Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Những Thiên Thần Nổi Giận

Chương 3

Tác giả: Sidney Sheldon

Jennifer Parker không chỉ xuất hiện trên tin tức buổi tối. Cô chính là tòan bộ tin tức.

Câu chuyện cô chuyển một con hoàng yến chết cho nhân chứng chính của chưởng lý có sức hấp dẫn không ai cưỡng lại được. Tất cả các kênh vô tuyến đều đưa hình ảnh Jennifer rời khỏi căn phòng của chánh án Waldrnan, khó khăn lách ra khỏi đám phóng viên và dân chúng vây lấy cô.

Jennifer không thể tưởng tượng được sự chú ý đáng sợ của dư luận đối với mình. Họ vây quanh cô tứ phía: Phóng viên của tivi, đài phát thanh và các nhà báo. Cô chỉ mong thoát khỏi họ càng nhanh càng tốt, nhưng lòng tự trọng buộc cô phải dừng lại.

– Ai đã đưa cho cô con hoàng yến, cô Parker?

– Cô đã gặp Michael Moretti bao giờ chưa?

– Cô có biết rằng Di Silva định dùng vụ án này để lọt vào văn phòng thống đốc bang không?

– Chưởng lý nói ông ta sẽ làm cho cô mất việc. Cô có chống lạì việc đó không?

Đối với từng câu hỏi, Jennifer chỉ mím môi trả lời ngắn gọn:

– Tôi không có ý kiến gì hết.

Trên chương trình tin tức buổi tối của hãng CBS người ta gọi cô là “Parker đi sai đường”. Một phát thanh viên vô tuyến của hãng ABC đặt cho cô cái tên “chú hoàng yến”. Trên kênh của hãng NBC, một nhà bình luận thể thao so sánh cô với Roy Riegels, một cầu thủ bóng đá đưa bóng vào lưới nhà từ cự li rất gần gôn.

Tại một khách sạn thuộc quyền sở hữu của Michael Moretti, có một bữa tiệc đang diễn ra. Có hơn một chục người trong phòng uống rượu và cười nói ồn ào.

Michael Moretti ngồi trầm ngâm một mình trước quầy rượu chăm chú theo dõi Jennifer Parker trên tivi. Anh ta nâng chén rượu lên chào cô và uống cạn.

Luật sư khắp nơi bàn tán về trường hợp Jennifer Parker. Một nửa trong số họ tin rằng cô ta đã bị mafia mua chuộc, nửa khác nghĩ rằng cô ta đã bị lừa vì quá ngây thơ. Tuy nhiên, dù ở phía nào đi nữa họ đều nhất trí một điểm: sự nghiệp ngắn ngủi của Jennifer Parker với tư cách là một luật gia đã chấm dứt.

Cô mới chỉ hành nghề có đúng 4 giờ đồng hồ.

Cô sinh ra ở Kelso, bang Washington, một thị trấn nhỏ được xây dựng vào năm 1947. Người lập nên thị trấn này, một nhà buôn gỗ người Scotland, đã dùng tên của quê mình để dặt cho thị trấn.

Cha của Jennifer là một luật sư. Đầu tiên ông làm việc cho các công ty gỗ, sau đó cho các công nhân ở xưởng cưa. Những ký ức về thời thơ ấu của Jennifer tràn đầy kỷ niệm vui vẻ.

Bang Washington là một nơi đẹp như tranh đối với cô bé, có những dãy núi kỳ thú, nơi trượt tuyết và các công viên quốc gia. Cô được trượt tuyết, bơi thuyền và khi lớn lên chút nữa được leo núi. Jennifer học leo núi ở đỉnh Rainier và trượt tuyết ở Timberline với cha cô.

Cha Jennifer luôn dành thời gian để chơi với cô. Trong khi đó mẹ cô, một người đàn bà đẹp và luôn bận rộn, rất ít khi có mặt ở nhà. Jennifer rất yêu cha. Ông Abner Parker là một người có dòng máu pha trộn giữa Anh, Irland và Scotland. Ông người tầm thước, tóc đen và mắt xanh lá cây, một người cực kỳ tốt bụng và công bằng. Ông không quan tâm tới tiền bạc mà quan tâm đến con người.. Ông thường ngồi nói chuyện với Jennifer hàng tiếng đồng hồ về các vụ kiện mà ông xét xử và những vấn đề mà mọi người đều trình bày với ông, tại văn phòng luật sư khiêm tốn và bé nhỏ. Mãi về sau, Jennifer vẫn không biết rằng ông nói chuyện với cô, vì ông không còn ai khác để chia sẻ những tình cảm của mình. Sau giờ học Jennifer thường chạy vội đến tòa án để xem cha mình làm việc. Nếu tòa án không có vụ xử kiện nào, cô thường đi xem văn phòng của cha, nghe ông tranh luận với các khách hàng của mình về các vụ kiện. Mọi người coi việc Jennifer sẽ học ở trường luật là điều đương nhiên.

