Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Những Điều Trường Harvard Thật Sự Dạy Bạn

Chương 1. SỐNG CHẬM

Tác giả: Philip Delves Broughton

Không phải tất cả chúng ta đôi lúc đều cảm thấy mình đang nhảy vọt tới tận cùng thế giới sao?

― Mick Jagger

“Tôi xin tự giới thiệu, tôi là Philip”.

Thầy hiệu trưởng HBS và 90 bạn cùng lớp nhìn chằm chằm vào tôi. Lúc đó, tôi đang cầm trong tay một chiếc sandwich salad gà bẹp dúm. Chúng tôi đã học được vài tuần và vào bữa trưa, thầy hiệu trưởng Kim Clark đến lớp chúng tôi, tự giới thiệu và hỏi han. Thầy là một tín đồ Mormon mộ đạo, gầy nhẳng, gần 60 tuổi, nói chuyện sôi nổi.

“Khi tôi là một giáo sư trẻ, lần đầu bước vào lớp này để giảng dạy, một anh chàng tên Jack ngồi chỗ đó. Bây giờ, anh ta là Jack Brennan, Chủ tịch tập đoàn quản lý đầu tư Vanguard. Còn ngồi đằng kia là Jeff, nguyên cầu thủ bóng đá của đội Darthmouth. Hiện nay, Jeff là CEO của General Electric. Đằng kia nữa là chỗ của Donna, bây giờ Donna Dubinsky đã trở thành CEO của Palm”.

Không khí hào hứng lan truyền khắp lớp. Bạn có thể cảm thấy tiếng xì xào của hoài bão. Chín mươi sinh viên ngồi thành năm hàng hình móng ngựa hướng về bảng đen, tất cả, đều nghĩ: liệu 25 năm nữa mình có được nhắc đến không? Thầy chủ nhiệm khoa của năm 2031 tương lai sẽ nói với cả lớp: “Susan từng ngồi chỗ này. Ngày xưa cô ấy sợ phát biểu trước lớp nhưng hiện đang điều hành quỹ tự bảo hiểm rủi ro lớn nhất thế giới. Tom ngồi chỗ kia đã trở thành CEO của Google. Và Philip. Chà! Người có hàng chục tỷ đô-la?”

Chúng tôi nhìn nhau, tự hỏi.

***

Lần đầu tiên tôi đặt chân đến HBS là một buổi tối oi bức tháng 8 năm 2004. Margret, vợ tôi và con trai một tuổi Augie ở lại New York để chờ nhận đồ đạc được gửi đến từ Pháp, nơi chúng tôi đã sống hai năm rưỡi. Tôi không quen ai trong trường. Lần đầu tiên trong suốt 10 năm, tôi không có sếp, không phải làm việc và không có lương. Khoảng hai trăm sinh viên, những người hầu như không biết gì về kinh doanh được gọi tập trung sớm hơn để học Chương trình dự bị, nhằm theo kịp 700 sinh viên khác sẽ đến đây sau ba tuần nữa. Bảy trăm sinh viên này đã nắm được những kiến thức cơ bản khi sử dụng laptop thuần thục, hiểu rõ các mô hình tài chính và sử dụng thành thạo PowerPoint. Mặt khác, trong năm đầu tiên, chúng tôi sẽ phải trải qua một chương trình học căng thẳng là Chương trình bắt buộc. Vì vậy, chúng tôi được làm quen với phương pháp dạy học dựa trên các điển dụ (các tình huống thực tế) của HBS để khỏi ngỡ ngàng khi bước vào học.

Sau khi đăng ký, tôi được phát một cặp đựng các điển dụ cho tuần đầu và sẽ phải gặp gỡ 15 phút với nhóm của mình tại phòng họp ở tòa nhà Spangler một tòa nhà rộng lớn xây theo kiểu kiến trúc George ở trung tâm khoa. Tôi hồ hởi ra khỏi phòng, ngồi xuống một cái ghế gần sân tennis, rút ra hồ sơ tình huống đầu tiên trong hàng trăm tình huống phải nghiên cứu và bắt đầu đọc. Toàn bộ chương trình học của HBS là nghiên cứu các tình huống điển hình, các tình huống kinh doanh thực tế. Câu hỏi mà bạn phải trả lời trong mỗi tình huống là: Bạn sẽ làm gì trong hoàn cảnh đó? Không có câu trả lời đúng/sai. Trong nhiều tình huống, hành động của những người giữ vai trò quan trọng lại biến thành thảm họa. Điều quan trọng duy nhất là bạn nghĩ gì về vấn đề đó, bạn đối phó thế nào với sự thiếu hụt thông tin và tình trạng bất ổn. Hy vọng là sau khi tính toán hoặc định giá trái khoán, bạn sẽ có cách nghĩ và quyết định sáng suốt. Các giảng viên trong khoa đã soạn ra các tình huống này, dài từ vài trang tới hơn 30 trang. Chúng thường bao gồm một bản tường thuật tình huống ấn tượng, một bản phân tích kinh doanh để thảo luận, các bảng biểu, tranh ảnh và tài liệu cần thiết để minh họa cho vấn đề. Tình huống đầu tiên của tôi như sau: “Ngày xửa ngày xưa, có một lãnh chúa là Nam tước Coburg sống trong một tòa lâu đài trên đỉnh đồi tại một tỉnh nhỏ ở Tây Âu. Ông quản lý nông dân những người cư ngụ trên đất xung quanh lâu đài”.

Nam tước lệnh cho hai nông dân Ivan và Frederick trồng trọt trên hai thửa đất khác nhau. Ông phát cho họ hạt giống, phân bón và bò nhưng bảo họ thuê một cái cày của lão thợ cày Feyador. Một năm sau, họ mang đến số lượng lúa mỳ khác nhau, hai con bò và hai cái cày mòn vẹt. Kết luận: “Sau khi họ ra về, Nam tước bắt đầu suy nghĩ xem việc gì đã xảy ra. “Họ đã làm rất tốt, nhưng ai làm tốt hơn?”, ông nghĩ.

Đây là một tình huống tính toán, và nhiệm vụ của chúng tôi là trả lời câu hỏi của Nam tước bằng cách lập báo cáo lợi tức và bảng quyết toán cho hai trang trại. Vì sao một Nam tước thời Trung cổ, vốn được toàn quyền lựa chọn giữa cướp bóc, cưỡng đoạt và kế toán, lại chọn kế toán? Điều đó khiến tôi bối rối. Nhưng đây là trường HBS, nên Nam tước thời Trung cổ cũng rất khác biệt. Trên sân tennis phía trước, hai sinh viên vừa mới bắt đầu khởi động. Một người quàng một chiếc bandanna xanh , người kia mặc áo phông. Lúc đầu, họ đánh nhẹ nhàng, mỗi người cách lưới vài mét. Tôi ngừng đọc để xem họ đánh bóng, bị cách đánh nhịp nhàng cuốn hút. Dần dần, họ đánh mạnh hơn, cánh tay vụt vào không khí còn quả bóng rơi càng lúc càng gần đường biên. Những cú đập bóng hoàn hảo, luôn nhằm trúng quả bóng đang ngao du trong không khí. Trong cái sân hình chữ nhật, mọi thứ đều rất chính xác. Tôi nhét tờ giấy vào cặp và đi tới Spangler để gặp nhóm của mình.

Ngồi quanh một chiếc bàn lớn màu xanh gồm có hai cựu chiến binh, một cựu nhân viên Văn phòng Thị trưởng Thành phố New York, một nhà tư vấn quản lý người Đài Loan và một phụ nữ tóc vàng hoe vẻ rất bối rối, vừa mới rời công ty quản lý quỹ đầu tư Boston. Hai cựu binh dường như quá lớn so với căn phòng, bắp tay hằn lên chiếc áo phông bó sát, trong khi cô gái tóc vàng có vẻ sợ hãi và nhỏ bé. Justin, anh chàng người New York, hóa ra lại sống cách nhà tôi vài dãy nhà. Rõ ràng chúng tôi đều được sắp xếp nghiên cứu tình huống Nam tước và tất cả bọn họ đều biết rõ những việc phải làm. Họ mở laptop và sẵn sàng làm bài tập. Trước khi đến Harvard, tôi chỉ biết sử dụng Win Word. Tôi chưa từng sử dụng Excel hay PowerPoint. Trong mấy ngày đầu tiên, tôi quyết định sử dụng giấy bút quen thuộc và tập trung vào những gì người khác nói, thay vì cố gắng làm chủ những phần mềm mới. Xét cho cùng, ngay cả J. P. Morgan cũng không biết Excel mà lại điều hành phần lớn nền kinh tế Mỹ đấy thôi. Tôi nhìn lại vấn đề của Nam tước. Vấn đề dường như không có gì phức tạp: vài giạ lúa chỗ này, vài giạ chỗ kia, phân bón, bò, những cái cày mòn vẹt và một địa chủ phong kiến bóc lột.

“Ivan ạ”, sau một lát, tôi xung phong trả lời. Mọi người ngẩng lên. “Ivan làm tốt hơn”.

Tôi nhanh nhẹn giải thích cách tính của mình.

“Anh quên không tính khấu hao những con bò”, cựu lính thủy đánh bộ Jake nói.

Tôi tính toán lại. “Frederick”, lát sau tôi lại nói.

“Anh đã cộng giá trị đầy đủ của cái cày của Ivan vào mục ’giá thành hàng bán‘ chưa?”, Jake lại hỏi.

Lần này tôi quyết định im lặng. Toàn bộ hiểu biết về kế toán của tôi chỉ là những tài liệu được phân công đọc trong mùa hè, mà chúng còn ít ỏi hơn những gì tôi hy vọng.

“Nam tước này là cổ đông hay là người cho vay?”, Jon hỏi. Vừa mới rời khỏi đội quân chiến đấu tiên phong ở vùng bị khủng bố ở Bát-đa, Jon dường như là người ít lo lắng nhất trong nhóm. “Đã có ai tính hao mòn đất bị cằn do bón phân chưa?”

Suốt một giờ sau đó, tôi viết nguệch ngoạc trong khi các con số ong ong trong đầu. “10 kg phân bón đáng giá hai giạ lúa mỳ, một con bò đáng giá 40 giạ. Ivan vẫn nợ Feyador cái cày…”. Các con số cứ trôi bồng bềnh trong đầu tôi. Đầu tiên, Ivan trồng trọt giỏi hơn, sản xuất nhiều hơn Frederick 2/3 giạ lúa/mẫu Anh. Rồi Frederick lại vượt hơn 5/6 giạ.

“Tôi đã tính ra một số hệ số”, cô gái tóc vàng nói. “Doanh thu ròng trên tài sản cho thấy Frederick làm tốt hơn”. Những người khác gật đầu. Nhưng nông dân có bán gì đâu, tôi nghĩ. Họ chỉ nộp tất cả số lúa mỳ cho địa chủ. Vì vậy, có lẽ sự cống nạp phong kiến trên tài sản mới là tỷ lệ tốt hơn. Việc này chẳng đem lại lợi ích gì cả.

Tiếp theo đến “Trường hợp những ngành công nghiệp Mỹ chưa xác định được”. Đây là bước gia nhập đầu tiên của chúng tôi vào lĩnh vực tài chính. Trước khi vào HBS, tôi đã rất sợ môn tài chính. Tôi háo hức được học nhưng lại lo sợ mình sẽ tụt lại so với cả lớp. Buổi tối đầu tiên đó đã không giúp tôi tự tin thêm chút nào. Chúng tôi được nhận một danh sách 12 ngành công nghiệp, từ một công ty hóa chất cơ bản và một chuỗi siêu thị đến một hãng hàng không lớn và ngân hàng thương mại, một tập giấy quyết toán vô danh gồm các tỷ lệ phần trăm và các hệ số. Nhiệm vụ của chúng tôi là ghép chính xác các ngành công nghiệp vào các tờ quyết toán vô danh đó.

Tôi đã biết ý nghĩa thực của các hệ số nhờ đọc tài liệu từ hồi mùa hè. Bạn so sánh các con số trong báo cáo tài chính để nhìn ra chất lượng của một doanh nghiệp. Ví dụ như hàng tồn kho. Các công ty giữ hàng tồn kho thường cố gắng cân bằng giữa chi phí lưu kho và nhu cầu trữ đủ hàng để bán. Điều này cũng giống việc bạn muốn có đủ thực phẩm cho cả nhà nhưng không muốn có quá nhiều đến mức đầy tủ lạnh và thức ăn bị thiu. Nhưng ngược lại, bạn muốn mua một lượng lớn dự trữ để được giảm giá thay vì ngày nào cũng phải mua đắt ở cửa hàng góc phố. Hay bạn là người sành ăn và thích mua thực phẩm tươi mỗi ngày? Vấn đề là mỗi gia đình có cách kiểm soát thực phẩm dự trữ khác nhau. Để phân tích cách quản lý kho hàng trong một báo cáo tài chính, bạn phải bắt đầu với những con số “giá vốn hàng bán” và “hàng tồn kho”. “Giá vốn hàng bán” (COGS) là trị giá hàng mà nhà sản xuất đã bán trong một thời gian nhất định. Còn “hàng tồn kho” là trị giá hàng mà nhà sản xuất chờ đợi bán. Chia COGS cho hàng tồn kho và bạn sẽ biết được tốc độ luân phiên hàng của công ty. Tỷ lệ này bằng 1 nghĩa là công ty trữ một lượng hàng vừa đủ để bán trong khoảng thời gian quyết toán. Trong thị trường thực phẩm tươi sống, với một tờ quyết toán một năm, tỷ lệ này sẽ rất lớn vì hàng được bổ sung hàng ngày. Nhưng trong thị trường đá quý cao cấp, tỷ lệ này thấp hơn 1 vì mỗi sản phẩm phải chờ rất lâu mới có người mua.

“Siêu thị sẽ có tốc độ quay vòng hàng lớn nhất”, Jon nói.

“Hoặc người đóng gói thịt”, Jake trả lời.

“Ngân hàng thương mại có lẽ sẽ có tài sản lưu động và nợ lớn nhất do việc gửi và rút tiền”, anh chàng người Đài Loan nói. Tôi có thể nói Justin cũng bị bế tắc chẳng kém gì tôi, dựa vào cách anh ta liên tục gãi đầu và cằm.

“Hừm”, tôi kêu lên. “Tớ đang tự hỏi ai có thể kiếm được 16,7% lợi nhuận biên. Các cửa hàng đá quý chăng?” chỉ là tôi đang cố gắng nói một cái gì đấy.

Mọi người đều xem xét các con số, cố gắng tìm ra ý nghĩa. Chúng tôi nhìn vào hệ số nợ/tài sản. Một công ty có nhiều tài sản cố định, ví dụ các nhà máy, rất có khả năng mắc nợ nhiều hơn một hãng quảng cáo tài sản chính của hãng quảng cáo chỉ là con người. Một trong những điểm kém hấp dẫn nhất và thiếu sót lớn nhất của kế toán doanh nghiệp là coi con người chỉ là chi phí trong báo cáo thu nhập mà chưa bao giờ coi đó là tài sản trong bảng quyết toán. Khác với một nhà máy, con người có thể ra đi bất kỳ lúc nào, vì vậy, ngân hàng thường miễn cưỡng cho các hãng quảng cáo, công ty luật và văn phòng kiến trúc sư vay tiền.

