Trương Thúy Sơn thấy hai người ăn nói vô lễ, đã toan nổi giận, nhưng chợt nghĩ ra, chuyến này mình lên Vương Bàn Sơn đảo, chỉ cốt điều tra hung thủ hãm hại Du tam ca, hai tên đệ tử phái Côn Lôn kia tuy tuổi tác cao hơn mình, nhưng cũng chỉ là bọn vô danh mới ?ra khỏi lều tranh?, chấp họ làm gì. Huống chi Thiên Ưng giáo quả thực hành sự tàn ác, cứ xem Ân Tố Tố và Thường Kim Bằng giết người như cơm bữa thì đủ biết, mình không thể nào đi chung với họ. Chàng mỉm cười, nói:
– Tại hạ và các vị của Thiên Ưng giáo đây cũng chỉ mới quen, so với hai vị nhân huynh cũng chẳng khác gì.
Câu nói của chàng ai nấy nghe thấy cũng ngoài dự kiến. Bạch, Thường hai đàn chủ nghĩ Ân Tố Tố cùng với chàng giao tình thật sâu, nào ngờ cũng chỉ mới quen. Ân Tố Tố trong lòng giận lắm, biết rằng Trương Thúy Sơn nói như thế, rõ ràng có ý không coi Thiên Ưng giáo vào đâu. Cao Tưởng hai người nhìn nhau cười nhạt, nghĩ thầm: ?Tiểu tử này quả là đồ bị thịt, vừa mới nghe đến tên phái Côn Lôn, trong lòng đã khiếp đảm rồi?.
Bạch Qui Thọ nói:
– Các vị tân khách đến đã đủ, chỉ còn Mạch thiếu bang chủ chưa thấy, mình không đợi y làm chi. Bây giờ quí vị tùy ý ngao du, đến chính ngọ, xin mời đến sơn cốc bên kia uống rượu, xem đao.
Thường Kim Bằng cười đáp:
– Thuyền của Mạch thiếu bang chủ chẳng may bị đắm, được Trương tướng công sai người cứu lên, hiện giờ đang ở trên thuyền, đợi đến lúc đó mời y phó yến cũng được.
Trương Thúy Sơn thấy hai đàn chủ Bạch Thường đối với mình cực kỳ cung kính giữ lễ, Ân Tố Tố thì thần sắc nhãn quang lúc nào cũng nhu tình long lanh, cảm thấy đối với những người này làm sao càng xa càng tốt, nên nói:
– Tiểu đệ muốn một mình đi lanh quanh, xin các vị tùy tiện.
Chàng không đợi mọi người hồi đáp, chắp tay chào, rồi nhắm đám rừng cây ở phía đông đi tới.
Vương Bàn Sơn là một hòn đảo nhỏ, núi đá cây cối chẳng có gì đáng xem, ở phía đông nam có một cái vịnh, nơi các cột buồm dựng lên, đậu khoảng chục chiếc thuyền lớn, có lẽ là của bang Cự Kình và phái Hải Sa. Trương Thúy Sơn cứ men theo bờ biển mà đi, chàng đối với hành vi giết người tàn ác của Ân Tố Tố rất bất mãn, nhưng không hiểu sao, một câu hỏi có liên quan đến nàng cứ chập chờn: ?Ân cô nương đó địa vị trong Thiên Ưng giáo rất cao, hai vị Bạch Thường đàn chủ đối với nàng săn sóc, hầu hạ chẳng khác gì một cô công chúa, nhưng rõ ràng nàng không phải là giáo chủ, không biết nàng là loại người gì??.
Lại nghĩ: ?Thiên Ưng giáo tại hòn đảo nhỏ này dương đao lập uy, đối phương các phái Hải Sa, Thần Quyền môn, bang Cự Kình đều do các thủ lãnh phó hội, còn Thiên Ưng giáo chỉ phái hai tên đàn chủ chủ trì, không coi các đối thủ đó vào đâu. Xem ra Bạch đàn chủ của Huyền Võ Đàn tựa hồ công lực còn cao hơn Thường đàn chủ của Chu Tước Đàn. Thiên Ưng giáo rồi đây sẽ là một mối lo cho võ lâm, hôm nay mình phải dò xét xem đầu dây mối nhợ của họ thế nào, biết đâu một ngày Võ Đương thất hiệp sẽ phải đứng vào thế đối đầu với họ?.