Năm Jennifer 15 tuổi, cô bắt đầu làm việc cho cha vào kỳ nghỉ hè. Vào lứa tuổi khi các cô gái khác còn mải mê hẹn hò với bạn trai, Jennifer đã vùi đầu vào nghìên cứu các vụ kiện và chúc thư.

Các chàng trai rất thích cô, nhưng Jennifer ít khi đi chơi với họ. Khi cha cô thắc mắc điều đó, cô trả lời:

– Tất cả bọn họ đều còn quá trẻ, ba ạ.

Cô biết rằng một ngày kia cô sẽ lấy một luật sư giống như cha cô.

Đúng vào ngày sinh nhật thứ mười sáu của Jennifer, mẹ cô bỏ nhà ra đi cùng với cậu con trai 18 tuổi của nhà láng giềng, và cha Jennifer chết dần từ dạo đó. Bẩy năm sau trái tim ông mới ngừng đập, nhưng ông đã chết từ khi ông nghe tin về vợ mình. Cả thị trấn biết việc đó và họ rất thông cảm với ông. Điều này lại làm cho ông càng đau buồn, vì Abner Parker là một người đàn ông giầu lòng tự trọng. Ông quay ra rượu chè. Jennifer làm mọi điều cố thể để an ủi ông, nhưng cũng chẳng có ích gì. Mọi cái không thể trở lại như cũ được nữa.

Năm sau, Jennifer đến tuổi vào đại học nhưng cô muốn ở nhà với cha. Tất nhiên cha cô không đồng ý.

– Chúng ta sẽ thành đồng nghiệp, Jennifer ạ. – Ông bảo cô – Hãy học nhanh lên để lấy bằng con ạ.

Sau khi tốt nghiệp phổ thông, cô đăng ký học luật tại trường tổng hợp Washington ở thành phố Seattle.

Trong năm thứ nhất, khi các bạn cùng lớp bù đầu với những hợp đồng, chúc thư, bất động sản và các thủ tục kiện tụng của luật hình sự, thì Jennifer cảm thấy tự nhiên như ở nhà. Cô sống trong khu nội trú trường và làm cho thư viện luật của trường.

Jennifer yêu thích Seattle. Vào chủ nhật, cô thường cùng với một sinh viên Ấn Độ tên là Ammini William và một cô gái Irland to xương với tên gọi Josephine Collins, đi bơi thuyền trên hồ xanh ở trung tâm thành phố, hoặc tham gia vào các cuộc đua giành cúp vàng trên hồ Washington.

Có rất nhiều câu lạc bộ nhạc jazz hay ở Seattle và Jennifer thích nhất câu lạc bộ Poop Deck, ở đó người ta ngồi trên những thùng gỗ thay cho bàn ghế.

Vào buổi chiều Jennifer, Ammini và Josephine thường gặp nhau ở quán Hastv Tasty, nơi có món khoai tây rán ngon nhất thế giới.

Có hai chàng trai theo đuổi Jennifer. Một sinh viên trường y: trẻ, đẹp trai tên là Noal Larkin và một sinh viên luật tên là Ben Munro. Thỉnh thoảng Jennifer cũng đi chơi với họ, nhưng cô quá bận để có thời giờ nghĩ tới một chuyện tình nghiêm chỉnh.

Mùa hè nào, Jennifer cũng về nhà thăm cha. Ông đã thay đổi rất nhiều. Ông không bao giờ say nhưng cũng chẳng có lúc nào tỉnh táo cả. Ông đã ẩn vào một pháo đài tình cảm và không ai có thể hiểu được ông nữa.

Ông mất vào lúc Jennifer đang học năm cuối ở trường luật. Mọi người vẫn nhớ đến ông và có gần một trăm người tham dự đám tang Abner Parker, những người mà lúc sinh thời ông đã giúp đỡ, khuyên bảo và kết bạn. Jennifer không chỉ mất đi một người cha. Cô còn mất cả một người thầy và một người bảo trợ nữa.