Chúng tôi liếc nhìn hệ số doanh thu ròng/tài sản ròng, cố gắng tìm ra công ty nào có doanh thu cao nhất từ tài sản của họ. Công ty quảng cáo, chẳng có gì ngoài văn phòng thuê và một ít tài sản, lại có tỷ lệ này cao, nghĩa là có doanh thu cao từ ít tài sản, trong khi tỷ lệ này thấp hơn ở các nhà máy. Sau một giờ, chúng tôi xác định được một nửa số công ty. Sau hai giờ, con số đã lên tới tám công ty. Khi giờ thứ ba trôi qua, ngỡ như thể chúng tôi chẳng bao giờ hoàn thành được bài tập. Ngay khi chúng tôi nghĩ rằng đó là ngành hàng không, thì nó lại dường như cũng giống ngành sản xuất ô tô. Cũng có thể đó là nhà sản xuất y phục nam nổi tiếng?

Tôi bắt đầu cảm thấy tác động làm hao mòn sinh lực của ánh đèn huỳnh quang, nỗi khó chịu mơ hồ vì mùi mỳ Trung Quốc bốc ra từ sọt rác, sự khô hanh và làn da ngứa ngáy. Một nửa số sinh viên trong phòng đang kiểm tra email và lướt Web, đó là lý do vì sao câu hỏi được nêu ra một lúc sau mới nhận được câu trả lời. Qua cửa sổ, tôi nhìn thấy cái bóng to lớn của sân vận động Harvard in trên nền trời đêm xanh đen. Cuộc thảo luận bắt đầu thật sôi động giờ chậm lại như ru ngủ. Lời nói và suy nghĩ của chúng tôi trở nên chậm chạp. Khi chúng tôi ra về thì đã gần nửa đêm.

Khi tôi đi ra ga-ra, thời tiết vẫn còn nóng và nhiều sương. Căn hộ của chúng tôi ở khu Tây Cambridge, cách trường 10 phút đi xe. Đường phố không một bóng người và đây là lần đầu tiên sau 10 năm tôi không sống trong một thành phố lớn. Nằm ngủ trong một căn hộ trống không ở một thành phố mới quen quả là bất an. Cuộc sống của tôi đã gắn với trường học và căn phòng này với một tấm đệm hơi trên sàn và một cái bàn ăn ngoài trời mang về từ Costco. Tôi nằm đó, lắng nghe từng tiếng động nhỏ, một cành cây cào vào cửa sổ, những chiếc ô tô đi qua ngoài phố, ánh đèn pha chiếu lên trần nhà. Đêm đó, phải mất nhiều giờ tôi mới ngủ được và một câu hỏi duy nhất quanh quẩn trong đầu: Tôi đã làm gì thế này?

***

Bảy giờ sáng hôm sau, chúng tôi trở lại “trận chiến”. Các hội trường trong tòa nhà Spangler đông nghẹt sinh viên khoa Toán đang “chiến đấu” với bài tập xác định các ngành công nghiệp. Họ hào hứng làm bài tập này. Phòng học như rung lên khi chúng tôi thảo luận về biên lợi nhuận và hệ số nợ. Tôi nghe thấy ai đó nói với giọng hách dịch rằng ngân hàng có xu hướng nợ những khoản ngắn hạn khổng lồ hay nói cách khác là tiền trong tài khoản khách hàng, mà họ có thể rút bất kỳ lúc nào – và có những khoản thu lớn tương đương, tức là tiền cho khách hàng vay. Đối với các ngân hàng, các khoản cho vay là tài sản, còn tiền giữ cho khách lại là nợ. Phải một lúc sau tôi mới hiểu được kết luận thẳng thắn này. Tiền họ có là nợ, tiền trao đi là tài sản. Nhưng ngay khi hiểu ra điều này, tôi nhìn vào những ngành vẫn chưa xác định được và nó bật ra trong đầu tôi, đó là ngân hàng! Cuối cùng tôi đã có cái để chia sẻ với nhóm, tôi lao vào phòng với khám phá của mình, nhưng họ cũng đã tìm ra rồi.

***

Trong trường có hai tòa nhà chính làm lớp học là Aldrich và Hawes, gồm 30 phòng học giống hệt nhau. Aldrich được đặt theo tên của Thượng nghị sĩ có bộ ria rậm rạp Nelson Aldrich của bang Rhode Island, có cô con gái kết hôn với John D. Rockefeller , còn Hawes được đặt theo tên của Jr. Rod Hawes tốt nghiệp HBS năm 1969 và phát đạt trong ngành bảo hiểm. Ông đã gây dựng và bán lại Life Re Corporation of America, sau đó dùng phần lớn tài sản cho mục đích từ thiện. Trong mỗi phòng có 90 ghế được bố trí cao dần, xếp thành 5 dãy hình bán nguyệt và có hai lối đi. Chỉ một vài phòng có cửa sổ nhìn ra sân. Ngồi trong căn phòng không cửa sổ, bật điều hòa và chiếu sáng chói chang như thế này giống như ngồi trong sòng bạc, không còn cảm giác gì về thế giới bên ngoài, không bị thời gian và thiên nhiên chi phối. Mỗi người có một khoảng rộng bằng hai chiếc máy tính xách tay dọc một chiếc bàn cong và một cái ghế xoay bọc vải đỏ tía. Chúng tôi phải để một tấm thẻ trắng được ép plastic in tên mình vào một khe phía trước chỗ ngồi để giáo viên có thể biết tên chúng tôi. Ổ cắm máy tính nằm phía dưới bàn. Ngồi bên phải tôi là Laurie, bang Alaska, thạc sĩ hóa học, từng điều hành trung tâm nghiên cứu của một công ty công nghệ sinh học. Bên trái tôi là Ben, từng làm ở Ban Quản lý Công viên của thành phố New York. Hai tuần đầu, Laurie rất lo sợ. Mặc dù rất thông minh nhưng cô rất sợ bị giảng viên gọi. Cô nói, nếu cho cô một phân tử, cô có thể phân tích, rồi tái tạo nó. Nhưng nếu hỏi cô về một hệ số kế toán, cô sẽ làm rối tung. Ben điềm tĩnh hơn nhiều. Anh có râu, đi xăng-đan và đã đi bộ suốt hai tuần trước đó dọc theo con đường Appalachia. Cũng như tôi, Ben dị ứng với máy tính nên ghi chép bằng giấy bút. Nhưng rõ ràng anh có một trí tuệ rất logic và sáng suốt, thích hợp với nơi này. Anh chàng lính thủy đánh bộ khá thấp và tóc rất dày. Vài giờ một ngày trong suốt hai tuần tiếp theo, những cơ bắp khác thường của anh ta uốn cong và giật giật chỉ cách mặt tôi vài chục xăng-ti-mét khiến tôi không thể tập trung vào chi phí vốn trung bình và cây quyết định.

Giảng viên đứng ở dưới sàn, có một cái bàn, ba bộ bảng đen và một máy chiếu để giảng dạy. Những người năng động hơn có thể dùng băng video và chương trình Gizmo. Sinh viên có thể biểu quyết cho bất kỳ vấn đề nào bằng cách ấn vào một nút trên bàn, đỏ hoặc xanh, và ngay lập tức nhìn thấy kết quả trên màn hình trước mặt. Giảng viên có thể tiến gần đến sinh viên hoặc lên, xuống dọc lối đi và giữa các hàng ghế.

HBS tiếp nhận phương pháp giảng dạy bằng điển dụ từ Trường Đại học Luật Harvard. Đầu buổi học, giảng viên chỉ định một sinh viên trình bày tình huống mà chúng tôi đã chuẩn bị từ hôm trước khoảng 5-10 phút. Sau đó, tất cả các sinh viên đều được giơ tay để phát biểu. Đó có thể là một câu hỏi, một câu trả lời hoặc một ví dụ từ kinh nghiệm của chính họ để làm sáng tỏ vấn đề. Yêu cầu duy nhất là ý kiến đó phải nhằm nâng cao kiến thức của cả lớp.

Giảng viên đầu tiên của chúng tôi, thầy David Hawkins, là một người Australia chất phác, từng tham dự môn bơi ở Thế vận hội Olympic đầu thập niên 1950, nay vẫn còn bờ vai lực lưỡng và mái tóc hoe vàng của một người cứu hộ ở bãi biển Bondi. Bước vào lớp, thầy mở tờ Wall Street Journal ra và đọc to câu chuyện ở trang nhất. Đó là câu chuyện về một công ty bị yêu cầu kê khai lại thu nhập do nhiều năm sai phạm kế toán. Thầy dựa vào cạnh bàn, ngả người ra sau, miệng há ra khi suy nghĩ. Một tay thầy cầm tờ giấy sột soạt, ghi nguệch ngoạc về bài học hôm đó, tay kia là một viên phấn vàng. “Các anh chị thấy đấy”, thầy nói sau một thoáng ngập ngừng, “việc tính toán thật sự là vấn đề. Giờ ta quay lại với vị Nam tước”. Thầy khom vai và đi loanh quanh, kéo lê một chân, trông rất giống Nam tước. “Chỉ ra người nông dân nào làm tốt hơn rất khó phải không?” Một cảm giác nhẹ nhõm lan tỏa khắp lớp. Khi các sinh viên được gọi lên để giải thích cách làm của mình mới rõ là không ai giải quyết được vấn đề. Nhưng thực ra điều quan trọng lại không phải là giải quyết vấn đề. Thầy Hawkins giải thích, mục đích của tình huống này là để chứng tỏ: rút ra sự thật kinh tế từ một tình huống tưởng chừng đơn giản nhất khó khăn như thế nào. Trong kế toán, tuân theo lẽ thường quan trọng hơn là bám vào các quy tắc.

Trong Chương trình dự bị, giáo viên dạy không quá sâu sát như Chương trình bắt buộc, nhưng lịch học thì vẫn thế. Chúng tôi được yêu cầu dành ít nhất hai tiếng để chuẩn bị trước cho mỗi tình huống thảo luận trên lớp. Ngoài kế toán, Chương trình dự bị còn có những môn học về tài chính, quản lý hoạt động và công nghệ. Đó là những môn phải tính toán nhiều nhất mà chúng tôi bắt buộc phải học trong năm đầu tiên.

Sau giờ của thầy Hawkins là môn tài chính của thầy Mihir Desai một giáo sư Ấn Độ trẻ, cao và lịch lãm, có những ngón tay dài và thanh tú. Thầy giành được cảm tình của chúng tôi ngay khi đề cập các khái niệm tài chính rất đơn giản. Trong tiết học của thầy, chúng tôi không phải nhìn chằm chằm vào máy tính và hoàn thành các bảng tính. Chúng tôi học tài chính theo cách rất dễ hiểu. Thầy Desai luôn chỉ trích mạnh mẽ những từ ngữ khó hiểu của phố Wall (giới tài chính Mỹ) và khuyến khích chúng tôi rũ bỏ tất cả những định kiến, nếu có. Chúng tôi được học những điều cơ bản nhất trong môn tài chính.

Tôi tình cờ gặp Justin vào bữa trưa. Anh lớn lên ở New York, cha anh điều hành một doanh nghiệp đầu tư thành công. Sau khi tốt nghiệp đại học, anh dạy học ở Los Angeles cho tổ chức Teach for America và sau đó làm việc ở Văn phòng Thị trưởng thành phố New York. Anh đến HBS chỉ vì những người mà anh khâm phục trong ngành dịch vụ công đều xuất thân từ lĩnh vực kinh doanh. Một tấm bằng MBA sẽ có ích, bất kể anh chọn làm gì tiếp theo. Tôi hỏi anh đã biết sẽ làm gì tiếp theo chưa.

“Chưa”, anh trả lời. “Tôi đang xem xét. Nếu anh nghĩ ra cái gì thì nói cho tôi nhé”. Chúng tôi nghe thấy xung quanh những đoạn đối thoại tương tự. Bạn từ đâu đến? Trước đây bạn làm gì? Vì sao bạn đến đây?

Sau bữa trưa, chúng tôi học môn quản lý hoạt động và công nghệ của cô Frances Frei. Cô là một phụ nữ nghị lực, có mái tóc nâu xù, mặc áo sơ-mi và quần tối màu. Buổi đầu tiên, chúng tôi làm việc với cô liên quan đến việc xây dựng cây quyết định, đây là phương tiện để dự đoán kết quả của một quyết định đầu tư. Nếu tôi khoan tìm dầu mỏ ở một địa điểm, tôi phải chi phí 10 triệu đô la và có thể xảy ra hai khả năng. 30% khả năng không tìm thấy gì và 70% khả năng tìm thấy mỏ dầu trị giá 20 triệu đô-la. Nhân số phần trăm với khả năng sẽ được 0 hoặc +14 triệu đô-la. Vì thế, giá trị ước tính của vụ đầu tư này là 14 triệu đô-la trừ 10 triệu đô-la chi phí khoan, được 4 triệu đô-la. Lợi ích của cây quyết định phụ thuộc vào độ chính xác khi bạn ước đoán các khả năng. Nhưng mục đích của cây quyết định không phải để tìm kiếm sự chắc chắn mà để đối phó dễ dàng hơn với sự không chắc chắn nhằm tìm ra một điểm tựa dù mong manh khi phải ra quyết định tài chính.

Tiết học sau, cô Frei thúc ép chúng tôi học phép phân tích hồi quy, phương tiện đánh giá tầm quan trọng của các nhân tố khác nhau đối với một kết quả cụ thể. Tình huống chúng tôi nghiên cứu là một ngân hàng dựa vào dữ liệu khách hàng để quyết định cần làm gì với các dịch vụ trực tuyến. Ngân hàng đã biết mọi thông tin về khách hàng, từ ngày sinh và mã số thuế đến mức số dư trung bình trong tài khoản và tình hình sử dụng các dịch vụ ngân hàng trực tuyến. Cô Frei yêu cầu chúng tôi sử dụng Excel để tổ chức và vẽ đồ thị các số liệu này nhằm xây dựng các mô hình ứng xử của khách hàng. Nếu họ ở gần một chi nhánh ngân hàng, liệu họ có đến đó thường xuyên hơn không? Tuổi tác có ảnh hưởng đến khả năng sử dụng các dịch vụ trực tuyến không? Ảnh hưởng ở mức độ nào? Cách ứng xử của khách hàng ở các vùng khác nhau có khác nhau không? Ngân hàng muốn dùng các dữ liệu này để quyết định số tiền đầu tư cho các dịch vụ trực tuyến tiếp theo, chi phí cho chúng thấp hơn chi phí cho các chi nhánh. Là người hoàn toàn lạ lẫm với Excel, tôi mất rất nhiều thời gian mới tổ chức được hàng nghìn ô dữ liệu thành các đồ thị rõ ràng. Nhưng ngay cả khi phải đánh vật với bài tập, tôi vẫn cảm thấy càng ngày càng hứng thú với những điều học được ở đây. Vì sao ngân hàng lại gửi thư từ cho tôi khác với hàng xóm của tôi? Tôi nên đầu tư bao nhiêu tiền vào một dự án mà không chắc chắn kết quả. Dành phần lớn cuộc đời mình để tái hiện cuộc sống bằng ngôn từ, tôi thật sự sửng sốt khi chứng kiến sức mạnh của các con số, mô hình và công cụ thống kê. Tôi thấy mình thật ngu dốt, và viễn cảnh mất hai năm để có được một tiền đồ hoàn toàn mới mẻ đã tiếp thêm sinh lực cho tôi.

Ngày cuối cùng của Chương trình dự bị, các nhóm được đọ sức với nhau trong một cuộc đàm phán tài chính. Chủ đề là mua lại một công ty máy kéo, và nhóm chúng tôi là bên mua tiềm năng. Buổi tối chúng tôi gặp nhau, vạch chiến lược, cố gắng quyết định nên mua với giá bao nhiêu. Hôm sau, một số nhóm còn mặc lễ phục. Trong nhóm chúng tôi, các anh lính gánh trọng trách và là những nhà đàm phán có sức thuyết phục và nhà chiến thuật táo bạo. Chúng tôi đã đàm phán rất thành công. Thời gian cuối Chương trình dự bị, tôi bị kiệt sức. Mỗi ngày, tôi học từ 7 giờ sáng tới tận nửa đêm chỉ để theo kịp chương trình. Tôi đã rất vui vì có gia đình bên cạnh. Nhưng tôi cũng mệt mỏi và hay gắt gỏng. Tôi đã được cảnh báo trước về cái bong bóng của HBS: ngay cả những nhiệm vụ tầm thường nhất cũng khoác một tầm vóc lố bịch, đó hoàn toàn là sự thật. Và đây chỉ là cuộc tổng duyệt.