Chàng còn đang trầm ngâm, bỗng nghe từ bên ngoài rừng cây truyền lại tiếng binh khí va chạm nhau, tính hiếu kỳ nổi lên, men theo tiếng vọng tìm tới. Chỉ thấy dưới bóng cây Cao Tắc Thành và Tưởng Đào hai người đều cầm trường kiếm, đang đối luyện với nhau còn Ân Tố Tố đứng một bên cười khúc khích. Trương Thúy Sơn nghĩ thầm: ?Sư phụ thường nói là kiếm pháp phái Côn Lôn có chỗ độc đáo, lão nhân gia khi còn trẻ đã từng có lần cùng một danh gia của phái Côn Lôn xưng là ?Kiếm Thánh? giao đấu, cơ duyên này thật là hiếm có?.
Thế nhưng nhân sĩ trong võ lâm khi luyện võ rất kỵ người ngoài coi lén. Trương Thúy Sơn tuy rất muốn xem, nhưng đành phải giữ qui củ võ lâm, chỉ liếc qua một cái, quay mình toan đi. Thế nhưng chàng vừa thò mặt ra, Ân Tố Tố đã nhìn thấy rồi, vẫy chàng lại, kêu lên:
– Trương ngũ ca, lại đây.
Trương Thúy Sơn nếu vẫn ra đi không khỏi người ta nghi chàng xem trộm, nên đành phải đủng đỉnh đi tới, nói:
– Hai vị huynh đài đang luyện kiếm tại đây, bọn mình không nên để người ta khó chịu, đi sang bên kia đi.
Chàng chưa kịp nghe Ân Tố Tố trả lời, đã thấy một ánh sáng trắng lóe lên, nghe xoẹt một cái, Tưởng Đào trả kiếm đâm trúng đầu vai của Cao Tắc Thành, máu tươi tóe ra. Trương Thúy Sơn giật mình kinh hãi, cho rằng Tưởng Đào sơ xuất đả thương sư huynh. Nào ngờ Cao Tắc Thành mặt mày xanh xám, mím môi chát chát chát đâm luôn ba kiếm, toàn nhằm chỗ yếu hại của Tưởng Đào, chiêu số vừa khéo léo vừa độc địa. Trương Thúy Sơn bấy giờ mới biết, hai người không phải luyện tập, mà là đánh nhau thực, nên càng lạ lùng.
Ân Tố Tố cười nói:
– Xem ra sư ca không bằng sư đệ, Tưởng huynh kiếm pháp có vẻ tinh diệu hơn.
Cao Tắc Thành nghe nói thế, nghiến răng, uốn mình hồi kiếm, kiếm quyết xéo qua, một chiêu ?Bách Trượng Phi Bộc[9]?, mũi kiếm từ trên không đâm thẳng xuống. Trương Thúy Sơn không nhịn nổi phải kêu lên:
– Hảo kiếm pháp.
Tưởng Đào rụt người tránh ra, nhưng thế kiếm của Cao Tắc Thành không đợi sử xong, giữa đường biến chiêu, đâm ngang, nghe cách một tiếng, đã trúng ngay đùi bên trái Tưởng Đào. Ân Tố Tố vỗ tay reo:
– Hóa ra sư huynh cũng có một hai miếng, chiêu này Tưởng huynh xem ra không sao bì kịp rồi.
Tưởng Đào giận nói:
– Cái đó chưa chắc.