Sau đám tang, Jennifer trở lại Seattle để học nốt năm cuối. Cha cô chỉ để lại cho cô gần 1000 đôla và cô phải quyết định sẽ làm gì trong tương lai. Cô biết rằng mình sẽ không thể hành nghề luật sư ở Kelso, vì ở đó người ta vẫn coi cô là một cô bé đáng thương có người mẹ bỏ nhà theo trai.

Do tốt nghiệp với kết quả cao, Jennifer đã được hàng chục hãng luật hàng đầu trong cả nước phỏng vấn và cô nhận được một số lời mời đến làm việc. Warren Oakes, giáo sư về luật hình sự của trường bảo cô:

– Đó quả là một cống vật thật sự, cô gái trẻ ạ. Thường thì một phụ nữ rất khó có thể tìm được chỗ làm việc trong một công ty luật có uy tín.

Khó khăn của Jennifer lúc này là cô không có một chỗ trú chân ổn định. Cô cũng chưa rõ mình sẽ sống ở đâu. Ngay trước khi cô tốt nghiệp, tình cờ khó khăn ấy đã được giải quyết. Giáo sư Oakes yêu cầu cô gặp ông sau giờ học.

– Tôi vừa nhận được một lá thư từ văn phòng chưởng lý quận Manhattan. Ông ta yêu cầu tôi giới thiệu một học sinh xuất sắc nhất về làm trợ lý. Cô có thích làm ở đó không?

Làm việc ở New York? Jennifer quá vui sướng và câu trả lời hầu như được bật ra ngay tức khắc:

– Có ạ, thưa thầy!

Cô bay đến New York để dự kỳ thi sát hạch và trở lại Kelso để đóng cửa văn phòng luật của cha cô. Đây là một công việc vừa cay đắng vừa ngọt ngào, tràn đầy những kỷ niệm của quá khứ, và Jennifer có cảm giác rằng cô đã lớn lên ở trong chính văn phòng này.

Cô kiếm việc làm ở thư viện luật của trường tổng hợp để sống qua ngày, trong khi chờ đợi kết quả của cuộc thi sát hạch ở New York.

– Đó là một trong những kỳ thi khó nhất trong cả nước đấy! – Giáo sư Oakes nhắc nhở cô.

Nhưng Jennifer biết rằng mình sẽ đỗ.

Cũng ngày hôm đó, cô nhận được thông báo về việc đã đỗ kỳ thi sát hạch và một giấy mời đến làm việc của văn phòng chưởng lý ở New York.

Một tuần sau đó, Jennifer đến New York.

Cô thuê một căn hộ nhỏ ở cuối đại lộ số Ba. Căn hộ này năm ở tầng tư của một tòa nhà không có lò sưởi. Tập thể dục sẽ có lợi cho sức khoẻ của mình, Jennifer tự nhủ. Căn hộ này có một phòng ngủ bé xíu, trong đó có một chiếc đi văng có thể biến thành giường ngủ, một buồng tắm nhỏ có cửa sổ được chốt chặt. Đồ đạc trong phòng cực kỳ tồi tàn. Không sao, ta sẽ không sống ở đây lâu đâu mà, Jennifer nghĩ. Ta sẽ chỉ sống ở đây chừng nào ta chưa chứng tỏ được mình là một luật sư giỏi. Tất cả những cái đó chỉ là một giấc mơ. Thực tế là cô chỉ ở New York có gần 72 giờ đồng hồ. sau đó cô đã bị đuổi khỏi đội quân của chưởng lý và còn bị đe doạ tước quyền luật sư.

Jennifer bỏ đọc báo và tạp chí, ngừng xem vô tuyến bởi bất cứ lúc nào đụng đến chúng, cô đều thấy mình trong đó. Cô cảm thấy mọi người đều chú ý đến mình, trên đường phố, trên ôtô bus và ở ngoài chợ nữa. Cô bắt đầu ở lỳ trong nhà, không trả lời điện thoại hoặc ra mở cửa khi có chuông reo. Cô đã định thu dọn đồ đạc và trở lại bang Washington. Cô còn định tìm việc thuộc các lĩnh vực khác. Cô đã nghĩ đến việc tự tử. Cô dành hàng tiếng đồng hồ ngồi viết thư cho chưởng lý Robert Di Silva. Một nửa số thư buộc tội ông kém nhạy cảm và thiếu sự thông cảm. Một nửa khác gồm tòan những lời xin lỗi và cầu xin ông cho cô có cơ hội làm lại cuộc đời. Kết cục không có bức thư nào được gửi đi cả.