***

Năm đầu của chương trình đào tạo MBA hai năm của HBS được gọi là Chương trình bắt buộc (RC), gồm 10 môn học, mỗi học kỳ 5 môn, bao gồm những kiến thức cơ bản của kinh doanh. Các môn học của học kỳ đầu tiên là: tài chính 1, kế toán, marketing, điều hành và ứng xử trong tổ chức. Học kỳ 2 gồm có: tài chính 2, đàm phán, chiến lược, khả năng lãnh đạo và trách nhiệm của doanh nghiệp (LCA) và một môn kinh tế vĩ mô, gọi là kinh doanh, chính phủ và kinh tế quốc tế, được gọi chung là “Biggie” (nghĩa là “Ông lớn”). Trong năm thứ hai, hay còn gọi là Chương trình lựa chọn (EC), chúng tôi có thể tùy chọn môn học hoặc nghiên cứu độc lập.

Chúng tôi được xếp loại theo một đường cong giới hạn, dựa trên thành tích của bản thân so với những người khác. Đỉnh đường cong là những người ưu tú, đáy là những người yếu kém. Ở mỗi môn, 50% xếp loại của chúng tôi phụ thuộc vào mức độ tham gia buổi học, chất lượng và số lượng các phát biểu trong giờ học. 50% còn lại dựa vào thành tích các bài thi giữa và cuối kỳ. Được nửa học kỳ, giảng viên sẽ đánh giá những đóng góp của chúng tôi cho lớp, nhờ đó chúng tôi biết mình làm việc như thế nào. Trong hai năm, 5% sinh viên đứng đầu lớp sẽ nhận được Học bổng Baker, đó là vinh dự cao nhất trong học tập. 15% tiếp theo sẽ nhận được các phần thưởng khác. Khi kết quả học tập thấp hơn mức trung bình, bạn sẽ được cảnh báo. Nếu kết quả học tập liên tục kém, bạn sẽ bị đình chỉ hoặc đuổi học. Nếu bạn tham gia đầy đủ các buổi học, chuẩn bị trước các tình huống nghiên cứu, chăm chỉ phát biểu thì không phải lo lắng về điều đó. Tôi luôn tự hỏi mình sẽ phải cạnh tranh như thế nào với những sinh viên này khi tôi không có chút kinh nghiệm kinh doanh nào, còn họ đã tốt nghiệp các trường đại học về tài chính hoặc kinh doanh và đã có nhiều năm mài giũa kỹ năng?

Lần đầu tiên tôi gặp đầy đủ lớp là cuối tháng 8, khi mọi người đến học kiến thức cơ sở trong một tuần để có thể tham gia Chương trình bắt buộc dễ dàng hơn. Chúng tôi tập trung trong phòng Burden Foundation một phòng lớn giống như một cái hang, bị che khuất một nửa ở trung tâm khuôn viên của khoa với những chỗ ngồi dốc cheo leo hướng xuống một sân khấu. Thầy Rick Ruback, Giám đốc Chương trình bắt buộc người thấp, vai u, nói giọng Boston đang đứng trên bục giảng. Thầy nói rằng khóa chúng tôi có 895 sinh viên, được chọn từ 7.100 đơn đăng ký, tỷ lệ được tiếp nhận là 12,6%, như vậy, chúng tôi rất may mắn vì được nhận vào đây. 34% số sinh viên là nữ, 32% đến từ các nước khác. Độ tuổi trung bình là 27 khiến cho tôi, đã 32 tuổi, thuộc loại già của lớp.

Thành phần sinh viên gồm có vận động viên Olympics, các nhà tư vấn, các nhà hoạt động xã hội, nguyên trợ lý của J. Paul Bremer toàn quyền Mỹ của Chính quyền Liên hiệp Lâm thời tại Iraq và một MBA Harvard, thậm chí ngay cả “nguyên trưởng văn phòng tờ Daily Telegraph tại Paris” là tôi.

Tiếp theo là thầy hiệu trưởng. Tôi đã đọc tiểu sử của thầy trên website của trường. Thầy đến Harvard khi còn là sinh viên, giành được học vị tiến sĩ và thăng tiến qua nhiều vị trí trong trường này. Thầy từng là huynh trưởng hướng đạo sinh, giám mục Mormon và có 7 con. Thầy ngoắc một chiếc kính có mắt hình bán nguyệt vào sợi dây chuyền đeo trên cổ và nói bằng giọng thì thầm buồn bã. Thầy tâm sự về mục đích của trường và cho chúng tôi ba lời khuyên: làm việc chăm chỉ; khiêm tốn, hay đúng hơn là “rèn luyện thói quen khiêm tốn” và đừng sợ sệt khi gặp thầy trên phố hay trong khoa.

Sau thầy Clark, đến bài phát biểu của Margia Yang, CEO Esquel một nhà sản xuất áo sơ-mi ở Hồng Kông. HBS đã từng phải đánh giá lại cách dạy đạo đức kinh doanh của trường khi tập đoàn Enron sụp đổ dưới sự lãnh đạo của một trong những MBA được chào đón nồng nhiệt nhất, Jeff Skilling. Bài phát biểu của Yang cũng tập trung vào đạo đức kinh doanh. Đôi khi cần vi phạm đạo đức để sống sót. Quan điểm lớn hơn của bà là: đạo đức kinh doanh là thích nghi theo cách càng tử tế càng tốt với hoàn cảnh luôn thay đổi thay và tuân thủ những quy tắc chặt chẽ. Đạo đức kinh doanh là một khái niệm động chứ không phải tĩnh, và đừng phán xét về vấn đề này trừ phi bạn kinh doanh ở một nơi như Trung Quốc.

Cuối cùng, một sinh viên năm thứ hai đứng lên chào mừng và nhắc lại tầm quan trọng của các giá trị đối với tương lai của chúng tôi trong ngành kinh doanh. Anh nói chỉ cần được nhận vào HBS tức là “Bạn đã thành công”. Từ nay trở đi, tất cả những gì chúng ta quan tâm là làm chủ cuộc đời mình như thế nào.

Từ phòng Burden, chúng tôi đi bộ tới phòng học môn đầu tiên trong Chương trình bắt buộc là môn lãnh đạo. Tình huống mà chúng tôi nghiên cứu hôm đó là một công ty sản xuất kem nhỏ thuộc sở hữu gia đình, giám đốc công ty đang gặp rắc rối. Thuộc cấp không đồng lòng, lợi nhuận của công ty đang rơi tự do. Bầu không khí trong lớp đã thay đổi rất nhiều kể từ khi học Chương trình dự bị. Ai cũng tràn đầy tự tin, hăng hái phát biểu để lấy điểm. Thời kỳ ăn nói màu mè trong lớp học bắt đầu. Bây giờ sinh viên nói “học phần” thay cho bài học, “vị lai” thay cho tương lai, và “xây dựng sự đồng thuận” thay cho đồng ý. Tôi luôn khó chịu khi cuộc nói chuyện lại biến thành xây dựng sự đồng thuận, nó giống như khúc dạo đầu cho sự thỏa hiệp buồn thảm của nhóm.

Ngày hôm sau, chúng tôi chơi trò “Lời chúc mừng đỏ thắm”, được mô tả là “một trò chơi mang lại hứng thú cho mọi môn học”. Lớp được chia thành 6 hoặc 7 nhóm, mỗi nhóm khoảng 10 người, sẽ cạnh tranh nhau trong việc xây dựng và điều hành một doanh nghiệp sản xuất thiệp chúc mừng. Mục tiêu là điều hành doanh nghiệp sao cho có lãi nhất. Chúng tôi phải mua nguyên vật liệu, kiểm soát kho hàng, thiết kế và sản xuất thiệp, quyết định giá rồi bán chúng trong những khoảng thời gian đã định trong hai ngày sau đó. Sau mỗi buổi bán hàng, mỗi đội cùng một giảng viên sẽ định lượng, đánh giá và thảo luận về hoạt động của mình. Tuy nhiên, mục tiêu học tập chỉ đứng vị trí thứ hai trong bài tập này, mục tiêu lớn hơn là để sinh viên làm quen với nhau.

Khởi đầu buổi học, chúng tôi được xem một đoạn băng video. Trong băng, một người đàn ông Anh thô lỗ nói với giọng đe dọa: “Nhiệm vụ của bạn là triển khai hoạt động của một công ty thiệp chúc mừng và làm cho nó có lãi”. Sau đó, chúng tôi sang phòng tập thể dục bên kia đường, đối diện với trường. Căn phòng lèn chặt 895 sinh viên tham gia trò chơi này trở nên huyên náo như rừng rậm châu Phi. Sư tử gầm, chim quàng quạc, tinh tinh đấm ngực và cá sấu táp. Nhóm chúng tôi có ba nhà tư vấn quản lý đến từ Áo, Indonesia và Canada, một nhân viên ngân hàng người Hàn Quốc đến từ Los Angeles, một người Trung Quốc kinh doanh giày đến từ Texas, một nhân viên ngân hàng trung ương Argentina, một kỹ sư Argentina, một nhân viên ngân hàng đầu tư người Mỹ gốc Li-băng, một nhà điều hành công nghệ sinh học đến từ Boston, và Linda một phụ nữ nhỏ bé, cau có, người New York, từng là nhà tư vấn quản lý và quản lý một công ty phần mềm nhưng người ta nói niềm đam mê thật sự của cô là bình đẳng giới và chủng tộc.

Nhiệm vụ đầu tiên của chúng tôi là phân công công việc. Linda chộp lấy quyền điều khiển. Cô nói cô là chuyên gia đàm phán, vì thế cô sẽ mua nguyên liệu và giúp bán hàng. Gunther, người Áo, cũng theo Linda. Những người còn lại chia nhau các việc sản xuất và phân phối. Một người sẽ kiểm tra chất lượng. Một người khác phải đảm bảo thiệp được giao nhận kịp thời. Tôi tình nguyện tham gia nhóm sản xuất thiệp với hai người Argentina và anh chàng người Mỹ gốc Li-băng bao gồm cắt giấy, phết hồ, rắc kim nhũ và viết lời chúc.

Đầu tiên, chúng tôi phải thiết kế một tấm thiệp Giáng sinh. Chúng tôi quyết định chọn một mẫu vẽ đơn giản nhưng trang nhã để có thể sản xuất nhanh. Chúng tôi vẽ một cái cây hình tam giác, điểm bằng nhũ bạc, bên trong thiệp là lời chúc thông thường “Chúc mừng Giáng sinh”. Linda chạy vội đi mua vật liệu dự trữ trong khi nguyên vật liệu sản xuất thiệp bày ngổn ngang trên bàn. Tôi đứng ở một đầu bàn, cắt giấy thành các tấm thiệp. Hai người Argentina đứng trong tư thế sẵn sàng rắc nhũ và viết lời chúc, còn nhà quản lý ngân hàng người Mỹ gốc Li-băng cầm một cái bút màu xanh để vẽ cây. Các bạn khác trong nhóm vây quanh chúng tôi, chuẩn bị để đưa vật liệu, giao hàng, theo dõi kho hàng, tài khoản, thời gian và kiểm tra chất lượng. Một tiếng còi vang lên và chúng tôi bắt đầu. Tôi cắt giấy nhanh hết sức, các bạn người Argentina hối hả rắc nhũ. Trong nửa giờ sau, chúng tôi làm ra hàng loạt thiệp cho đến khi tiếng còi lại vang lên. Sau đó, chúng tôi đi sang phía kia phòng để nói chuyện và nghỉ ngơi, còn những người tổ chức xem xét bàn chúng tôi và ghi lại thành quả.

Linda ngồi bắt chéo chân cáu kỉnh. Rõ ràng cô đang thất vọng. “Nhóm bên cạnh chúng ta giao được nhiều thiệp hơn”, cô nói, “và chúng ta đã lãng phí rất nhiều vật liệu. Chúng ta phải miệt mài sản xuất mới tăng được số lượng”. Hai người Argentina nhìn tôi và sắp sửa phì cười. Nhưng chúng tôi đã nghiêm túc gật đầu.

“Chất lượng không tốt”, Linda vừa nói vừa liếc danh sách trên bìa cặp hồ sơ cô đã mua bằng tiền mua vật liệu của chúng tôi. “Và chúng ta đã không kịp giao một lô thiệp ngay trước khi trò chơi kết thúc. Chúng ta cần phải cố gắng hơn”. Hai người Argentina, Raphael và Ernesto, thì thầm với nhau. Linda giơ một ngón tay nhỏ xíu lên.

“Chúng ta cần nói chuyện.”

Họ im lặng.

Gunther nhỏm dậy và bắt đầu: “Chúng ta cần nghĩ đến bài thuyết trình khi kết thúc trò chơi đi thôi, phải không nào. Tôi nghĩ chúng ta cần lập một biểu đồ, trục x là thời gian, trục y là thành quả về tài chính để thể hiện chúng ta đã nâng cao thành tích như thế nào”.

Linda ngước nhìn Gunther trìu mến. Cuối cùng đã có ai đó hiểu ra vấn đề.

“Anh ta nói trục y là cái gì?”, người phụ nữ Indonesia huých vào sườn tôi.

“Thành quả về tài chính”, tôi thì thầm đáp lại.

“Này, các bạn có muốn chia sẻ không?”, Gunther nói, quay lại nhìn chúng tôi chằm chằm.

“Nếu đã nói chuyện, các bạn phải nói với cả chúng tôi”, Linda tươi cười tán thành.

Vòng hai của trò chơi là làm thiệp cho ngày lễ Hallowen. Trong khi chúng tôi đang cố gắng nghĩ ra lời chúc hay, lần đầu tiên kể từ khi đến HBS, tôi đã nảy ra một ý tưởng.

“Chúc mừng Lễ hội hóa trang!” Câu đó vừa thích hợp lại vừa dễ viết. Ý kiến này được chọn. Lần này việc sản xuất thiệp diễn ra nhanh hơn nhiều, nhưng Linda vẫn cau có đi vòng quanh bàn. Khi chúng tôi làm xong lô đầu tiên, cô cầm lên, liếc qua rồi giận dữ ném xuống mặt bàn và quát lên : “Cái gì thế này?!” Sau đó, do đàm phán không tốt, cô đã đem về cho chúng tôi phôi và bút vẽ không đúng chủng loại. Một phụ nữ Canada, từ đầu đến giờ vẫn im lặng, bắt đầu lẩm bẩm chửi rủa.

Trong giờ giải lao tiếp theo, Gunther lại đứng vị trí bên cạnh bảng. “Chúng ta phải lập một biểu đồ Gantt!”, anh ta tuyên bố.

“Một biểu đồ Gantt ấy à!”, Linda la lên, cười sặc sụa.

“Biểu đồ Gantt là cái gì?”, tôi hỏi Raphael. Anh nhún vai.

“Đó là một biểu đồ cột dùng để sắp xếp chương trình làm việc của một dự án”, anh chàng người Indonesia nói.

