thi bên hông, hỏi Emily, “Nhân viên thành thạo máy tính nhất của cô là ai?”
“Chính là tôi,” cô nói với một nụ cười đẹp chuẩn.
“Xin mang danh sách đặt trước đến,” Carlson nói.
Emily làm như anh ta yêu cầu.
“Cô có thể cho tôi biết anh ta đặt vé khi nào không?”
“Ba ngày trước.”
Dimonte bập ngay vào. “Beck đã lên kế hoạch chạy trốn. Thằng chó đẻ.”
Carlson lắc đầu. “Không phải.”
“Làm thế nào anh cho rằng không phải?”
“Chúng ta đã giả thuyết anh ta giết Rebecca Schayes để bịt miệng cô ta,” Carlson giải thích. “Nhưng nếu anh chuẩn bị đi khỏi đất nước này, sao lại còn lo chuyện đó? Tại sao lại mạo hiểm đợi ba ngày và cố trốn đi cùng một vụ án mạng nữa?”
Stone lắc đầu. “Chuyện này anh nghĩ tỉ mỉ quá mức rồi, Nick ạ.”
“Chúng ta đang để lỡ điều gì đó,” Carlson khăng khăng. “Tại sao đột nhiên anh ta lại quyết định chạy trốn đầu tiên?”
“Bởi vì chúng ta truy đuổi anh ta.”
“Ba ngày trước chúng ta chưa truy đuổi anh ta.”
“Có thể anh ta biết đó chỉ là vấn đề thời gian.”
Carlson càng nhíu mày tợn.
Dimonte quay sang Krinsky. “Thế này chỉ phí thời gian. Hãy biến khỏi đây đi.” Anh ta nhìn Carlson. “Chúng ta sẽ để lại vài người ở đây để phòng khi.”
Carlson gật đầu, chỉ nghe nửa vời. Khi họ đi, anh ta hỏi Emily, “Anh ta có đi cùng ai không?”
Emily nhấn một vài phím. “Vé đặt đơn.”
“Anh ta đặt nó bằng cách nào? Đến trực tiếp? Qua điện thoại? Hay qua hãng du lịch?”
Cô lại nhấn một vài phím. “Không phải thông qua hãng du lịch. Tôi có thể nói chắc chắn với anh thế bởi chúng tôi có đánh dấu để trả tiền hoa hồng. Vé được đặt trực tiếp với British Airways.”
Không ích gì ở điểm này. “Anh ta thanh toán bằng cách nào?”
“Thẻ tín dụng.”
“Cho tôi số được không?”
Cô đưa số cho anh ta. Anh ta đưa cho Stone. Stone lắc đầu. “Không phải một trong những cái thẻ của anh ta. Ít nhất, không phải cái chúng ta biết.”
“Kiểm tra đi,” Carlson nói.
Điện thoại di động của Stone đã sẵn trong tay. Anh ta gật đầu và nhấn số.
Carlson xoa xoa cằm. “Cô nói anh ta đặt vé cách đây ba ngày.”
“Đúng.”
“Cô có biết thời gian anh ta đặt vé không?”
“Thực tế là có. Máy tính có ghi lại. Sáu giờ mười bốn phút chiều.”
Carlson gật đầu. “Được rồi, tuyệt lắm. Cô có thể cho tôi biết có ai khác cũng đặt vé vào cùng quãng thời gian đó không?”
Emily nghĩ. “Tôi chưa bao giờ thử làm thế,” cô nói. “Đợi một chút, để tôi xem cái này.” Cô gõ. Cô đợi. Cô gõ thêm. Cô đợi. “Máy tính không sắp xếp theo ngày đặt vé.”
“Nhưng thông tin có trong đó?”
“Có. Đợi, khoan đã.” Ngón tay cô lại bắt đầu lách cách. “Tôi có thể dán thông tin lên một cái bảng. Chúng ta cho năm mươi lăm vé đặt trên mỗi trang. Như thế sẽ nhanh hơn.”
Nhóm năm mươi lăm đầu tiên có một cặp vợ chồng đặt vé cùng ngày nhưng sớm hơn vài giờ. Vô dụng. Nhóm thứ hai không có. Tuy nhiên, trong nhóm thứ ba, họ tìm được.