Kiếm chiêu biến thật nhanh, vù vù veo véo luôn mấy đường ?Vũ Đả Phi Hoa? kiếm pháp. Lộ kiếm này toàn những thế đâm xéo, thật là tiêu dật, nhưng cứ bảy tám thế chéo lại xen vào một thế thẳng, khiến cho rất khó đón đỡ. Cao Tắc Thành đối với đường kiếm này của bản môn đã quen thuộc lắm rồi, nhận chiêu sách chiêu, thỉnh thoảng lại trả lại một hai nhát. Hai người đều bị thương, tuy không phải chỗ yếu hại, nhưng khi kịch đấu máu me vung vãi, trên mặt, trên áo, trên tay đều có lấm tấm vết máu. Hai sư huynh đệ càng đấu càng hăng, thế càng độc, về sau tưởng như một phen sống mái không bằng. Ân Tố Tố ở bên cạnh không ngớt xui nguyên, giục bị, khen Cao Tắc Thành vài câu, lại khen Tưởng Đào vài câu, khiến họ như điên như si, hận không đâm chết được đối phương, để phô bày sự cao cường của mình cốt lấy lòng Ân Tố Tố.
Lúc đó Trương Thúy Sơn đã minh bạch, hai sư huynh đệ xả thân ác đấu, đều do Ân Tố Tố đứng bên khiêu khích để báo thù hai người dám ra lời khinh thị Thiên Ưng giáo. Xem chừng hai người càng lúc càng độc địa, lúc đầu không phải muốn thủ thắng, nhưng sau không còn tự chế được nữa, như muốn lấy mạng đối phương, nếu tiếp tục thể nào cũng gây đại họa. Hai người kiếm pháp cũng khá tinh diệu, nhưng biến hóa chưa được linh động, nội lực lại thô thiển, uy lực của kiếm pháp chỉ phát huy được độ một, hai thành.
Ân Tố Tố vỗ tay cười vui vẻ, thật cao hứng nói:
– Trương ngũ ca, anh xem kiếm pháp phái Côn Lôn ra sao?
Nàng không đợi Trương Thúy Sơn đáp, quay đầu lại, thấy chàng hơi nhướng lông mày, có vẻ chán ghét, bèn nói:
– Sử qua sử lại chỉ có mấy đường, xem chẳng có gì hấp dẫn, thôi mình đi qua bên kia ngắm biển đi.
Nói xong nàng nắm bàn tay trái của Trương Thúy Sơn, cất bước đi khỏi.
Trương Thúy Sơn thấy bàn tay mềm mại ấm áp nắm tay mình, trong lòng xúc động, biết nàng cố tình chọc tức hai gã Cao Tưởng, nhưng không tiện giựt tay ra, chỉ có nước đi theo nàng ra phía biển.
Ân Tố Tố nhìn biển cả mênh mông không thấy bến bờ, lặng người ngắm, bỗng nói:
– Trang Tử trong thiên Thu Thủy có viết là:? Nước trong thiên hạ không gì lớn bằng biển, vạn dòng nước chảy về, không biết lúc nào ngừng và lúc nào sẽ đầy?. Thế nhưng biển cả không bao giờ kiêu ngạo, chỉ nói:? Ta ở trong trời đất, cũng chẳng khác gì hòn đá nhỏ, cái cây non trong núi lớn?. Trang Tử quả là hiểu biết, bụng dạ rộng rãi biết bao.
Trương Thúy Sơn thấy nàng xúi cho Cao Tưởng hai người tự tàn sát lẫn nhau để làm vui, trong lòng rất bất mãn, bây giờ nghe nàng nói câu này, không khỏi ngạc nhiên. Trang Tử là cuốn sách mà đạo gia tu dưỡng ai ai cũng phải đọc, Trương Thúy Sơn khi còn ở núi Võ Đương, sư huynh đệ vẫn thường được Trương Tam Phong đem ra giảng giải. Thế nhưng nữ ma đầu giết người không chớp mắt này đột nhiên buông lời cảm khái đó, thật ngoài sức tưởng tượng của chàng. Chàng sững người rồi đáp lại:
– Đúng thế, thật là ? phù thiên lý chi viễn, bất túc dĩ cử kỳ đại, thiên nhận chi cao, bất túc dĩ cực kỳ thâm? (cách xa nghìn dặm cũng chưa đủ nói cái rộng, mà cao nghìn nhận cũng chưa đủ nói chiều sâu).