Không may, một cuộc nổi loạn đã xảy ra sau đó. Cuối cùng, vị cứu tinh trong lĩnh vực sản xuất của chúng tôi là Ernesto, vì sở trường của anh là làm thủ công. Sau hai vòng, anh có thể sản xuất nhanh chóng hàng loạt thiệp rất đẹp. Anh hướng dẫn chúng tôi một vài mẹo cắt, gấp giấy cơ bản và chúng tôi lại bắt đầu. Đến lúc thuyết trình, Linda và Gunther vạch ra những biểu đồ thời gian và quy trình phức tạp đến nỗi hoàn toàn quên mất nhiệm vụ chính của chúng tôi. Họ không thể trình bày rõ ràng rằng chúng tôi đang sản xuất thiệp chúc mừng. Trong khi đó, hai bạn người Canada và Hàn Quốc chuẩn bị phần trình bày của họ, nó còn có ý nghĩa hơn nhiều. Vì tôi nói giọng Anh và có chút kinh nghiệm thuyết trình trước đám đông nên mọi người gợi ý tôi cùng anh bạn người Trung Quốc thuyết trình thay nhóm. Khi được hỏi đã thu được gì từ bài tập này, tôi trả lời đó là được giao tiếp với nhiều người và mô tả khoảnh khắc mà tôi, một người Anh, thảo luận với một người Indonesia và hai người Argentina về lý do chọn “Lễ hội hóa trang” để đưa vào thiệp Halloween.

Linda và Gunther đã cho tôi thấy chỉ cần hai người cố vấn là đủ làm rối tung một dự án. Một người làm cho mọi người phát điên lên, còn người kia cười nhạo những trò hề của người này. Cuối ngày thứ hai của trò chơi này, tôi tình cờ gặp Justin và chúng tôi trao đổi những ghi chép của mình. Tôi kể cho anh ta nghe về lời nhận xét xúc phạm của Linda.

Anh ta nói : “Tổ chức nào cũng có người như vậy. Họ luôn đi lạc đề nhưng cứ khăng khăng buộc mọi người phải im lặng lắng nghe mình.”

***

Sau trò chơi “Lời chúc mừng đỏ thắm”, chúng tôi quay lại lớp để học buổi đầu tiên về nguồn gốc của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Ngồi bên phải tôi là một phụ nữ tóc vàng hoe yểu điệu, đã làm việc cần mẫn ba năm tại một công ty cổ phần tư nhân có trụ sở tại New York chuyên hoạt động trong lĩnh vực bất động sản. Cô nói cô tới HBS chỉ để được nghỉ ngơi. Cô không hy vọng học được gì nhiều, mà chỉ chờ đợi được ngủ, thoát khỏi công việc và có thời gian nghỉ việc dài hơi. Người bên trái tôi nguyên là một nhà báo trong lĩnh vực tài chính, thường tỏ vẻ thờ ơ bằng cách không bao giờ mang theo sách học nhưng suốt buổi học lại thì thầm bình phẩm với tôi. Trong một buổi học, chúng tôi học về lịch sử hãng Roll-Royce và tình hình chủ nghĩa tư bản tại Anh hiện nay. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, hãng Roll-Royce được kêu gọi sản xuất hàng loạt máy bay và vũ khí chiến đấu. Chỉ trong vòng vài tháng, họ đã tập hợp được một mạng lưới rộng lớn các nhà thầu phụ nhằm giúp họ sản xuất nhanh hơn và đáng tin cậy hơn. Một phụ nữ là kỹ sư hãng Boeing nói rằng ông chủ cũ của cô sẽ không thể tưởng tượng có thể thuê ngoài ở quy mô lớn như vậy, hãng này thường muốn tự làm lấy càng nhiều càng tốt. Một người Pháp điều hành nhà máy đặt tại Nga của một công ty thực phẩm lớn của Pháp tâm sự với chúng tôi: “Nơi tôi từng làm việc, phải mất 6 đến 7 tháng để quyết định cho thầu lại, rồi thêm 5 tháng nữa đàm phán với nhà thầu phụ để đạt được thỏa thuận hợp lý, lại thêm 6 tháng nữa để bắt đầu quy trình. Chúng tôi đang làm theo lối mòn thôi mà”.

Giảng viên yêu cầu tôi đưa ra ý kiến về việc nước Anh sẽ suy thoái hay không. Tôi trả lời chắc chắn không. Hay đúng hơn điều đó phụ thuộc vào góc nhìn của từng người. Tất nhiên, nước Anh không còn là một đế chế nữa, nhưng vẫn còn là một nền kinh tế ổn định và thịnh vượng. Đó vẫn là một trong những quốc gia giàu có nhất thế giới, có một mạng lưới phúc lợi xã hội an toàn, rộng lớn đề phòng tình huống xấu nhất. Lời nhận định của tôi gây ra một số ý kiến phản bác. Anh bạn người Nga nói rằng theo kinh nghiệm của anh, người Anh lười biếng và bất tài. Một nhà quản lý trẻ người Mỹ từng sống một năm ở London nói rằng tàu điện ngầm không hoạt động và nhìn chung các dịch vụ như cửa hàng, hiệu ăn, sân bay và các dịch vụ công cộng thật khủng khiếp. Anh nói, ý kiến cho rằng nước Anh vẫn còn là một nước lớn thật nực cười. Tôi bảo tôi đã sống ở Anh, Pháp và Mỹ, tôi có những dẫn chứng để phản bác và không thể nói nước này tốt hơn nước kia. Tôi so sánh nền y tế chung của Anh và Pháp với tờ séc 11.000 đô-la tôi vừa viết để mua bảo hiểm năm cho gia đình tại Mỹ. Tôi có thể nhìn thấy anh bạn người Mỹ quắc mắt nhìn tôi từ phía bên kia căn phòng, nhưng anh bạn người Pháp đến gần tôi và nói anh đánh giá cao sự ủng hộ tôi dành cho lục địa của họ.

“Tôi lấy làm tiếc về việc anh bị nuốt”, anh nói. Nuốt là một thuật ngữ dùng để chỉ những sinh viên vô cớ nghi ngờ nhận định của người khác. Tôi không hoàn toàn coi trọng thái độ thù địch của gã nhân viên ngân hàng người Mỹ, nhưng với những người khác trong lớp thì điều đó thật rõ ràng. Tôi đã bị nuốt.

***

Ngày cuối cùng của tuần học kiến thức cơ sở, chúng tôi quay về tòa nhà Burden để nghe thầy Ruback nói chuyện và thuyết trình bằng slide. Thầy cho chúng tôi xem đường lo lắng ở HBS, trong đó, trục hoành là thời gian còn trục tung là sự căng thẳng tinh thần. Đường cong bắt đầu từ trên cao, đi xuống dần khi học kỳ trôi qua, tăng vọt lên vào thời điểm thi cử và không xuất hiện trên đồ thị trong mùa tuyển sinh. Slide tiếp theo phân tích tuần học tập để chúng tôi biết khóa học yêu cầu gì ở mình: 55,1 giờ dành cho học tập mỗi tuần, bao gồm giờ học trên lớp và ít nhất hai giờ chuẩn bị ở nhà cho mỗi tình huống nghiên cứu. Dựa vào những gì đã học trong Chương trình dự bị, tôi biết con số đó thấp hơn thực tế rất nhiều. Chúng tôi sẽ không còn nhiều thời gian dành cho những việc khác, nhưng thầy Ruback nói đó là thử thách. HBS buộc bạn phải lựa chọn. Hoài bão của bạn là gì? Nghĩa vụ của bạn là gì? Chúng có phù hợp không? Nếu không, bạn phải làm gì để thay đổi cái này hoặc cái kia? Bạn sử dụng thời gian như thế nào để đạt được điều mình muốn?

Đối với nhiều người, 55,1 tiếng học tập mỗi tuần chỉ như một cơn gió thoảng qua. Bởi với công việc trước đây, họ thường làm việc từ 80 đến 100 giờ mỗi tuần, họ đã thông thạo nhiều kiến thức của năm học đầu tiên. Tôi không nằm trong số đó. Khi kết thúc bài nói chuyện, thầy Ruback kể lại giai thoại về một sinh viên MBA tranh cãi với một người trong ban quản trị trường. Khi quá tức giận, sinh viên nọ lớn tiếng: “Sao ông đối xử với tôi như thế? Tôi là khách hàng cơ mà, đồ chết tiệt”. “Không, anh không phải là khách hàng”, người đó trả lời, “Anh là sản phẩm”. “Tôi đoán các bạn đang phân vân giữa hai khái niệm”, thầy Ruback nói ngay khi tiếng cười lắng xuống. “Đôi khi bạn là khách hàng, những lúc khác bạn sẽ là một sản phẩm”.

Sau bài phát biểu của thầy Ruback, chúng tôi đi sang nhà Aldrich để gặp lớp của mình. Chia lớp là hành động xã hội hóa và xây dựng quan hệ tích cực nhất của HBS. Trong suốt năm thứ nhất, bạn sẽ học cùng 90 người khác. Họ sẽ là trọng tâm đời sống học tập và đời sống xã hội của bạn. Mỗi lớp là bản sao thu nhỏ của khóa học 895 người, có tỷ lệ nam/nữ, người Mỹ/người các nước khác bằng nhau và đa dạng về dân tộc và nguồn gốc. Từ bây giờ về sau, nhà trường sẽ coi chúng tôi là một lớp. Cứ 5 năm một lần, chúng tôi lại họp lớp. Những người gây quỹ cũng kêu gọi đóng góp theo lớp. Chừng nào HBS còn quan tâm, thì tôi mãi mãi là một thành viên của Lớp A, khóa 2006.

Phòng học 107 của chúng tôi nằm trong tòa nhà Aldrich, ở tầng hầm, cạnh nhà vệ sinh nam. Khi chúng tôi đến, thẻ ghi tên chúng tôi đã được đặt vào từng chỗ. Tôi ngồi
ở giữa lớp, phía cánh trái, đối diện với bảng. Đó là một vị trí đẹp, trung tâm, không quá gần đằng trước và có phần hơi khuất. Trước khi buổi học bắt đầu, chúng tôi được truy cập một cơ sở dữ liệu chứa các bức ảnh và sơ yếu lý lịch của các thành viên trong lớp, vì vậy, khi bước vào lớp, chúng tôi có thể nhận ra từng người. Đây thật là điều khác thường: bạn đã trưởng thành và có thể tự kiểm soát phạm vi bạn bè và các mối quan hệ của mình, giờ đây đột nhiên bạn được đưa vào một lớp học toàn người lạ với một thông điệp “Đây sẽ là nơi tất cả bắt đầu”. Nhưng khi nhìn xung quanh, tôi thấy rất hứng thú. Sau 10 năm làm việc, tôi lại có cơ hội đi học.

Tôi được xếp ngồi giữa hai sinh viên xuất thân từ quân đội. Bên phải là Bob, phi công lái máy bay ném bom Stealth. Tôi đã gặp trong thời gian học Chương trình dự bị. Bob người tầm thước với mái tóc vàng rơm và đôi mắt màu lơ nhạt, đã có bốn con và luôn mang bữa trưa từ nhà. Ở Bob có vẻ cương quyết và thiếu hài hước, mẫu người thích hợp để lái loại vũ khí quân dụng hạng nặng trị giá hàng tỷ đô-la như thế. Anh vào học trường kinh doanh vì cảm thấy mệt mỏi với cuộc sống phi công và muốn tìm kiếm cơ hội lớn cho bản thân và gia đình. Anh đã 35 tuổi và không thể tiếp tục lãng phí thời gian.

Bên trái tôi là Lara, cô sẽ quay lại Học viện Quân sự West Point giảng dạy ngay khi lấy được tấm bằng MBA. Bob ném bom Iraq từ trên cao, còn Lara điều hành bộ phận cung ứng và kế toán trong đơn vị ở dưới mặt đất.

Cả Bob và Lara đều là hiện thân của một trong ba chữ M được cho là đặc điểm của HBS: Mormons (giáo phái Mormon), Military (Quân đội) và công ty tư vấn McKinsey. Tín đồ Mormon đầu tiên là thầy hiệu trưởng Kim Clark. Thầy trưởng ban tuyển sinh cũng là tín đồ Mormon, trong lớp tôi có bốn tín đồ Mormon, kể cả Bob. Đối với nhiều sinh viên nước ngoài, và cả sinh viên Mỹ, thì đây là lần đầu tiên họ được tiếp xúc với tín đồ Mormon, và sự ngờ vực của họ làm dấy lên những câu chuyện cười thông tục về đa thê.

Về quân đội, có năm sinh viên từng phục vụ trong quân đội, kể cả Bob. Còn hãng tư vấn McKinsey dường như coi trường này là cơ sở đào tạo và tuyển dụng riêng của họ. Khi khóa học bắt đầu, trong lớp tôi có năm người của McKinsey, vào lúc chúng tôi ra trường đã có thêm bốn người nữa.

Thầy chủ nhiệm Ben Esty là một giáo sư tài chính trẻ trung, là cầu nối giữa chúng tôi và ban quản trị trường. Thầy không dạy mà là người chứng nhận và hướng dẫn những thủ tục hành chính cho chúng tôi. Thầy sải bước dọc lớp, vén mớ tóc xõa xuống mắt và hùng hồn nói về tầm quan trọng của tập thể lớp đối với từng người. Chúng tôi sẽ mãi mãi nhớ đến nhau. Các bạn cùng lớp sẽ là những người đầu tiên chúng tôi cầu cứu trong công việc và thậm chí trong đời sống cá nhân. Tay trong tay, chúng tôi sẽ cùng vượt qua rừng rậm Chương trình bắt buộc, dìu nhau vượt qua đầm lầy của sự thiếu hiểu biết và khả năng, hướng tới những đỉnh cao tràn ngập ánh mặt trời của năng lực và cơ hội. Nghe giống như một bộ phim, trong đó có những người lạc lõng, mỗi người lại có năng khiếu riêng chuyên gia chất nổ, người giỏi ngụy trang, người lại giỏi võ karate được tập hợp lại để cùng thực thi một nhiệm vụ nguy hiểm.

Sau đó, chúng tôi chơi trò tìm hiểu nhau. Lần này, chúng tôi có 10 phút hội ý với những người khác trong hàng và tìm ra những điểm chung. Đó là một bài tập gắn kết nho nhỏ. Bob tình nguyện dẫn dắt cuộc hội ý. Eva, người phụ nữ thanh mảnh, từng là ủy viên quản trị của một công ty xi măng Mexico, có vẻ rụt rè và không biết cách trình bày.

Trò chơi bắt đầu từ giữa hàng thứ hai. Một nam sinh viên phía bên phải đứng lên giới thiệu về mình rất tự nhiên, rồi đến người tiếp theo cho đến khi tìm ra được một điểm chung của tất cả mọi người trong hàng. Trò chơi lại tiếp tục với một hàng khác. Kết thúc trò chơi, thầy Esty chúc chúng tôi may mắn và cho giải tán lớp.

Từ phía cuối lớp, Misty, một cựu binh, la to: “Có ai đến Red Line uống bia không?” Tiếng hoan hô vang dội. Cô đứng ở cửa lớp, vẫy mọi người đi qua như thể họ là những người lính đang nhảy dù từ máy bay xuống. Sau khi trải qua cảm giác khám phá trong Chương trình dự bị, giờ đây tôi đột nhiên cảm thấy chán nản. Tôi rời bỏ Paris vì những điều này sao? Mọi người chạy xô ra vì bia? Họ hy vọng khởi động đời sống xã hội của họ? Ngoài kia, trên bãi cỏ giữa hai tòa nhà Aldrich và Spangler, Hội sinh viên đã dựng một cái lều với quầy rượu và hệ thống âm thanh khổng lồ. Ban nhạc Black Eyed Peas đang chơi một bản nhạc. Tôi cố gắng nghe ca từ. Đây có thật sự là đoạn đồng ca không? Tôi nghe lại lần nữa trong khi những cái đầu cứ nhấp nhô quanh tôi. Đúng rồi. “Hãy chậm lại ở đây, hãy chậm lại”.