Lần đầu tiên trong đời, Jennifer chìm đắm trong tuyệt vọng. Cô không có bạn bè ở New York, không có ai để tâm sự cả. Cô tự nhốt mình trong phòng suốt ngày và đến khuya mới dám đi ra dạo trên các đường phố vắng lặng của thành phố. Những ngôi nhà vắng lặng, chủ nhân của đêm tối, không bao giờ bám lẵng nhẵng theo cô. Có lẽ chúng thấy nỗi cô đơn và tuyệt vọng của mình trong cặp mắt cô.

Vừa đi, Jennifer vừa hình dung lại cảnh xử án với phần kết cục luôn thay đổi.

“Một người đàn ông tách khỏi nhóm người đang vây quanh Di Silva và bước vội đến chỗ cô. Hắn ta mang theo một chiếc phong bì to.

– Cô là cô Parker?

– Vâng?

– Sếp muốn nhờ cô đưa cái này cho Stela.

Jenllifer lạnh lùng nhìn hắn ta:

– Xin cho tôi xem căn cước của ngài?

Người đàn ông sợ hãi bỏ chạy.

“Một người đàn ông tách khỏi nhóm người đang vây quanh Di Silva và bước vội đến chỗ cô. Hắn ta mang theo một chiếc phong bì to.

– Cô là cô Parker?

– Vâng?

– Sếp muốn nhờ cô đưa cái này cho Stela.

Hắn giúi chiếc phong bì vào tay cô. Jennifer mở phong bì và thấy con hoàng yến chết ở trong đó.

– Tôi ra lệnh bắt giữ anh.

“Một người đàn ông tách khỏi nhóm người đang vây quanh Di Silva và bước vội đến chỗ cô. Hắn ta mang theo một chiếc phong bì to. Hắn đi ngang qua Jennifer tới chỗ một trợ lý trẻ của chưởng lý. “Sếp muốn đưa cái này cho Stela”.

Cô có thể tưởng tượng ra những cảnh như vậy bao nhiêu lần cũng được, nhưng làm như vậy cũng chẳng thay đổi được gì cả. Một sai lầm ngu ngốc đã làm hại cả đời cô. Nhưng mà ai nói là đời cô coi như bỏ đi nhỉ? Báo chí chăng? Hay là Di Silva? Cô vẫn chưa nghe nói gì về việc tước quyền hành nghề của mình, vì cô vẫn còn là một luật sư cơ mà. Sẽ có những hãng luật mời mình, cô tự nhủ.

Lòng tràn đầy quyết tâm, Jennifer tìm lại sách các hãng mà cô đã từng tiếp xúc và gọi điện cho họ. Không ai trong số người mà cô hỏi có mặt ở cơ quan, và họ cũng không trả lời cô sau đó. Phải mất năm ngày như vậy mới hiểu rằng mình đã biến ra một con chiên ghẻ của giới luật pháp. Sự ồn ã xung quanh vụ án đã dịu đi nhưng người ta vẫn còn nhớ đến nó.

Jennifer vẫn tiếp tục gọi điện cho các hãng luật, và tâm trạng của cô chuyển từ thất vọng sang phẫn nộ, khinh bỉ rồi lại trở lại thất vọng. Cô thường tự hỏi mình sẽ làm việc gì từ nay cho đến cuối đời và mỗi lần như vậy, câu trả lời vẫn là: “Tất cả những gì cô muốn làm, điều duy nhất cô quan tâm, là hành nghề luật”: Cô là một luật gia mà. Cô nhất định phải tìm cách để làm công việc đó. Cô bắt đầu tới các văn phòng luật ở quận Manhattan. Khi đến đó, cô không bao giờ báo trước mà chỉ nói tên mình và yêu cầu người tiếp khách cho gặp sếp của văn phòng. Đôi lần cô cũng được phỏng vấn, nhưng những lúc đó cô hiểu rằng người ta làm như vậy chỉ vì tò mò. Cô là một con quái và họ muốn nhìn tận mắt xem cô trông như thế nào. Và sau khi phỏng vấn, người ta trả lời cô rằng hiện chưa có việc thích hợp cho cô.

Sau sáu tuần, Jennifer hầu như đã hết sạch tiền. Cô muốn chuyển sang một căn hộ khác rẻ hơn, nhưng không còn căn hộ nào rẻ hơn chỗ cô đang ở. Cô bắt đầu nhịn ăn sáng, ăn trưa và ăn tối ở một cửa hiệu tối tăm, thức ăn rất tồi nhưng rẻ tiền.