Ân Tố Tố thấy chàng cũng dùng lời của Trang Tử trong thiên Thu Thủy hình dung sâu rộng của biển để trả lời, nhưng nét mặt không khỏi có vẻ hâm mộ, nên hỏi:
– Ngũ ca nghĩ đến sư phụ phải không?
Trương Thúy Sơn giật mình, không cưỡng nỗi, giơ tay phải nắm lấy tay kia của nàng, nói:
– Sao cô nương lại biết?
Năm xưa khi chàng ở trên núi Võ Đương, cùng đại sư huynh Tống Viễn Kiều, tam sư huynh Du Đại Nham đọc Trang Tử, đọc đến câu ?phù thiên lý chi viễn, bất túc dĩ cử kỳ đại, thiên nhận chi cao, bất túc dĩ cực kỳ thâm?, Du Đại Nham nói:
– Anh em chúng ta theo sư phụ học nghệ, càng học càng thấy rằng so với lão nhân gia hai bên một trời một vực, dường như mỗi ngày lại giật lùi một bước. Dùng hai câu này của Trang Tử để hình dung công phu sâu không thể đo, cao không thể vói của lão nhân gia thật là thích hợp.
Tống Viễn Kiều và Trương Thúy Sơn đều gật đầu nhận là đúng. Bây giờ chàng đọc hai câu này dĩ nhiên nghĩ ngay đến sư phụ. Ân Tố Tố nói:
– Trông mặt ngũ ca, nếu không phải nghĩ đến cha mẹ, ắt là nghĩ đến sư trưởng. Thế nhưng ?thiên lý chi viễn, bất túc dĩ cử kỳ đại? vân vân, hiện nay trên đời này ngoài Trương Tam Phong đạo trưởng, e rằng không một người thứ hai nào có thể sánh được.
Trương Thúy Sơn mừng lắm, nói:
– Cô thật thông minh.
Bỗng chàng nhận ra hai tay mình đang nắm tay nàng, mặt đỏ bừng, nhè nhẹ bỏ ra. Ân Tố Tố nói:
– Võ công của tôn sư xuất thần nhập hóa như thế nào, ngũ ca có thể nói cho tiểu muội nghe được không?
Trương Thúy Sơn trầm ngâm một hồi, nói:
– Võ công chỉ là tiểu đạo, sở học của lão nhân gia không phải chỉ võ công, ôi, bác đại tinh thâm, đâu biết nói từ đâu trước.
Ân Tố Tố mỉm cười:
– Phu tử bộ diệc bộ, phu tử xu diệc xu, phu tử trì diệc trì, phu tử bôn dật tuyệt trần, nhi hồi sanh nhược hồ hậu hĩ.[10]
Trương Thúy Sơn thấy nàng dẫn chương Nhan Hồi ca tụng Khổng Tử trong sách Trang Tử, mà trong lòng chàng quả thực kính phục sư phụ không sao kể xiết, nên nói:
– Sư phụ tôi chẳng cần phải chạy bụi mù, chỉ cần lão nhân gia rảo bước là chúng tôi đã không còn theo kịp.
Ân Tố Tố thông minh linh lợi, có ý muốn chàng vui lòng, nói chuyện mười phần hợp ý, nên Trương Thúy Sơn không biết chán. Hai người sánh vai ngồi trên phiến đá, không còn biết giờ giấc là gì.
Bỗng nghe từ xa có tiếng bước chân trầm trọng, người nào đó ho mấy tiếng, nói:
– – Trương tướng công, Ân cô nương, đã đến giờ ngọ, xin mời nhập tiệc.
Trương Thúy Sơn quay đầu lại, thấy Thường Kim Bằng đứng cách xa chừng mươi trượng, tuy thần sắc trang nghiêm kính cẩn, nhưng mép có điểm một nụ cười. Trông thần tình của y, giống như một trưởng giả hiền từ nhìn thấy một đôi tiểu tình nhân xứng lứa, tặc lưỡi khen đẹp đôi. Ân Tố Tố trước nay vẫn coi y như người dưới, không cần giữ lễ, lúc này thấy e thẹn, cúi đầu. Trương Thúy Sơn tuy lòng quang minh lỗi lạc, nhưng xem thần sắc hai người, má cũng không khỏi đỏ bừng.