Không phải tất cả chúng ta đôi lúc đều cảm thấy mình đang nhảy vọt tới tận cùng thế giới sao?

― Mick Jagger

“Tôi xin tự giới thiệu, tôi là Philip”.

Thầy hiệu trưởng HBS và 90 bạn cùng lớp nhìn chằm chằm vào tôi. Lúc đó, tôi đang cầm trong tay một chiếc sandwich salad gà bẹp dúm. Chúng tôi đã học được vài tuần và vào bữa trưa, thầy hiệu trưởng Kim Clark đến lớp chúng tôi, tự giới thiệu và hỏi han. Thầy là một tín đồ Mormon mộ đạo, gầy nhẳng, gần 60 tuổi, nói chuyện sôi nổi.

“Khi tôi là một giáo sư trẻ, lần đầu bước vào lớp này để giảng dạy, một anh chàng tên Jack ngồi chỗ đó. Bây giờ, anh ta là Jack Brennan, Chủ tịch tập đoàn quản lý đầu tư Vanguard. Còn ngồi đằng kia là Jeff, nguyên cầu thủ bóng đá của đội Darthmouth. Hiện nay, Jeff là CEO của General Electric. Đằng kia nữa là chỗ của Donna, bây giờ Donna Dubinsky đã trở thành CEO của Palm”.

Không khí hào hứng lan truyền khắp lớp. Bạn có thể cảm thấy tiếng xì xào của hoài bão. Chín mươi sinh viên ngồi thành năm hàng hình móng ngựa hướng về bảng đen, tất cả, đều nghĩ: liệu 25 năm nữa mình có được nhắc đến không? Thầy chủ nhiệm khoa của năm 2031 tương lai sẽ nói với cả lớp: “Susan từng ngồi chỗ này. Ngày xưa cô ấy sợ phát biểu trước lớp nhưng hiện đang điều hành quỹ tự bảo hiểm rủi ro lớn nhất thế giới. Tom ngồi chỗ kia đã trở thành CEO của Google. Và Philip. Chà! Người có hàng chục tỷ đô-la?”

Chúng tôi nhìn nhau, tự hỏi.

***

Lần đầu tiên tôi đặt chân đến HBS là một buổi tối oi bức tháng 8 năm 2004. Margret, vợ tôi và con trai một tuổi Augie ở lại New York để chờ nhận đồ đạc được gửi đến từ Pháp, nơi chúng tôi đã sống hai năm rưỡi. Tôi không quen ai trong trường. Lần đầu tiên trong suốt 10 năm, tôi không có sếp, không phải làm việc và không có lương. Khoảng hai trăm sinh viên, những người hầu như không biết gì về kinh doanh được gọi tập trung sớm hơn để học Chương trình dự bị, nhằm theo kịp 700 sinh viên khác sẽ đến đây sau ba tuần nữa. Bảy trăm sinh viên này đã nắm được những kiến thức cơ bản khi sử dụng laptop thuần thục, hiểu rõ các mô hình tài chính và sử dụng thành thạo PowerPoint. Mặt khác, trong năm đầu tiên, chúng tôi sẽ phải trải qua một chương trình học căng thẳng là Chương trình bắt buộc. Vì vậy, chúng tôi được làm quen với phương pháp dạy học dựa trên các điển dụ (các tình huống thực tế) của HBS để khỏi ngỡ ngàng khi bước vào học.

Sau khi đăng ký, tôi được phát một cặp đựng các điển dụ cho tuần đầu và sẽ phải gặp gỡ 15 phút với nhóm của mình tại phòng họp ở tòa nhà Spangler một tòa nhà rộng lớn xây theo kiểu kiến trúc George ở trung tâm khoa. Tôi hồ hởi ra khỏi phòng, ngồi xuống một cái ghế gần sân tennis, rút ra hồ sơ tình huống đầu tiên trong hàng trăm tình huống phải nghiên cứu và bắt đầu đọc. Toàn bộ chương trình học của HBS là nghiên cứu các tình huống điển hình, các tình huống kinh doanh thực tế. Câu hỏi mà bạn phải trả lời trong mỗi tình huống là: Bạn sẽ làm gì trong hoàn cảnh đó? Không có câu trả lời đúng/sai. Trong nhiều tình huống, hành động của những người giữ vai trò quan trọng lại biến thành thảm họa. Điều quan trọng duy nhất là bạn nghĩ gì về vấn đề đó, bạn đối phó thế nào với sự thiếu hụt thông tin và tình trạng bất ổn. Hy vọng là sau khi tính toán hoặc định giá trái khoán, bạn sẽ có cách nghĩ và quyết định sáng suốt. Các giảng viên trong khoa đã soạn ra các tình huống này, dài từ vài trang tới hơn 30 trang. Chúng thường bao gồm một bản tường thuật tình huống ấn tượng, một bản phân tích kinh doanh để thảo luận, các bảng biểu, tranh ảnh và tài liệu cần thiết để minh họa cho vấn đề. Tình huống đầu tiên của tôi như sau: “Ngày xửa ngày xưa, có một lãnh chúa là Nam tước Coburg sống trong một tòa lâu đài trên đỉnh đồi tại một tỉnh nhỏ ở Tây Âu. Ông quản lý nông dân những người cư ngụ trên đất xung quanh lâu đài”.

Nam tước lệnh cho hai nông dân Ivan và Frederick trồng trọt trên hai thửa đất khác nhau. Ông phát cho họ hạt giống, phân bón và bò nhưng bảo họ thuê một cái cày của lão thợ cày Feyador. Một năm sau, họ mang đến số lượng lúa mỳ khác nhau, hai con bò và hai cái cày mòn vẹt. Kết luận: “Sau khi họ ra về, Nam tước bắt đầu suy nghĩ xem việc gì đã xảy ra. “Họ đã làm rất tốt, nhưng ai làm tốt hơn?”, ông nghĩ.

Đây là một tình huống tính toán, và nhiệm vụ của chúng tôi là trả lời câu hỏi của Nam tước bằng cách lập báo cáo lợi tức và bảng quyết toán cho hai trang trại. Vì sao một Nam tước thời Trung cổ, vốn được toàn quyền lựa chọn giữa cướp bóc, cưỡng đoạt và kế toán, lại chọn kế toán? Điều đó khiến tôi bối rối. Nhưng đây là trường HBS, nên Nam tước thời Trung cổ cũng rất khác biệt. Trên sân tennis phía trước, hai sinh viên vừa mới bắt đầu khởi động. Một người quàng một chiếc bandanna xanh , người kia mặc áo phông. Lúc đầu, họ đánh nhẹ nhàng, mỗi người cách lưới vài mét. Tôi ngừng đọc để xem họ đánh bóng, bị cách đánh nhịp nhàng cuốn hút. Dần dần, họ đánh mạnh hơn, cánh tay vụt vào không khí còn quả bóng rơi càng lúc càng gần đường biên. Những cú đập bóng hoàn hảo, luôn nhằm trúng quả bóng đang ngao du trong không khí. Trong cái sân hình chữ nhật, mọi thứ đều rất chính xác. Tôi nhét tờ giấy vào cặp và đi tới Spangler để gặp nhóm của mình.

Ngồi quanh một chiếc bàn lớn màu xanh gồm có hai cựu chiến binh, một cựu nhân viên Văn phòng Thị trưởng Thành phố New York, một nhà tư vấn quản lý người Đài Loan và một phụ nữ tóc vàng hoe vẻ rất bối rối, vừa mới rời công ty quản lý quỹ đầu tư Boston. Hai cựu binh dường như quá lớn so với căn phòng, bắp tay hằn lên chiếc áo phông bó sát, trong khi cô gái tóc vàng có vẻ sợ hãi và nhỏ bé. Justin, anh chàng người New York, hóa ra lại sống cách nhà tôi vài dãy nhà. Rõ ràng chúng tôi đều được sắp xếp nghiên cứu tình huống Nam tước và tất cả bọn họ đều biết rõ những việc phải làm. Họ mở laptop và sẵn sàng làm bài tập. Trước khi đến Harvard, tôi chỉ biết sử dụng Win Word. Tôi chưa từng sử dụng Excel hay PowerPoint. Trong mấy ngày đầu tiên, tôi quyết định sử dụng giấy bút quen thuộc và tập trung vào những gì người khác nói, thay vì cố gắng làm chủ những phần mềm mới. Xét cho cùng, ngay cả J. P. Morgan cũng không biết Excel mà lại điều hành phần lớn nền kinh tế Mỹ đấy thôi. Tôi nhìn lại vấn đề của Nam tước. Vấn đề dường như không có gì phức tạp: vài giạ lúa chỗ này, vài giạ chỗ kia, phân bón, bò, những cái cày mòn vẹt và một địa chủ phong kiến bóc lột.

“Ivan ạ”, sau một lát, tôi xung phong trả lời. Mọi người ngẩng lên. “Ivan làm tốt hơn”.

Tôi nhanh nhẹn giải thích cách tính của mình.

“Anh quên không tính khấu hao những con bò”, cựu lính thủy đánh bộ Jake nói.

Tôi tính toán lại. “Frederick”, lát sau tôi lại nói.

“Anh đã cộng giá trị đầy đủ của cái cày của Ivan vào mục ’giá thành hàng bán‘ chưa?”, Jake lại hỏi.

Lần này tôi quyết định im lặng. Toàn bộ hiểu biết về kế toán của tôi chỉ là những tài liệu được phân công đọc trong mùa hè, mà chúng còn ít ỏi hơn những gì tôi hy vọng.

“Nam tước này là cổ đông hay là người cho vay?”, Jon hỏi. Vừa mới rời khỏi đội quân chiến đấu tiên phong ở vùng bị khủng bố ở Bát-đa, Jon dường như là người ít lo lắng nhất trong nhóm. “Đã có ai tính hao mòn đất bị cằn do bón phân chưa?”

Suốt một giờ sau đó, tôi viết nguệch ngoạc trong khi các con số ong ong trong đầu. “10 kg phân bón đáng giá hai giạ lúa mỳ, một con bò đáng giá 40 giạ. Ivan vẫn nợ Feyador cái cày…”. Các con số cứ trôi bồng bềnh trong đầu tôi. Đầu tiên, Ivan trồng trọt giỏi hơn, sản xuất nhiều hơn Frederick 2/3 giạ lúa/mẫu Anh. Rồi Frederick lại vượt hơn 5/6 giạ.

“Tôi đã tính ra một số hệ số”, cô gái tóc vàng nói. “Doanh thu ròng trên tài sản cho thấy Frederick làm tốt hơn”. Những người khác gật đầu. Nhưng nông dân có bán gì đâu, tôi nghĩ. Họ chỉ nộp tất cả số lúa mỳ cho địa chủ. Vì vậy, có lẽ sự cống nạp phong kiến trên tài sản mới là tỷ lệ tốt hơn. Việc này chẳng đem lại lợi ích gì cả.

Tiếp theo đến “Trường hợp những ngành công nghiệp Mỹ chưa xác định được”. Đây là bước gia nhập đầu tiên của chúng tôi vào lĩnh vực tài chính. Trước khi vào HBS, tôi đã rất sợ môn tài chính. Tôi háo hức được học nhưng lại lo sợ mình sẽ tụt lại so với cả lớp. Buổi tối đầu tiên đó đã không giúp tôi tự tin thêm chút nào. Chúng tôi được nhận một danh sách 12 ngành công nghiệp, từ một công ty hóa chất cơ bản và một chuỗi siêu thị đến một hãng hàng không lớn và ngân hàng thương mại, một tập giấy quyết toán vô danh gồm các tỷ lệ phần trăm và các hệ số. Nhiệm vụ của chúng tôi là ghép chính xác các ngành công nghiệp vào các tờ quyết toán vô danh đó.

Tôi đã biết ý nghĩa thực của các hệ số nhờ đọc tài liệu từ hồi mùa hè. Bạn so sánh các con số trong báo cáo tài chính để nhìn ra chất lượng của một doanh nghiệp. Ví dụ như hàng tồn kho. Các công ty giữ hàng tồn kho thường cố gắng cân bằng giữa chi phí lưu kho và nhu cầu trữ đủ hàng để bán. Điều này cũng giống việc bạn muốn có đủ thực phẩm cho cả nhà nhưng không muốn có quá nhiều đến mức đầy tủ lạnh và thức ăn bị thiu. Nhưng ngược lại, bạn muốn mua một lượng lớn dự trữ để được giảm giá thay vì ngày nào cũng phải mua đắt ở cửa hàng góc phố. Hay bạn là người sành ăn và thích mua thực phẩm tươi mỗi ngày? Vấn đề là mỗi gia đình có cách kiểm soát thực phẩm dự trữ khác nhau. Để phân tích cách quản lý kho hàng trong một báo cáo tài chính, bạn phải bắt đầu với những con số “giá vốn hàng bán” và “hàng tồn kho”. “Giá vốn hàng bán” (COGS) là trị giá hàng mà nhà sản xuất đã bán trong một thời gian nhất định. Còn “hàng tồn kho” là trị giá hàng mà nhà sản xuất chờ đợi bán. Chia COGS cho hàng tồn kho và bạn sẽ biết được tốc độ luân phiên hàng của công ty. Tỷ lệ này bằng 1 nghĩa là công ty trữ một lượng hàng vừa đủ để bán trong khoảng thời gian quyết toán. Trong thị trường thực phẩm tươi sống, với một tờ quyết toán một năm, tỷ lệ này sẽ rất lớn vì hàng được bổ sung hàng ngày. Nhưng trong thị trường đá quý cao cấp, tỷ lệ này thấp hơn 1 vì mỗi sản phẩm phải chờ rất lâu mới có người mua.

“Siêu thị sẽ có tốc độ quay vòng hàng lớn nhất”, Jon nói.

“Hoặc người đóng gói thịt”, Jake trả lời.

“Ngân hàng thương mại có lẽ sẽ có tài sản lưu động và nợ lớn nhất do việc gửi và rút tiền”, anh chàng người Đài Loan nói. Tôi có thể nói Justin cũng bị bế tắc chẳng kém gì tôi, dựa vào cách anh ta liên tục gãi đầu và cằm.

“Hừm”, tôi kêu lên. “Tớ đang tự hỏi ai có thể kiếm được 16,7% lợi nhuận biên. Các cửa hàng đá quý chăng?” chỉ là tôi đang cố gắng nói một cái gì đấy.

Mọi người đều xem xét các con số, cố gắng tìm ra ý nghĩa. Chúng tôi nhìn vào hệ số nợ/tài sản. Một công ty có nhiều tài sản cố định, ví dụ các nhà máy, rất có khả năng mắc nợ nhiều hơn một hãng quảng cáo tài sản chính của hãng quảng cáo chỉ là con người. Một trong những điểm kém hấp dẫn nhất và thiếu sót lớn nhất của kế toán doanh nghiệp là coi con người chỉ là chi phí trong báo cáo thu nhập mà chưa bao giờ coi đó là tài sản trong bảng quyết toán. Khác với một nhà máy, con người có thể ra đi bất kỳ lúc nào, vì vậy, ngân hàng thường miễn cưỡng cho các hãng quảng cáo, công ty luật và văn phòng kiến trúc sư vay tiền.

Chúng tôi liếc nhìn hệ số doanh thu ròng/tài sản ròng, cố gắng tìm ra công ty nào có doanh thu cao nhất từ tài sản của họ. Công ty quảng cáo, chẳng có gì ngoài văn phòng thuê và một ít tài sản, lại có tỷ lệ này cao, nghĩa là có doanh thu cao từ ít tài sản, trong khi tỷ lệ này thấp hơn ở các nhà máy. Sau một giờ, chúng tôi xác định được một nửa số công ty. Sau hai giờ, con số đã lên tới tám công ty. Khi giờ thứ ba trôi qua, ngỡ như thể chúng tôi chẳng bao giờ hoàn thành được bài tập. Ngay khi chúng tôi nghĩ rằng đó là ngành hàng không, thì nó lại dường như cũng giống ngành sản xuất ô tô. Cũng có thể đó là nhà sản xuất y phục nam nổi tiếng?