“Lisa Sherman,” Emily tuyên bố. “Chuyến bay của cô này được đặt cùng ngày, tám phút sau.”
Riêng điều đó chẳng có ý nghĩa gì, dĩ nhiên, nhưng Carlson cảm thấy tóc gáy mình dựng đứng lên.
“Ồ, cái này thú vị đây,” Emily nói thêm.
“Cái gì?”
“Chỗ cô ấy ngồi.”
“Nó làm sao?”
“Cô ta được dự kiến ngồi cạnh David Beck. Hàng mười sáu, ghế E và F.”
Anh ta thấy điếng người. “Cô ta check in chưa?”
Gõ thêm. Màn hình trống trơn. Một cái khác xuất hiện. “Trên thực tế, cô ta đã. Cô ta có lẽ đang lên máy bay khi chúng ta nói chuyện.”
Cô chỉnh lại đai túi và đứng. Chân bước nhanh, đầu ngẩng cao. Cô vẫn đeo kính, tóc giả và hàm giả. Cũng có một tấm ảnh của Lisa Sherman trong hộ chiếu.
Cô đến cổng thứ tư thì nghe thấy một mẩu tin ngắn trên bản tin CNN. Cô dừng lại một chút. Một người đàn ông kéo một túi hành lý to uỳnh đâm sầm vào cô. Ông ta làm một cử chỉ bằng tay khiếm nhã như thể cô ngáng đường tự do của ông ta. Cô lờ đi và tiếp tục nhìn lên màn hình.
Phát thanh viên đang đọc bản tin. Ở góc phải màn hình là ảnh bạn cũ Rebecca Schayes đặt sát bên một tấm ảnh của… của Beck.
Cô vội lại gần màn hình hơn. Dưới hai tấm ảnh là những chữ phông màu đỏ máu Chết trong phòng tối.
“… David Beck, bị tình nghi là thủ phạm. Nhưng đây có phải là tội ác duy nhất mà người ta tin hắn từng phạm? Jack Turner của kênh CNN tiếp tục thông tin.”
Cô phát thanh viên biến mất. Thay vào chỗ cô ta, hai người đàn ông mặc áo khoác Sở cảnh sát thành phố New York kéo chiếc túi đựng thi thể màu đen trên cáng. Cô nhận ra khu nhà ngay lập tức và gần như há hốc mồm. Tám năm. Tám năm đã trôi qua, nhưng studio của Rebecca vẫn ở nguyên chỗ cũ.
Một giọng đàn ông, đoán chừng là của Jack Turner, bắt đầu đọc bản tin của ông ta: “Đây là một câu chuyện phức tạp, vụ án mạng của một trong những nhiếp ảnh gia thời trang hot nhất New York. Rebecca Schayes được tìm thấy chết trong phòng tối, bị bắn hai phát vào đầu ở cự ly gần.” Họ phát một tấm ảnh Rebecca cười rạng rỡ. “Đối tượng tình nghi là người bạn lâu niên của cô, bác sĩ David Beck, một bác sĩ nhi giàu có.” Giờ là ảnh Beck, không mỉm cười, chạy trên màn hình. Cô suýt ngã ngửa.
“Bác sĩ Beck đã vừa trốn thoát khỏi vụ bắt sáng nay sau khi tấn công một nhân viên cảnh sát. Hắn vẫn còn đang tự do và được cho rằng có vũ khí và rất nguy hiểm. Nếu bạn có bất cứ thông tin nào liên quan đến việc hắn ở đâu…” Một số điện thoại màu vàng xuất hiện. Jack Turner đọc to số điện thoại rồi tiếp tục nói.
“Nhưng cái khiến cho câu chuyện thêm phần phức tạp là những thông tin rò rỉ ra từ Tòa nhà Liên bang tại Manhattan. Có thể đoán chừng, bác sĩ Beck đã bị nghi ngờ có liên quan tới vụ giết hai người đàn ông mà thi thể vừa được phát hiện ra tại Pennsylvania, cách khu nghỉ hè của gia đình bác sĩ Beck không xa lắm. Và điều ngạc nhiên hơn hết thảy: bác sĩ David Beck cũng là đối tượng tình nghi trong vụ giết vợ hắn tám năm trước, Elizabeth.”