Sau khi đã liên hệ với tất cả các hãng luật lớn mà không xin được việc, Jennifer bắt đầu gọi điện cho các hãng nhỏ, nhưng ở đó người ta cũng đã biết cô. Họ chỉ gạ gẫm cô chứ không đã động đến chuyện công việc.

Cô bắt đầu thấy tuyệt vọng. Được rồi, nếu họ không muốn thuê mình, mình sẽ mở một văn phòng riêng. Nhưng vấn đề là phải có tiền, ít nhất là 10 nghìn đôla. Cần phải thuê nhà, điện thoại, trả lương người thư ký, sách luật, bàn ghế, văn phòng phẩm… Thế là cô không còn đủ tiền để mua tem thư nữa.

Cô hy vọng sẽ nhận được chút tiền nào đó từ văn phòng chưởng lý, nhưng tất nhiên là hy vọng ấy không thể có được. Cô không có cách nào để mở một văn phòng của riêng mình, dù nó nhỏ bé đến đâu chăng nữa. Bây giờ phải tìm người cộng sự để cùng lập văn phòng.

Jennifer mua một tờ Thời báo New York và bắt đầu xem xét các quảng cáo tìm việc. Ở gần cuối trang quảng cáo cô thấy dòng chữ: “Cần một cộng sự về luật, văn phòng chung với hai người. Tiền thuê với giá hạ”. Hai chữ cuối cùng có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với Jennifer. Cô lập tức đi tầu điện ngầm đến địa chỉ ghi trong quảng cáo.

Đó là một tòa nhà cũ kỹ và đổ nát ở cuối đường Broadway. Văn phòng nằm ở tầng 10 với tấm biển đề đã bị long mất mấy chữ:

KENNETH BALLEY

Chuyên gia điều tra.

Dưới đó là dòng chữ:

HÃNG THU THẬP ROCKEFELERJennifer hít một hơi thở thật sâu, mở cửa và bước vào. Cô đã ở trong một căn phòng nhỏ không có cửa sổ. Có ba chiếc bàn sứt sẹo và mấy cái ghế nằm lay lắt trong phòng, trên hai chiếc ghế có hai người ngồi.

Một người đàn ông trung niên, đầu hói, ăn mặc lôi thôi, đang cắm cúi đọc các loại giấy tờ gì đó. Phía đối diện là một người đàn ông khác, chạc ngoài 30 một chút. Anh ta có bộ tóc mầu gạch đỏ và cặp mắt xanh sáng. Da anh ta tái nhợt và lấm tấm tàn hương. Anh ta mặc một chiếc quần bò bó sát người, một chiếc áo thể thao và đi đôi giầy trắng không tất. Anh ta đang nói chuyện trong điện thoại.

– Xin đừng lo lắng, bà Desser, tôi đã cho hai nhân viên giỏi nhất của mình giải quyết vụ việc của bà. Chúng ta sẽ sớm có tin tức về chồng bà. Tuy nhiên tôi e rằng chúng tôi cần thêm một số tiền nữa để tiến hành công việc… Ồ không, bà đừng gửi bưu điện làm gì. Chiều nay tôi có một số công chuyện ở gần chỗ bà ở và tôi sẽ ghé qua đó lấy tiền.

Anh ta đặt ống nghe xuống, ngước lên và thấy Jennifer. Lập tức, anh đứng dậy, mỉm cười và chìa bàn tay khoẻ và rắn chắc cho cô.

– Tôi là Kenneth Bailey. Tôi có thể giúp gì được cô trong buổi sáng hôm nay nào?

Jennifer nhìn quanh căn phờng nhỏ bé, thiếu không khí và nói một cách thiếu tự tin.

– Tôi, tôi đã đọc quảng cáo của các anh.

– Vậy à! – Cặp mắt xanh của anh tỏ rõ vẻ ngạc nhiên.

Người đàn ông hói lúc này cũng bắt đầu đầu chăm chú nhìn Jennifer.

Kenneth Bailey nói:

– Đây là Otto Wenzel. Ông ta là người của hãng thu thập Rockefeller.

Jennifer gật đầu chào ông này. Sau đó cô quay sang Kenneth Bailey:

– Còn anh thì là chuyên gia điều tra phải không?

– Đúng vậy. Còn cô làm gì?

– Tôi là luật sư.