Tôi bắt đầu cảm thấy tác động làm hao mòn sinh lực của ánh đèn huỳnh quang, nỗi khó chịu mơ hồ vì mùi mỳ Trung Quốc bốc ra từ sọt rác, sự khô hanh và làn da ngứa ngáy. Một nửa số sinh viên trong phòng đang kiểm tra email và lướt Web, đó là lý do vì sao câu hỏi được nêu ra một lúc sau mới nhận được câu trả lời. Qua cửa sổ, tôi nhìn thấy cái bóng to lớn của sân vận động Harvard in trên nền trời đêm xanh đen. Cuộc thảo luận bắt đầu thật sôi động giờ chậm lại như ru ngủ. Lời nói và suy nghĩ của chúng tôi trở nên chậm chạp. Khi chúng tôi ra về thì đã gần nửa đêm.

Khi tôi đi ra ga-ra, thời tiết vẫn còn nóng và nhiều sương. Căn hộ của chúng tôi ở khu Tây Cambridge, cách trường 10 phút đi xe. Đường phố không một bóng người và đây là lần đầu tiên sau 10 năm tôi không sống trong một thành phố lớn. Nằm ngủ trong một căn hộ trống không ở một thành phố mới quen quả là bất an. Cuộc sống của tôi đã gắn với trường học và căn phòng này với một tấm đệm hơi trên sàn và một cái bàn ăn ngoài trời mang về từ Costco. Tôi nằm đó, lắng nghe từng tiếng động nhỏ, một cành cây cào vào cửa sổ, những chiếc ô tô đi qua ngoài phố, ánh đèn pha chiếu lên trần nhà. Đêm đó, phải mất nhiều giờ tôi mới ngủ được và một câu hỏi duy nhất quanh quẩn trong đầu: Tôi đã làm gì thế này?

***

Bảy giờ sáng hôm sau, chúng tôi trở lại “trận chiến”. Các hội trường trong tòa nhà Spangler đông nghẹt sinh viên khoa Toán đang “chiến đấu” với bài tập xác định các ngành công nghiệp. Họ hào hứng làm bài tập này. Phòng học như rung lên khi chúng tôi thảo luận về biên lợi nhuận và hệ số nợ. Tôi nghe thấy ai đó nói với giọng hách dịch rằng ngân hàng có xu hướng nợ những khoản ngắn hạn khổng lồ hay nói cách khác là tiền trong tài khoản khách hàng, mà họ có thể rút bất kỳ lúc nào – và có những khoản thu lớn tương đương, tức là tiền cho khách hàng vay. Đối với các ngân hàng, các khoản cho vay là tài sản, còn tiền giữ cho khách lại là nợ. Phải một lúc sau tôi mới hiểu được kết luận thẳng thắn này. Tiền họ có là nợ, tiền trao đi là tài sản. Nhưng ngay khi hiểu ra điều này, tôi nhìn vào những ngành vẫn chưa xác định được và nó bật ra trong đầu tôi, đó là ngân hàng! Cuối cùng tôi đã có cái để chia sẻ với nhóm, tôi lao vào phòng với khám phá của mình, nhưng họ cũng đã tìm ra rồi.

***

Trong trường có hai tòa nhà chính làm lớp học là Aldrich và Hawes, gồm 30 phòng học giống hệt nhau. Aldrich được đặt theo tên của Thượng nghị sĩ có bộ ria rậm rạp Nelson Aldrich của bang Rhode Island, có cô con gái kết hôn với John D. Rockefeller , còn Hawes được đặt theo tên của Jr. Rod Hawes tốt nghiệp HBS năm 1969 và phát đạt trong ngành bảo hiểm. Ông đã gây dựng và bán lại Life Re Corporation of America, sau đó dùng phần lớn tài sản cho mục đích từ thiện. Trong mỗi phòng có 90 ghế được bố trí cao dần, xếp thành 5 dãy hình bán nguyệt và có hai lối đi. Chỉ một vài phòng có cửa sổ nhìn ra sân. Ngồi trong căn phòng không cửa sổ, bật điều hòa và chiếu sáng chói chang như thế này giống như ngồi trong sòng bạc, không còn cảm giác gì về thế giới bên ngoài, không bị thời gian và thiên nhiên chi phối. Mỗi người có một khoảng rộng bằng hai chiếc máy tính xách tay dọc một chiếc bàn cong và một cái ghế xoay bọc vải đỏ tía. Chúng tôi phải để một tấm thẻ trắng được ép plastic in tên mình vào một khe phía trước chỗ ngồi để giáo viên có thể biết tên chúng tôi. Ổ cắm máy tính nằm phía dưới bàn. Ngồi bên phải tôi là Laurie, bang Alaska, thạc sĩ hóa học, từng điều hành trung tâm nghiên cứu của một công ty công nghệ sinh học. Bên trái tôi là Ben, từng làm ở Ban Quản lý Công viên của thành phố New York. Hai tuần đầu, Laurie rất lo sợ. Mặc dù rất thông minh nhưng cô rất sợ bị giảng viên gọi. Cô nói, nếu cho cô một phân tử, cô có thể phân tích, rồi tái tạo nó. Nhưng nếu hỏi cô về một hệ số kế toán, cô sẽ làm rối tung. Ben điềm tĩnh hơn nhiều. Anh có râu, đi xăng-đan và đã đi bộ suốt hai tuần trước đó dọc theo con đường Appalachia. Cũng như tôi, Ben dị ứng với máy tính nên ghi chép bằng giấy bút. Nhưng rõ ràng anh có một trí tuệ rất logic và sáng suốt, thích hợp với nơi này. Anh chàng lính thủy đánh bộ khá thấp và tóc rất dày. Vài giờ một ngày trong suốt hai tuần tiếp theo, những cơ bắp khác thường của anh ta uốn cong và giật giật chỉ cách mặt tôi vài chục xăng-ti-mét khiến tôi không thể tập trung vào chi phí vốn trung bình và cây quyết định.

Giảng viên đứng ở dưới sàn, có một cái bàn, ba bộ bảng đen và một máy chiếu để giảng dạy. Những người năng động hơn có thể dùng băng video và chương trình Gizmo. Sinh viên có thể biểu quyết cho bất kỳ vấn đề nào bằng cách ấn vào một nút trên bàn, đỏ hoặc xanh, và ngay lập tức nhìn thấy kết quả trên màn hình trước mặt. Giảng viên có thể tiến gần đến sinh viên hoặc lên, xuống dọc lối đi và giữa các hàng ghế.

HBS tiếp nhận phương pháp giảng dạy bằng điển dụ từ Trường Đại học Luật Harvard. Đầu buổi học, giảng viên chỉ định một sinh viên trình bày tình huống mà chúng tôi đã chuẩn bị từ hôm trước khoảng 5-10 phút. Sau đó, tất cả các sinh viên đều được giơ tay để phát biểu. Đó có thể là một câu hỏi, một câu trả lời hoặc một ví dụ từ kinh nghiệm của chính họ để làm sáng tỏ vấn đề. Yêu cầu duy nhất là ý kiến đó phải nhằm nâng cao kiến thức của cả lớp.

Giảng viên đầu tiên của chúng tôi, thầy David Hawkins, là một người Australia chất phác, từng tham dự môn bơi ở Thế vận hội Olympic đầu thập niên 1950, nay vẫn còn bờ vai lực lưỡng và mái tóc hoe vàng của một người cứu hộ ở bãi biển Bondi. Bước vào lớp, thầy mở tờ Wall Street Journal ra và đọc to câu chuyện ở trang nhất. Đó là câu chuyện về một công ty bị yêu cầu kê khai lại thu nhập do nhiều năm sai phạm kế toán. Thầy dựa vào cạnh bàn, ngả người ra sau, miệng há ra khi suy nghĩ. Một tay thầy cầm tờ giấy sột soạt, ghi nguệch ngoạc về bài học hôm đó, tay kia là một viên phấn vàng. “Các anh chị thấy đấy”, thầy nói sau một thoáng ngập ngừng, “việc tính toán thật sự là vấn đề. Giờ ta quay lại với vị Nam tước”. Thầy khom vai và đi loanh quanh, kéo lê một chân, trông rất giống Nam tước. “Chỉ ra người nông dân nào làm tốt hơn rất khó phải không?” Một cảm giác nhẹ nhõm lan tỏa khắp lớp. Khi các sinh viên được gọi lên để giải thích cách làm của mình mới rõ là không ai giải quyết được vấn đề. Nhưng thực ra điều quan trọng lại không phải là giải quyết vấn đề. Thầy Hawkins giải thích, mục đích của tình huống này là để chứng tỏ: rút ra sự thật kinh tế từ một tình huống tưởng chừng đơn giản nhất khó khăn như thế nào. Trong kế toán, tuân theo lẽ thường quan trọng hơn là bám vào các quy tắc.

Trong Chương trình dự bị, giáo viên dạy không quá sâu sát như Chương trình bắt buộc, nhưng lịch học thì vẫn thế. Chúng tôi được yêu cầu dành ít nhất hai tiếng để chuẩn bị trước cho mỗi tình huống thảo luận trên lớp. Ngoài kế toán, Chương trình dự bị còn có những môn học về tài chính, quản lý hoạt động và công nghệ. Đó là những môn phải tính toán nhiều nhất mà chúng tôi bắt buộc phải học trong năm đầu tiên.

Sau giờ của thầy Hawkins là môn tài chính của thầy Mihir Desai một giáo sư Ấn Độ trẻ, cao và lịch lãm, có những ngón tay dài và thanh tú. Thầy giành được cảm tình của chúng tôi ngay khi đề cập các khái niệm tài chính rất đơn giản. Trong tiết học của thầy, chúng tôi không phải nhìn chằm chằm vào máy tính và hoàn thành các bảng tính. Chúng tôi học tài chính theo cách rất dễ hiểu. Thầy Desai luôn chỉ trích mạnh mẽ những từ ngữ khó hiểu của phố Wall (giới tài chính Mỹ) và khuyến khích chúng tôi rũ bỏ tất cả những định kiến, nếu có. Chúng tôi được học những điều cơ bản nhất trong môn tài chính.

Tôi tình cờ gặp Justin vào bữa trưa. Anh lớn lên ở New York, cha anh điều hành một doanh nghiệp đầu tư thành công. Sau khi tốt nghiệp đại học, anh dạy học ở Los Angeles cho tổ chức Teach for America và sau đó làm việc ở Văn phòng Thị trưởng thành phố New York. Anh đến HBS chỉ vì những người mà anh khâm phục trong ngành dịch vụ công đều xuất thân từ lĩnh vực kinh doanh. Một tấm bằng MBA sẽ có ích, bất kể anh chọn làm gì tiếp theo. Tôi hỏi anh đã biết sẽ làm gì tiếp theo chưa.

“Chưa”, anh trả lời. “Tôi đang xem xét. Nếu anh nghĩ ra cái gì thì nói cho tôi nhé”. Chúng tôi nghe thấy xung quanh những đoạn đối thoại tương tự. Bạn từ đâu đến? Trước đây bạn làm gì? Vì sao bạn đến đây?

Sau bữa trưa, chúng tôi học môn quản lý hoạt động và công nghệ của cô Frances Frei. Cô là một phụ nữ nghị lực, có mái tóc nâu xù, mặc áo sơ-mi và quần tối màu. Buổi đầu tiên, chúng tôi làm việc với cô liên quan đến việc xây dựng cây quyết định, đây là phương tiện để dự đoán kết quả của một quyết định đầu tư. Nếu tôi khoan tìm dầu mỏ ở một địa điểm, tôi phải chi phí 10 triệu đô la và có thể xảy ra hai khả năng. 30% khả năng không tìm thấy gì và 70% khả năng tìm thấy mỏ dầu trị giá 20 triệu đô-la. Nhân số phần trăm với khả năng sẽ được 0 hoặc +14 triệu đô-la. Vì thế, giá trị ước tính của vụ đầu tư này là 14 triệu đô-la trừ 10 triệu đô-la chi phí khoan, được 4 triệu đô-la. Lợi ích của cây quyết định phụ thuộc vào độ chính xác khi bạn ước đoán các khả năng. Nhưng mục đích của cây quyết định không phải để tìm kiếm sự chắc chắn mà để đối phó dễ dàng hơn với sự không chắc chắn nhằm tìm ra một điểm tựa dù mong manh khi phải ra quyết định tài chính.

Tiết học sau, cô Frei thúc ép chúng tôi học phép phân tích hồi quy, phương tiện đánh giá tầm quan trọng của các nhân tố khác nhau đối với một kết quả cụ thể. Tình huống chúng tôi nghiên cứu là một ngân hàng dựa vào dữ liệu khách hàng để quyết định cần làm gì với các dịch vụ trực tuyến. Ngân hàng đã biết mọi thông tin về khách hàng, từ ngày sinh và mã số thuế đến mức số dư trung bình trong tài khoản và tình hình sử dụng các dịch vụ ngân hàng trực tuyến. Cô Frei yêu cầu chúng tôi sử dụng Excel để tổ chức và vẽ đồ thị các số liệu này nhằm xây dựng các mô hình ứng xử của khách hàng. Nếu họ ở gần một chi nhánh ngân hàng, liệu họ có đến đó thường xuyên hơn không? Tuổi tác có ảnh hưởng đến khả năng sử dụng các dịch vụ trực tuyến không? Ảnh hưởng ở mức độ nào? Cách ứng xử của khách hàng ở các vùng khác nhau có khác nhau không? Ngân hàng muốn dùng các dữ liệu này để quyết định số tiền đầu tư cho các dịch vụ trực tuyến tiếp theo, chi phí cho chúng thấp hơn chi phí cho các chi nhánh. Là người hoàn toàn lạ lẫm với Excel, tôi mất rất nhiều thời gian mới tổ chức được hàng nghìn ô dữ liệu thành các đồ thị rõ ràng. Nhưng ngay cả khi phải đánh vật với bài tập, tôi vẫn cảm thấy càng ngày càng hứng thú với những điều học được ở đây. Vì sao ngân hàng lại gửi thư từ cho tôi khác với hàng xóm của tôi? Tôi nên đầu tư bao nhiêu tiền vào một dự án mà không chắc chắn kết quả. Dành phần lớn cuộc đời mình để tái hiện cuộc sống bằng ngôn từ, tôi thật sự sửng sốt khi chứng kiến sức mạnh của các con số, mô hình và công cụ thống kê. Tôi thấy mình thật ngu dốt, và viễn cảnh mất hai năm để có được một tiền đồ hoàn toàn mới mẻ đã tiếp thêm sinh lực cho tôi.

Ngày cuối cùng của Chương trình dự bị, các nhóm được đọ sức với nhau trong một cuộc đàm phán tài chính. Chủ đề là mua lại một công ty máy kéo, và nhóm chúng tôi là bên mua tiềm năng. Buổi tối chúng tôi gặp nhau, vạch chiến lược, cố gắng quyết định nên mua với giá bao nhiêu. Hôm sau, một số nhóm còn mặc lễ phục. Trong nhóm chúng tôi, các anh lính gánh trọng trách và là những nhà đàm phán có sức thuyết phục và nhà chiến thuật táo bạo. Chúng tôi đã đàm phán rất thành công. Thời gian cuối Chương trình dự bị, tôi bị kiệt sức. Mỗi ngày, tôi học từ 7 giờ sáng tới tận nửa đêm chỉ để theo kịp chương trình. Tôi đã rất vui vì có gia đình bên cạnh. Nhưng tôi cũng mệt mỏi và hay gắt gỏng. Tôi đã được cảnh báo trước về cái bong bóng của HBS: ngay cả những nhiệm vụ tầm thường nhất cũng khoác một tầm vóc lố bịch, đó hoàn toàn là sự thật. Và đây chỉ là cuộc tổng duyệt.