Ảnh một người phụ nữ cô gần như không nhận ra xuất hiện. Đột nhiên cô thấy mình như trần truồng, bị dồn vào góc. Ảnh cô biến mất khi họ quay lại với cô phát thanh viên, “Jack, chẳng phải chúng ta đã tin rằng EIizabeth Beck là nạn nhân của tên giết người hàng loạt Elroy ‘KillRoy’ Kellerton?”
“Đúng vậy, Terese. Giới cảnh sát hiện không phát biểu gì nhiều lắm, và các nhân viên từ chối cung cấp báo cáo. Nhưng thông tin rò rỉ đến với chúng tôi từ những nguồn đáng tin cậy.”
“Cảnh sát có động cơ, Jack?”
“Chúng tôi vẫn chưa nghe thấy chuyện đó. Có tin đồn nào đó cho rằng đây có thể là mối tình tay ba. Cô Schayes đã kết hôn với một người tên là Gary Lamont, người hiện vẫn giữ kín thông tin. Nhưng đó chỉ là phỏng đoán cho đến thời điểm này.”
Vẫn nhìn đăm đăm vào màn hình TV, cô cảm thấy nước mắt bắt đầu trào lên.
“Và bác sĩ Beck vẫn còn được tự do tối nay?”
“Phải, Terese. Cảnh sát đang yêu cầu sự phối hợp của dân chúng, nhưng họ nhấn mạnh không ai được một thân một mình tiếp cận với hắn.”
Huyên thuyên sau đó. Những lời huyên thuyên vô nghĩa.
Cô quay đi. Rebecca. Ôi Chúa ơi, không phải Rebecca. Và bạn ấy đã kết hôn. Chắc hẳn đã chọn váy cưới và những hoa văn trên sứ và làm tất cả những thứ mà họ từng chế giễu. Làm thế nào? Làm thế nào mà Rebecca lại vướng vào tất cả cái mớ bòng bong này? Rebecca không biết gì cả cơ mà.
Tại sao chúng giết bạn ấy?
Rồi ý nghĩ đó lại đập vào cô một lần nữa: Mình đã làm cái gì?
Cô đã quay lại. Chúng đã bắt đầu tìm kiếm cô. Làm thế nào chúng làm được như thế? Đơn giản. Theo dõi những người mà cô thân thiết. Ngu ngốc. Việc cô quay trở lại sẽ khiến cho tất cả những người cô quan tâm bị nguy hiểm. Cô đã làm mọi thứ rối tung lên. Và bây giờ bạn cô đã chết.
“Chuyến bay 174 của hãng hàng không British Airways khởi hành đi London. Tất cả các hành khách bây giờ có thể lên máy bay.”
Không có thời gian để đổ tội cho bản thân nữa. Nghĩ. Cô phải làm gì? Những người cô yêu thương đang gặp nguy hiểm. Beck – cô đột nhiên nhớ đến cách cải trang ngớ ngẩn của anh – đang chạy trốn. Anh đang chống lại những kẻ có quyền lực. Nếu chúng cố dàn xếp để buộc anh tội giết người – và điều đó giờ phút này là tương đối rõ như ban ngày rồi – anh sẽ không có cơ hội nào cả.
Cô không thể chỉ bỏ đi như thế. Chưa đến lúc. Cho đến khi cô biết Beck được an toàn.
Cô quay lại và hướng về phía lối ra.
Khi cuối cùng nhìn thấy những bản tin truy nã David Beck, Peter Flannery cầm điện thoại lên gọi một người bạn ở văn phòng công tố.
“Ai đảm trách vụ Beck?” Flannery hỏi.
“Fein.”
Một thằng khốn kiếp thực thụ, Flannery nghĩ. “Tôi đã gặp cậu bé của anh hôm nay.”
“David Beck?”
“Phải,” Flannery nói. “Anh ta đến gặp tôi.”
“Tại sao?”
Flannery đẩy cái ghế Barca Lounger ngửa ra sau. “Có lẽ anh nên nối máy cho tôi nói chuyện với Fein.”