Kenneth Bailey hoài nghi nhìn cô

– Và cô muốn mở văn phòng ở đây?

Jennifer nhìn lại căn phòng tồi tàn một lần nữa, mường tượng cảnh cô ngồi giữa hai người đàn ông này.

– Có lẽ tôi sẽ xem thêm chút nữa, – Cô nói. – Tôi không chắc…

– Cô chỉ phải trả 90 đôla tiền thuê nhà một tháng.

– Tôi có thể mua cả căn nhà này với giá 90 đôla một tháng – Jennifer trả lời, rồi quay ra định bỏ đi.

– Này, chờ một phút đã.

Jennifer dừng lại.

– Thôi, ta thoả thuận 60 đôla một tháng nhé. Khi nào công việc của cô tiến triển tốt, chúng ta sẽ bàn chuyện tăng tiền sau.

Jennifer biết rằng cô không thể nào tìm được chỗ khác với khoản tiền ít ỏi như vậy. Tuy nhiên cô vẫn phải đắn đo một điều: cô không có đủ 60 đôla.

– Thôi được tôi đồng ý! – Jennifer nói.

– Cô sẽ không phải hối tiếc đâu? – Kenneth Bailey hứa hẹn – Khi nào cô muốn dọn đồ đến đây?

– Tôi chẳng có đồ đạc gì cả.

Kenneth Bailey tự mình sơn hàng chữ trên cửa:

JENNIFER PARKER

Luật sư

Jennifer ngắm nghía tấm biển với tâm trạng vui buồn lẫn lộn. Chưa bao giờ, kể cả trong những lúc tuyệt vọng nhất, cô lại tưởng tượng rằng tên của mình được đặt dưới tên của một thám tử trẻ và một người thu thập biển quảng cáo. Nhưng, nhìn tấm biển, cô không khỏi thấy tự hào. Cô là một luật sư. Tấm biển trên cửa chứng tỏ điều đó.

Giờ đây Jennifer đã có văn phòng, điều duy nhất cô còn thiếu là khách hàng.

Jennifer ăn uống ngày càng kham khổ. Cô tự nấu bữa sáng, nhịn ăn trưa và ăn tối ở các quán ăn tồi tàn.

Sáng sáng cô đến văn phòng vào lúc chín giờ, nhưng cô chẳng có gì làm ngoài việc nghe Ken Bailey và Otto Wenzel nói chuyện điện thoại.

Dường như công việc của Ken Bailey chủ yếu là tìm trẻ lạc hoặc vợ chồng trốn nhà ra đi. Lúc đầu, Jennifer cho rằng anh ta là một kẻ lừa đảo hứa hẹn huyên thuyên để lấy những khoản tiền lớn. Nhưng Jennifer nhanh chóng nhận ra rằng Ken Bailey làm việc cật lực và khá có hiệu quả. Anh ta rất thông minh và nhanh nhẹn.

Otto Wenzel là một người rất khó hiểu. Điện thoại trên bàn ông ta réo liên tục. Ông ta thường nhấc ống nghe lên nói lúng búng mấy câu, ghi vài chữ lên giấy rồi sau đó biến đi đâu hàng giờ đồng hồ.

– Oscar làm công việc báo cáo, – Một hôm Ken Bailey giải thích cho Jennifer.

– Báo cáo gì cơ?

– À. Các công ty sử dụng ông ta để lấy lại ôtô, máy vô tuyến, máy giặt, v.v… – Anh ta tò mò nhìn Jennifer – Cô không có khách hàng nào à?

– Tôi sắp có việc phải làm – Jennifer nói lảng.

Anh ta gật đầu.

– Đừng để chuyện đó làm cô thất vọng. Ai cũng có thể mắc sai lầm.

Jennifer cảm thấy nóng mặt. Thì ra người này cũng biết cô.

Ken Bailey lấy ra một chiếc bánh sandwich nhân thịt bò.

– Cô có thích ăn một chút không?

Chiếc bánh trông thật ngon lành nhưng Jennifer cương quyết từ chối.

– Cám ơn,tôi không ăn trưa.

– Vậy à.

Cô nhìn anh ta ăn bánh một cách ngon lành. Nhìn vẻ mặt cô, Ken Bailey hỏi lại

– Có thật cô không muốn thử một chút không?

– Không, cám ơn. Tôi có hẹn rồi.