***

Năm đầu của chương trình đào tạo MBA hai năm của HBS được gọi là Chương trình bắt buộc (RC), gồm 10 môn học, mỗi học kỳ 5 môn, bao gồm những kiến thức cơ bản của kinh doanh. Các môn học của học kỳ đầu tiên là: tài chính 1, kế toán, marketing, điều hành và ứng xử trong tổ chức. Học kỳ 2 gồm có: tài chính 2, đàm phán, chiến lược, khả năng lãnh đạo và trách nhiệm của doanh nghiệp (LCA) và một môn kinh tế vĩ mô, gọi là kinh doanh, chính phủ và kinh tế quốc tế, được gọi chung là “Biggie” (nghĩa là “Ông lớn”). Trong năm thứ hai, hay còn gọi là Chương trình lựa chọn (EC), chúng tôi có thể tùy chọn môn học hoặc nghiên cứu độc lập.

Chúng tôi được xếp loại theo một đường cong giới hạn, dựa trên thành tích của bản thân so với những người khác. Đỉnh đường cong là những người ưu tú, đáy là những người yếu kém. Ở mỗi môn, 50% xếp loại của chúng tôi phụ thuộc vào mức độ tham gia buổi học, chất lượng và số lượng các phát biểu trong giờ học. 50% còn lại dựa vào thành tích các bài thi giữa và cuối kỳ. Được nửa học kỳ, giảng viên sẽ đánh giá những đóng góp của chúng tôi cho lớp, nhờ đó chúng tôi biết mình làm việc như thế nào. Trong hai năm, 5% sinh viên đứng đầu lớp sẽ nhận được Học bổng Baker, đó là vinh dự cao nhất trong học tập. 15% tiếp theo sẽ nhận được các phần thưởng khác. Khi kết quả học tập thấp hơn mức trung bình, bạn sẽ được cảnh báo. Nếu kết quả học tập liên tục kém, bạn sẽ bị đình chỉ hoặc đuổi học. Nếu bạn tham gia đầy đủ các buổi học, chuẩn bị trước các tình huống nghiên cứu, chăm chỉ phát biểu thì không phải lo lắng về điều đó. Tôi luôn tự hỏi mình sẽ phải cạnh tranh như thế nào với những sinh viên này khi tôi không có chút kinh nghiệm kinh doanh nào, còn họ đã tốt nghiệp các trường đại học về tài chính hoặc kinh doanh và đã có nhiều năm mài giũa kỹ năng?

Lần đầu tiên tôi gặp đầy đủ lớp là cuối tháng 8, khi mọi người đến học kiến thức cơ sở trong một tuần để có thể tham gia Chương trình bắt buộc dễ dàng hơn. Chúng tôi tập trung trong phòng Burden Foundation một phòng lớn giống như một cái hang, bị che khuất một nửa ở trung tâm khuôn viên của khoa với những chỗ ngồi dốc cheo leo hướng xuống một sân khấu. Thầy Rick Ruback, Giám đốc Chương trình bắt buộc người thấp, vai u, nói giọng Boston đang đứng trên bục giảng. Thầy nói rằng khóa chúng tôi có 895 sinh viên, được chọn từ 7.100 đơn đăng ký, tỷ lệ được tiếp nhận là 12,6%, như vậy, chúng tôi rất may mắn vì được nhận vào đây. 34% số sinh viên là nữ, 32% đến từ các nước khác. Độ tuổi trung bình là 27 khiến cho tôi, đã 32 tuổi, thuộc loại già của lớp.

Thành phần sinh viên gồm có vận động viên Olympics, các nhà tư vấn, các nhà hoạt động xã hội, nguyên trợ lý của J. Paul Bremer toàn quyền Mỹ của Chính quyền Liên hiệp Lâm thời tại Iraq và một MBA Harvard, thậm chí ngay cả “nguyên trưởng văn phòng tờ Daily Telegraph tại Paris” là tôi.

Tiếp theo là thầy hiệu trưởng. Tôi đã đọc tiểu sử của thầy trên website của trường. Thầy đến Harvard khi còn là sinh viên, giành được học vị tiến sĩ và thăng tiến qua nhiều vị trí trong trường này. Thầy từng là huynh trưởng hướng đạo sinh, giám mục Mormon và có 7 con. Thầy ngoắc một chiếc kính có mắt hình bán nguyệt vào sợi dây chuyền đeo trên cổ và nói bằng giọng thì thầm buồn bã. Thầy tâm sự về mục đích của trường và cho chúng tôi ba lời khuyên: làm việc chăm chỉ; khiêm tốn, hay đúng hơn là “rèn luyện thói quen khiêm tốn” và đừng sợ sệt khi gặp thầy trên phố hay trong khoa.

Sau thầy Clark, đến bài phát biểu của Margia Yang, CEO Esquel một nhà sản xuất áo sơ-mi ở Hồng Kông. HBS đã từng phải đánh giá lại cách dạy đạo đức kinh doanh của trường khi tập đoàn Enron sụp đổ dưới sự lãnh đạo của một trong những MBA được chào đón nồng nhiệt nhất, Jeff Skilling. Bài phát biểu của Yang cũng tập trung vào đạo đức kinh doanh. Đôi khi cần vi phạm đạo đức để sống sót. Quan điểm lớn hơn của bà là: đạo đức kinh doanh là thích nghi theo cách càng tử tế càng tốt với hoàn cảnh luôn thay đổi thay và tuân thủ những quy tắc chặt chẽ. Đạo đức kinh doanh là một khái niệm động chứ không phải tĩnh, và đừng phán xét về vấn đề này trừ phi bạn kinh doanh ở một nơi như Trung Quốc.

Cuối cùng, một sinh viên năm thứ hai đứng lên chào mừng và nhắc lại tầm quan trọng của các giá trị đối với tương lai của chúng tôi trong ngành kinh doanh. Anh nói chỉ cần được nhận vào HBS tức là “Bạn đã thành công”. Từ nay trở đi, tất cả những gì chúng ta quan tâm là làm chủ cuộc đời mình như thế nào.

Từ phòng Burden, chúng tôi đi bộ tới phòng học môn đầu tiên trong Chương trình bắt buộc là môn lãnh đạo. Tình huống mà chúng tôi nghiên cứu hôm đó là một công ty sản xuất kem nhỏ thuộc sở hữu gia đình, giám đốc công ty đang gặp rắc rối. Thuộc cấp không đồng lòng, lợi nhuận của công ty đang rơi tự do. Bầu không khí trong lớp đã thay đổi rất nhiều kể từ khi học Chương trình dự bị. Ai cũng tràn đầy tự tin, hăng hái phát biểu để lấy điểm. Thời kỳ ăn nói màu mè trong lớp học bắt đầu. Bây giờ sinh viên nói “học phần” thay cho bài học, “vị lai” thay cho tương lai, và “xây dựng sự đồng thuận” thay cho đồng ý. Tôi luôn khó chịu khi cuộc nói chuyện lại biến thành xây dựng sự đồng thuận, nó giống như khúc dạo đầu cho sự thỏa hiệp buồn thảm của nhóm.

Ngày hôm sau, chúng tôi chơi trò “Lời chúc mừng đỏ thắm”, được mô tả là “một trò chơi mang lại hứng thú cho mọi môn học”. Lớp được chia thành 6 hoặc 7 nhóm, mỗi nhóm khoảng 10 người, sẽ cạnh tranh nhau trong việc xây dựng và điều hành một doanh nghiệp sản xuất thiệp chúc mừng. Mục tiêu là điều hành doanh nghiệp sao cho có lãi nhất. Chúng tôi phải mua nguyên vật liệu, kiểm soát kho hàng, thiết kế và sản xuất thiệp, quyết định giá rồi bán chúng trong những khoảng thời gian đã định trong hai ngày sau đó. Sau mỗi buổi bán hàng, mỗi đội cùng một giảng viên sẽ định lượng, đánh giá và thảo luận về hoạt động của mình. Tuy nhiên, mục tiêu học tập chỉ đứng vị trí thứ hai trong bài tập này, mục tiêu lớn hơn là để sinh viên làm quen với nhau.

Khởi đầu buổi học, chúng tôi được xem một đoạn băng video. Trong băng, một người đàn ông Anh thô lỗ nói với giọng đe dọa: “Nhiệm vụ của bạn là triển khai hoạt động của một công ty thiệp chúc mừng và làm cho nó có lãi”. Sau đó, chúng tôi sang phòng tập thể dục bên kia đường, đối diện với trường. Căn phòng lèn chặt 895 sinh viên tham gia trò chơi này trở nên huyên náo như rừng rậm châu Phi. Sư tử gầm, chim quàng quạc, tinh tinh đấm ngực và cá sấu táp. Nhóm chúng tôi có ba nhà tư vấn quản lý đến từ Áo, Indonesia và Canada, một nhân viên ngân hàng người Hàn Quốc đến từ Los Angeles, một người Trung Quốc kinh doanh giày đến từ Texas, một nhân viên ngân hàng trung ương Argentina, một kỹ sư Argentina, một nhân viên ngân hàng đầu tư người Mỹ gốc Li-băng, một nhà điều hành công nghệ sinh học đến từ Boston, và Linda một phụ nữ nhỏ bé, cau có, người New York, từng là nhà tư vấn quản lý và quản lý một công ty phần mềm nhưng người ta nói niềm đam mê thật sự của cô là bình đẳng giới và chủng tộc.

Nhiệm vụ đầu tiên của chúng tôi là phân công công việc. Linda chộp lấy quyền điều khiển. Cô nói cô là chuyên gia đàm phán, vì thế cô sẽ mua nguyên liệu và giúp bán hàng. Gunther, người Áo, cũng theo Linda. Những người còn lại chia nhau các việc sản xuất và phân phối. Một người sẽ kiểm tra chất lượng. Một người khác phải đảm bảo thiệp được giao nhận kịp thời. Tôi tình nguyện tham gia nhóm sản xuất thiệp với hai người Argentina và anh chàng người Mỹ gốc Li-băng bao gồm cắt giấy, phết hồ, rắc kim nhũ và viết lời chúc.

Đầu tiên, chúng tôi phải thiết kế một tấm thiệp Giáng sinh. Chúng tôi quyết định chọn một mẫu vẽ đơn giản nhưng trang nhã để có thể sản xuất nhanh. Chúng tôi vẽ một cái cây hình tam giác, điểm bằng nhũ bạc, bên trong thiệp là lời chúc thông thường “Chúc mừng Giáng sinh”. Linda chạy vội đi mua vật liệu dự trữ trong khi nguyên vật liệu sản xuất thiệp bày ngổn ngang trên bàn. Tôi đứng ở một đầu bàn, cắt giấy thành các tấm thiệp. Hai người Argentina đứng trong tư thế sẵn sàng rắc nhũ và viết lời chúc, còn nhà quản lý ngân hàng người Mỹ gốc Li-băng cầm một cái bút màu xanh để vẽ cây. Các bạn khác trong nhóm vây quanh chúng tôi, chuẩn bị để đưa vật liệu, giao hàng, theo dõi kho hàng, tài khoản, thời gian và kiểm tra chất lượng. Một tiếng còi vang lên và chúng tôi bắt đầu. Tôi cắt giấy nhanh hết sức, các bạn người Argentina hối hả rắc nhũ. Trong nửa giờ sau, chúng tôi làm ra hàng loạt thiệp cho đến khi tiếng còi lại vang lên. Sau đó, chúng tôi đi sang phía kia phòng để nói chuyện và nghỉ ngơi, còn những người tổ chức xem xét bàn chúng tôi và ghi lại thành quả.

Linda ngồi bắt chéo chân cáu kỉnh. Rõ ràng cô đang thất vọng. “Nhóm bên cạnh chúng ta giao được nhiều thiệp hơn”, cô nói, “và chúng ta đã lãng phí rất nhiều vật liệu. Chúng ta phải miệt mài sản xuất mới tăng được số lượng”. Hai người Argentina nhìn tôi và sắp sửa phì cười. Nhưng chúng tôi đã nghiêm túc gật đầu.

“Chất lượng không tốt”, Linda vừa nói vừa liếc danh sách trên bìa cặp hồ sơ cô đã mua bằng tiền mua vật liệu của chúng tôi. “Và chúng ta đã không kịp giao một lô thiệp ngay trước khi trò chơi kết thúc. Chúng ta cần phải cố gắng hơn”. Hai người Argentina, Raphael và Ernesto, thì thầm với nhau. Linda giơ một ngón tay nhỏ xíu lên.

“Chúng ta cần nói chuyện.”

Họ im lặng.

Gunther nhỏm dậy và bắt đầu: “Chúng ta cần nghĩ đến bài thuyết trình khi kết thúc trò chơi đi thôi, phải không nào. Tôi nghĩ chúng ta cần lập một biểu đồ, trục x là thời gian, trục y là thành quả về tài chính để thể hiện chúng ta đã nâng cao thành tích như thế nào”.

Linda ngước nhìn Gunther trìu mến. Cuối cùng đã có ai đó hiểu ra vấn đề.

“Anh ta nói trục y là cái gì?”, người phụ nữ Indonesia huých vào sườn tôi.

“Thành quả về tài chính”, tôi thì thầm đáp lại.

“Này, các bạn có muốn chia sẻ không?”, Gunther nói, quay lại nhìn chúng tôi chằm chằm.

“Nếu đã nói chuyện, các bạn phải nói với cả chúng tôi”, Linda tươi cười tán thành.

Vòng hai của trò chơi là làm thiệp cho ngày lễ Hallowen. Trong khi chúng tôi đang cố gắng nghĩ ra lời chúc hay, lần đầu tiên kể từ khi đến HBS, tôi đã nảy ra một ý tưởng.

“Chúc mừng Lễ hội hóa trang!” Câu đó vừa thích hợp lại vừa dễ viết. Ý kiến này được chọn. Lần này việc sản xuất thiệp diễn ra nhanh hơn nhiều, nhưng Linda vẫn cau có đi vòng quanh bàn. Khi chúng tôi làm xong lô đầu tiên, cô cầm lên, liếc qua rồi giận dữ ném xuống mặt bàn và quát lên : “Cái gì thế này?!” Sau đó, do đàm phán không tốt, cô đã đem về cho chúng tôi phôi và bút vẽ không đúng chủng loại. Một phụ nữ Canada, từ đầu đến giờ vẫn im lặng, bắt đầu lẩm bẩm chửi rủa.

Trong giờ giải lao tiếp theo, Gunther lại đứng vị trí bên cạnh bảng. “Chúng ta phải lập một biểu đồ Gantt!”, anh ta tuyên bố.

“Một biểu đồ Gantt ấy à!”, Linda la lên, cười sặc sụa.

“Biểu đồ Gantt là cái gì?”, tôi hỏi Raphael. Anh nhún vai.

“Đó là một biểu đồ cột dùng để sắp xếp chương trình làm việc của một dự án”, anh chàng người Indonesia nói.