Ken Bailey nhìn theo Jennifer đang bước ra khỏi phòng, khuôn mặt anh có vẻ tư lự. Anh thường tự hào về khả năng đánh giá tính cách của mọi người, nhưng Jennifer Parker đã làm anh lúng túng. Qua báo chí và tivi anh chắc rằng người ta đã trả tiền cho cô gái này để cô phá vụ án xét xử Michael Moretti. Sau khi gặp Jennifer anh bắt đầu nghi ngờ chuyện đó. Anh đã lấy vợ một lần và chịu nhiều đau khổ trong cuộc sống gia đình, từ đó anh luôn đánh giá thấp phụ nữ. Nhưng có điều gì đó mách bảo anh rằng đây là một trường hợp đặc biệt. Cô thật là xinh đẹp, sáng sủa và rất tự trọng.

Chúa ơi! Anh tự nhủ. Đừng có mà ngu ngốc. Mình chịu khổ một lần đã là quá đủ rồi.

Jennifer nghĩ: Hãy đưa cho tôi những người dân nghèo khổ, mệt mỏi muốn hít thở tự do, những người không nhà cửa, tiền bạc. Thật đáng nực cười. Ở New York này, không ai quan tâm tới việc ta sống hay chết. Đừng có tự thương thân nữa. Jennifer tự nhủ.

Nhưng làm như thế đâu dễ. Cô chỉ còn có 18 đôla, hạn trả tiền thuê nhà đã đến và cô cũng chưa trả tiền thuê văn phòng. Cô không còn đủ tiền để ở lại New York lâu hơn nữa và cô cũng không đủ tiền để rời New York.

Jennifer đã xem hết cuốn danh bạ điện thoại, gọi điện cho các văn phòng luật theo thứ tự chữ cái, cố kiếm một công việc. Cô gọi điện từ buồng điện thoại dưới nhà vì không muốn Ken Bailey và Otto Wenzel nghe những câu chuyện của mình. Kết quả luôn giống nhau. Không hãng nào muốn thuê cô cả. Có lẽ đành quay về Kelso để kiếm một công việc gì đó, chẳng hạn như cố vấn luật pháp hoặc làm thư ký cho ai đó trong số bạn bè của cha cô. Nếu còn sống chắc cha cô sẽ bất bình lắm. Đó quả là một thất bại cay đắng nhưng cô không còn sự lựa chọn nào khác. Cô sẽ trở về nhà như một kẻ chiến bại. Vấn đề bây giờ là phải lo tiền tàu xe.

Cô lướt qua tờ Bưu điện New York ra buổi chiều và thấy có mục quảng cáo tìm người chung tiền thuê xe đi Seattle. Có cả số điện thoại và Jennifer đã gọi theo số đó. Không có ai trả lời. Cô định gọi lại vào sáng hôm sau.

Ngày hôm sau, Jennifer đến văn phòng lần cuối cùng. Otto đi vắng, nhưng Ken Bailey vẫn ngồi trực điện thoại như thường lệ.

– Tôi đã tìm thấy vợ ngài, – anh nói – Vấn đề khó khăn là bà ấy không muốn về nhà… Vâng tôi biết. Ai mà có thể hiểu hết được đàn bà kia chứ. Được rồi. Tôi sẽ nói cho ngài biết bà ấy đang ở đâu và ngài có thể thử dỗ bà ta quay về nhà xem sao. – Anh nói tên một khách sạn ở ngoại thành, rồi đặt máy xuống, quay sang Jennifer – Sáng nay cô đi làm muộn rồi.

– Ông Bailey, tôi có lẽ phải rời đây thôi. Khi nào có, tôi sẽ gửi trả ông tiền thuê nhà mà tôi còn nợ ông ngay lập tức.

Ken Bailey ngả người vào ghế và chăm chú nhìn Jennifer. Cái nhìn của anh làm cô lúng túng.

– Vậy có được không? – Cô hỏi.

– Cô quay lại bang Washington à?

Jennifer gật đầu.

Ken Bailey chậm rãi nói:

– Trước khi đi, cô có thể giúp tôi một việc nhỏ này được không? Một người bạn luật sư cứ khẩn khoản nhờ tôi đưa trát hầu tòa hộ anh ta, mà tôi thì quá bận rồi. Anh ta chi mười hai đôla rưỡi cho mỗi trát hầu tòa cùng chi phí đi lại. Cô giúp tôi chứ?

Một tiếng sau Jennifer đã có mặt ở văn phòng của hãng luật “Peabody và Peabody”. – Đó chính là nơi mà cô từng nghĩ là sẽ làm việc ở đó. Cô được đưa tới một căn phòng nhỏ ở cuối tòa nhà, ở đó một cô thư ký mệt mỏi đưa cho cô một tập trát hầu tòa.

– Cô cầm lấy này. Và nhớ ghi lại quãng đường phải đi cô có ô tô chứ?

– Không. Tôi e rằng…

– Được rồi, nếu cô đi tàu điện ngầm hãy ghi lại giá vé nhé.

– Vâng.

Cả ngày hôm đó Jennifer đi đưa trát hầu tòa ở các vùng Bronx Brooklyn và Queens dưới trời mưa tầm tã.

Đến 8 giờ tối hôm đó cô đã kiếm được 50 đôla. Cô trở về căn phòng nhỏ bé của mình lạnh cóng và mỏi mệt.

Nhưng ít nhất cô cũng kiếm được một ít tiền, khoản đầu tiên kể từ khi cô đến New York. Và người thư ký nói với cô rằng còn vô số trát hầu tòa cần phải gửi đi. Đó quả là một công việc nặng nhọc, phải chạy đi chạy lại khắp thành phố, và tủi nhục nữa. Cô đã bị người ta đóng sập cửa trước mặt, bị chửi rủa, đe doạ và bị gạ gẫm nữa. Viễn cảnh của một ngày làm việc giống như thế nữa quả là đáng sợ, nhưng dù sao, chừng nào cô còn ở lại New York, cô vẫn có hy vọng dù là mỏng manh.

Jennifer bước vào bồn tắm nước nóng, thả mình trong đó và cảm thấy dễ chịu khi nước vỗ nhẹ lên da thịt mình. Lúc này cô mới thấy mình mệt mỏi đến mức nào. Dường như tất cả các thớ thịt đều nhức nhối. Cô quyết định phải ăn một bữa tối ngon lành để lấy lại tinh thần. Mình sẽ đến một khách sạn thật sự với khăn trải bàn và giấy ăn, Jennifer nghĩ. Có lẽ ở đó có nhạc nhẹ và mình sẽ uống một cốc rượu vang trắng, và…

Dòng suy nghĩ của Jennifer bị ngắt quãng bởi tiếng chuông réo.

Thật là lạ. Chưa có ai đến thăm cô kể từ khi cô dọn tới ở đây hai tháng nay. Có lẽ là bà chủ nhà đến hỏi tiền thuê đã quá hạn trả. Jennifer vẫn nằm yên, hy vọng bà ta sẽ bỏ đi.

Chuông lại réo. Jennifer uể oải bước ra khỏi bồn tắm ấm áp. Cô quấn vội chiếc áo choàng tắm vào người và bước ra phía cửa.

Một giọng đàn ông từ bên ngoài nói vọng vào:

– Cô Jennifer Parker phải không?

– Vâng, tôi đây.

– Tôi là Adam Warner, luật sư.

Hơi bối rối, Jennifer mở hé cửa nhìn ra. Người đàn ông đứng trước cửa trạc 35, 36 tuổi, cao lớn, vai rộng và tóc vàng. Ông ta có cặp mắt xanh sẫm trông thật hấp dẫn. Bộ com-lê của ông chắc phải đáng giá cả một gia tài.

– Tôi có thể vào được không? – ông hỏi.

Kẻ cướp thì đã không mặc comlê, đi giày Gucci và đeo cà vạt lụa. Chúng cũng không thể có bàn tay đẹp với những ngón tay dài, mềm mại được.

– Xin ông chờ cho một lát.

Jennifer mở rộng cánh cửa. Khi Adam Warner bước vào, Jennifer liếc quanh căn phòng của mình, và nhìn vẻ mặt của ông cô thấy xấu hổ. Rõ ràng là ông ta quen với những thứ tốt hơn ở đây nhiều.

– Tôi có thể làm gì được cho ngài, ngài Warner?

Vừa nói dứt lời, Jennifer chợt hiểu vì sao ông ở đây và cô thấy tràn đầy phấn khích. Có lẽ đây là người của hãng mà cô đã xin việc. Cô tiếc rằng mình đã không ăn mặc cho tử tế, đầu tóc chưa chải gọn gàng.

Adam Warner nói:

– Tôi là một thành viên của Uỷ ban kỷ luật của Hội luật gia New York. Chưởng lý Robert Di Silva và chánh án Lawrence Waldman yêu cầu Uỷ ban bắt đầu cho tiến hành thủ tục tước quyền hành nghề luật sư của cô.

Bình luận