Không may, một cuộc nổi loạn đã xảy ra sau đó. Cuối cùng, vị cứu tinh trong lĩnh vực sản xuất của chúng tôi là Ernesto, vì sở trường của anh là làm thủ công. Sau hai vòng, anh có thể sản xuất nhanh chóng hàng loạt thiệp rất đẹp. Anh hướng dẫn chúng tôi một vài mẹo cắt, gấp giấy cơ bản và chúng tôi lại bắt đầu. Đến lúc thuyết trình, Linda và Gunther vạch ra những biểu đồ thời gian và quy trình phức tạp đến nỗi hoàn toàn quên mất nhiệm vụ chính của chúng tôi. Họ không thể trình bày rõ ràng rằng chúng tôi đang sản xuất thiệp chúc mừng. Trong khi đó, hai bạn người Canada và Hàn Quốc chuẩn bị phần trình bày của họ, nó còn có ý nghĩa hơn nhiều. Vì tôi nói giọng Anh và có chút kinh nghiệm thuyết trình trước đám đông nên mọi người gợi ý tôi cùng anh bạn người Trung Quốc thuyết trình thay nhóm. Khi được hỏi đã thu được gì từ bài tập này, tôi trả lời đó là được giao tiếp với nhiều người và mô tả khoảnh khắc mà tôi, một người Anh, thảo luận với một người Indonesia và hai người Argentina về lý do chọn “Lễ hội hóa trang” để đưa vào thiệp Halloween.

Linda và Gunther đã cho tôi thấy chỉ cần hai người cố vấn là đủ làm rối tung một dự án. Một người làm cho mọi người phát điên lên, còn người kia cười nhạo những trò hề của người này. Cuối ngày thứ hai của trò chơi này, tôi tình cờ gặp Justin và chúng tôi trao đổi những ghi chép của mình. Tôi kể cho anh ta nghe về lời nhận xét xúc phạm của Linda.

Anh ta nói : “Tổ chức nào cũng có người như vậy. Họ luôn đi lạc đề nhưng cứ khăng khăng buộc mọi người phải im lặng lắng nghe mình.”

***

Sau trò chơi “Lời chúc mừng đỏ thắm”, chúng tôi quay lại lớp để học buổi đầu tiên về nguồn gốc của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Ngồi bên phải tôi là một phụ nữ tóc vàng hoe yểu điệu, đã làm việc cần mẫn ba năm tại một công ty cổ phần tư nhân có trụ sở tại New York chuyên hoạt động trong lĩnh vực bất động sản. Cô nói cô tới HBS chỉ để được nghỉ ngơi. Cô không hy vọng học được gì nhiều, mà chỉ chờ đợi được ngủ, thoát khỏi công việc và có thời gian nghỉ việc dài hơi. Người bên trái tôi nguyên là một nhà báo trong lĩnh vực tài chính, thường tỏ vẻ thờ ơ bằng cách không bao giờ mang theo sách học nhưng suốt buổi học lại thì thầm bình phẩm với tôi. Trong một buổi học, chúng tôi học về lịch sử hãng Roll-Royce và tình hình chủ nghĩa tư bản tại Anh hiện nay. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, hãng Roll-Royce được kêu gọi sản xuất hàng loạt máy bay và vũ khí chiến đấu. Chỉ trong vòng vài tháng, họ đã tập hợp được một mạng lưới rộng lớn các nhà thầu phụ nhằm giúp họ sản xuất nhanh hơn và đáng tin cậy hơn. Một phụ nữ là kỹ sư hãng Boeing nói rằng ông chủ cũ của cô sẽ không thể tưởng tượng có thể thuê ngoài ở quy mô lớn như vậy, hãng này thường muốn tự làm lấy càng nhiều càng tốt. Một người Pháp điều hành nhà máy đặt tại Nga của một công ty thực phẩm lớn của Pháp tâm sự với chúng tôi: “Nơi tôi từng làm việc, phải mất 6 đến 7 tháng để quyết định cho thầu lại, rồi thêm 5 tháng nữa đàm phán với nhà thầu phụ để đạt được thỏa thuận hợp lý, lại thêm 6 tháng nữa để bắt đầu quy trình. Chúng tôi đang làm theo lối mòn thôi mà”.

Giảng viên yêu cầu tôi đưa ra ý kiến về việc nước Anh sẽ suy thoái hay không. Tôi trả lời chắc chắn không. Hay đúng hơn điều đó phụ thuộc vào góc nhìn của từng người. Tất nhiên, nước Anh không còn là một đế chế nữa, nhưng vẫn còn là một nền kinh tế ổn định và thịnh vượng. Đó vẫn là một trong những quốc gia giàu có nhất thế giới, có một mạng lưới phúc lợi xã hội an toàn, rộng lớn đề phòng tình huống xấu nhất. Lời nhận định của tôi gây ra một số ý kiến phản bác. Anh bạn người Nga nói rằng theo kinh nghiệm của anh, người Anh lười biếng và bất tài. Một nhà quản lý trẻ người Mỹ từng sống một năm ở London nói rằng tàu điện ngầm không hoạt động và nhìn chung các dịch vụ như cửa hàng, hiệu ăn, sân bay và các dịch vụ công cộng thật khủng khiếp. Anh nói, ý kiến cho rằng nước Anh vẫn còn là một nước lớn thật nực cười. Tôi bảo tôi đã sống ở Anh, Pháp và Mỹ, tôi có những dẫn chứng để phản bác và không thể nói nước này tốt hơn nước kia. Tôi so sánh nền y tế chung của Anh và Pháp với tờ séc 11.000 đô-la tôi vừa viết để mua bảo hiểm năm cho gia đình tại Mỹ. Tôi có thể nhìn thấy anh bạn người Mỹ quắc mắt nhìn tôi từ phía bên kia căn phòng, nhưng anh bạn người Pháp đến gần tôi và nói anh đánh giá cao sự ủng hộ tôi dành cho lục địa của họ.

“Tôi lấy làm tiếc về việc anh bị nuốt”, anh nói. Nuốt là một thuật ngữ dùng để chỉ những sinh viên vô cớ nghi ngờ nhận định của người khác. Tôi không hoàn toàn coi trọng thái độ thù địch của gã nhân viên ngân hàng người Mỹ, nhưng với những người khác trong lớp thì điều đó thật rõ ràng. Tôi đã bị nuốt.

***

Ngày cuối cùng của tuần học kiến thức cơ sở, chúng tôi quay về tòa nhà Burden để nghe thầy Ruback nói chuyện và thuyết trình bằng slide. Thầy cho chúng tôi xem đường lo lắng ở HBS, trong đó, trục hoành là thời gian còn trục tung là sự căng thẳng tinh thần. Đường cong bắt đầu từ trên cao, đi xuống dần khi học kỳ trôi qua, tăng vọt lên vào thời điểm thi cử và không xuất hiện trên đồ thị trong mùa tuyển sinh. Slide tiếp theo phân tích tuần học tập để chúng tôi biết khóa học yêu cầu gì ở mình: 55,1 giờ dành cho học tập mỗi tuần, bao gồm giờ học trên lớp và ít nhất hai giờ chuẩn bị ở nhà cho mỗi tình huống nghiên cứu. Dựa vào những gì đã học trong Chương trình dự bị, tôi biết con số đó thấp hơn thực tế rất nhiều. Chúng tôi sẽ không còn nhiều thời gian dành cho những việc khác, nhưng thầy Ruback nói đó là thử thách. HBS buộc bạn phải lựa chọn. Hoài bão của bạn là gì? Nghĩa vụ của bạn là gì? Chúng có phù hợp không? Nếu không, bạn phải làm gì để thay đổi cái này hoặc cái kia? Bạn sử dụng thời gian như thế nào để đạt được điều mình muốn?

Đối với nhiều người, 55,1 tiếng học tập mỗi tuần chỉ như một cơn gió thoảng qua. Bởi với công việc trước đây, họ thường làm việc từ 80 đến 100 giờ mỗi tuần, họ đã thông thạo nhiều kiến thức của năm học đầu tiên. Tôi không nằm trong số đó. Khi kết thúc bài nói chuyện, thầy Ruback kể lại giai thoại về một sinh viên MBA tranh cãi với một người trong ban quản trị trường. Khi quá tức giận, sinh viên nọ lớn tiếng: “Sao ông đối xử với tôi như thế? Tôi là khách hàng cơ mà, đồ chết tiệt”. “Không, anh không phải là khách hàng”, người đó trả lời, “Anh là sản phẩm”. “Tôi đoán các bạn đang phân vân giữa hai khái niệm”, thầy Ruback nói ngay khi tiếng cười lắng xuống. “Đôi khi bạn là khách hàng, những lúc khác bạn sẽ là một sản phẩm”.

Sau bài phát biểu của thầy Ruback, chúng tôi đi sang nhà Aldrich để gặp lớp của mình. Chia lớp là hành động xã hội hóa và xây dựng quan hệ tích cực nhất của HBS. Trong suốt năm thứ nhất, bạn sẽ học cùng 90 người khác. Họ sẽ là trọng tâm đời sống học tập và đời sống xã hội của bạn. Mỗi lớp là bản sao thu nhỏ của khóa học 895 người, có tỷ lệ nam/nữ, người Mỹ/người các nước khác bằng nhau và đa dạng về dân tộc và nguồn gốc. Từ bây giờ về sau, nhà trường sẽ coi chúng tôi là một lớp. Cứ 5 năm một lần, chúng tôi lại họp lớp. Những người gây quỹ cũng kêu gọi đóng góp theo lớp. Chừng nào HBS còn quan tâm, thì tôi mãi mãi là một thành viên của Lớp A, khóa 2006.

Phòng học 107 của chúng tôi nằm trong tòa nhà Aldrich, ở tầng hầm, cạnh nhà vệ sinh nam. Khi chúng tôi đến, thẻ ghi tên chúng tôi đã được đặt vào từng chỗ. Tôi ngồi
ở giữa lớp, phía cánh trái, đối diện với bảng. Đó là một vị trí đẹp, trung tâm, không quá gần đằng trước và có phần hơi khuất. Trước khi buổi học bắt đầu, chúng tôi được truy cập một cơ sở dữ liệu chứa các bức ảnh và sơ yếu lý lịch của các thành viên trong lớp, vì vậy, khi bước vào lớp, chúng tôi có thể nhận ra từng người. Đây thật là điều khác thường: bạn đã trưởng thành và có thể tự kiểm soát phạm vi bạn bè và các mối quan hệ của mình, giờ đây đột nhiên bạn được đưa vào một lớp học toàn người lạ với một thông điệp “Đây sẽ là nơi tất cả bắt đầu”. Nhưng khi nhìn xung quanh, tôi thấy rất hứng thú. Sau 10 năm làm việc, tôi lại có cơ hội đi học.

Tôi được xếp ngồi giữa hai sinh viên xuất thân từ quân đội. Bên phải là Bob, phi công lái máy bay ném bom Stealth. Tôi đã gặp trong thời gian học Chương trình dự bị. Bob người tầm thước với mái tóc vàng rơm và đôi mắt màu lơ nhạt, đã có bốn con và luôn mang bữa trưa từ nhà. Ở Bob có vẻ cương quyết và thiếu hài hước, mẫu người thích hợp để lái loại vũ khí quân dụng hạng nặng trị giá hàng tỷ đô-la như thế. Anh vào học trường kinh doanh vì cảm thấy mệt mỏi với cuộc sống phi công và muốn tìm kiếm cơ hội lớn cho bản thân và gia đình. Anh đã 35 tuổi và không thể tiếp tục lãng phí thời gian.

Bên trái tôi là Lara, cô sẽ quay lại Học viện Quân sự West Point giảng dạy ngay khi lấy được tấm bằng MBA. Bob ném bom Iraq từ trên cao, còn Lara điều hành bộ phận cung ứng và kế toán trong đơn vị ở dưới mặt đất.

Cả Bob và Lara đều là hiện thân của một trong ba chữ M được cho là đặc điểm của HBS: Mormons (giáo phái Mormon), Military (Quân đội) và công ty tư vấn McKinsey. Tín đồ Mormon đầu tiên là thầy hiệu trưởng Kim Clark. Thầy trưởng ban tuyển sinh cũng là tín đồ Mormon, trong lớp tôi có bốn tín đồ Mormon, kể cả Bob. Đối với nhiều sinh viên nước ngoài, và cả sinh viên Mỹ, thì đây là lần đầu tiên họ được tiếp xúc với tín đồ Mormon, và sự ngờ vực của họ làm dấy lên những câu chuyện cười thông tục về đa thê.

Về quân đội, có năm sinh viên từng phục vụ trong quân đội, kể cả Bob. Còn hãng tư vấn McKinsey dường như coi trường này là cơ sở đào tạo và tuyển dụng riêng của họ. Khi khóa học bắt đầu, trong lớp tôi có năm người của McKinsey, vào lúc chúng tôi ra trường đã có thêm bốn người nữa.

Thầy chủ nhiệm Ben Esty là một giáo sư tài chính trẻ trung, là cầu nối giữa chúng tôi và ban quản trị trường. Thầy không dạy mà là người chứng nhận và hướng dẫn những thủ tục hành chính cho chúng tôi. Thầy sải bước dọc lớp, vén mớ tóc xõa xuống mắt và hùng hồn nói về tầm quan trọng của tập thể lớp đối với từng người. Chúng tôi sẽ mãi mãi nhớ đến nhau. Các bạn cùng lớp sẽ là những người đầu tiên chúng tôi cầu cứu trong công việc và thậm chí trong đời sống cá nhân. Tay trong tay, chúng tôi sẽ cùng vượt qua rừng rậm Chương trình bắt buộc, dìu nhau vượt qua đầm lầy của sự thiếu hiểu biết và khả năng, hướng tới những đỉnh cao tràn ngập ánh mặt trời của năng lực và cơ hội. Nghe giống như một bộ phim, trong đó có những người lạc lõng, mỗi người lại có năng khiếu riêng chuyên gia chất nổ, người giỏi ngụy trang, người lại giỏi võ karate được tập hợp lại để cùng thực thi một nhiệm vụ nguy hiểm.

Sau đó, chúng tôi chơi trò tìm hiểu nhau. Lần này, chúng tôi có 10 phút hội ý với những người khác trong hàng và tìm ra những điểm chung. Đó là một bài tập gắn kết nho nhỏ. Bob tình nguyện dẫn dắt cuộc hội ý. Eva, người phụ nữ thanh mảnh, từng là ủy viên quản trị của một công ty xi măng Mexico, có vẻ rụt rè và không biết cách trình bày.

Trò chơi bắt đầu từ giữa hàng thứ hai. Một nam sinh viên phía bên phải đứng lên giới thiệu về mình rất tự nhiên, rồi đến người tiếp theo cho đến khi tìm ra được một điểm chung của tất cả mọi người trong hàng. Trò chơi lại tiếp tục với một hàng khác. Kết thúc trò chơi, thầy Esty chúc chúng tôi may mắn và cho giải tán lớp.

Từ phía cuối lớp, Misty, một cựu binh, la to: “Có ai đến Red Line uống bia không?” Tiếng hoan hô vang dội. Cô đứng ở cửa lớp, vẫy mọi người đi qua như thể họ là những người lính đang nhảy dù từ máy bay xuống. Sau khi trải qua cảm giác khám phá trong Chương trình dự bị, giờ đây tôi đột nhiên cảm thấy chán nản. Tôi rời bỏ Paris vì những điều này sao? Mọi người chạy xô ra vì bia? Họ hy vọng khởi động đời sống xã hội của họ? Ngoài kia, trên bãi cỏ giữa hai tòa nhà Aldrich và Spangler, Hội sinh viên đã dựng một cái lều với quầy rượu và hệ thống âm thanh khổng lồ. Ban nhạc Black Eyed Peas đang chơi một bản nhạc. Tôi cố gắng nghe ca từ. Đây có thật sự là đoạn đồng ca không? Tôi nghe lại lần nữa trong khi những cái đầu cứ nhấp nhô quanh tôi. Đúng rồi. “Hãy chậm lại ở đây, hãy chậm lại”.

Bình luận