Thường Kim Bằng quay người đi trước dẫn đường. Ân Tố Tố nói nhỏ:
– Tiểu muội đi trước, ngũ ca đừng đi cùng với em.
Trương Thúy Sơn hơi lấy làm lạ, nghĩ thầm:
– Sao cô nương này lại muốn tránh hiềm nghi lúc này là sao?
Chàng gật đầu. Ân Tố Tố tiến lên trước, đi ngang với Thường Kim Bằng, nghe nàng cười hỏi:
– Hai tên ngốc của phái Côn Lôn đánh nhau đi đến đâu?
Trương Thúy Sơn trong lòng vui chẳng ra vui, buồn chẳng ra buồn, nhìn theo hai người đi khuất vào sau hàng cây, lúc ấy mới chậm rãi đi về phía sơn cốc.
Khi chàng đến thung lũng, đã thấy trên bãi cỏ xanh bày bảy, tám cái bàn vuông. Trừ bàn thứ nhất ở phía đông, bàn nào cũng đã có người. Thường Kim Bằng thấy chàng đến, lớn tiếng nói:
– Trương ngũ hiệp của phái Võ Đương giá lâm.
Tám chữ đó nói như tiếng sấm, vang vọng sơn cốc. Y nói vừa xong, liền cùng Bạch Qui Thọ đi vội lên, mỗi người dẫn theo năm tên đà chủ của bản đàn, cả mười hai người cùng đứng chờ ở cốc khẩu, xếp thành hai hàng, khom mình đón tiếp. Bạch Qui Thọ nói:
– Thuộc hạ của Ân giáo chủ Thiên Ưng giáo, Huyền Võ Đàn Bạch Qui Thọ, Chu Tước Đàn Thường Kim Bằng, cung nghinh Trương ngũ hiệp đại giá.
Ân Tố Tố tuy không đi ra ngoài đón chàng nhưng cũng đứng dậy.
Trương Thúy Sơn nghe thấy ba chữ ?Ân giáo chủ?, trong bụng chấn động, nghĩ thầm: ?Giáo chủ của họ quả nhiên họ Ân?. Liền chắp tay đáp lễ nói:
– Không dám, không dám.
Chàng tiến vào trong thung lũng, thấy trên bàn tiệc ai ai cũng có vẻ tức tối, bất bình, tuy không hiểu, nhưng cũng không hỏi đến. Chàng biết đâu thủ lãnh các lộ như phái Hải Sa, bang Cự Kình, Thần Quyền môn khi đến, Thiên Ưng giáo chỉ phái một tên đà chủ trong đàn dẫn đường nhập tọa, không cung kính giữ lễ như Trương Thúy Sơn. Xem cách đối đãi cũng đủ biết có ý coi thường.
Bạch Qui Thọ dẫn chàng đến bàn thứ nhất ở phía đông, cung kính mời ngồi. Cái bàn đó chỉ đặt một chiếc ghế, là bàn thủ tịch tôn quí nhất trong các bàn. Trương Thúy Sơn vừa liếc mắt, thấy các bàn khác đều ngồi bảy tám người, chỉ có bàn thứ sáu là hai người Cao Tắc Thành, Tưởng Đào. Chàng cao giọng từ chối:
– Tại hạ mạt học hậu tiến, không dám ngồi ngôi thủ tịch. Xin Bạch huynh chuyển xuống dưới ngồi tiện hơn.
Bạch Qui Thọ nói:
– Phái Võ Đương hiện nay là Thái Sơn, Bắc Đẩu trong võ lâm, Trương ngũ hiệp uy chấn thiên hạ, nếu không ngồi ngôi thủ tịch này, ở đây chắc chẳng ai dám ngồi.
Trương Thúy Sơn nhớ đến sư phụ bình thời hay dạy bốn chữ ?ninh tĩnh khiêm ức[11]?, nghĩ thầm: ?Nếu như có sư phụ hay đại sư ca ở đây thì ngồi mâm thủ tịch này là đúng rồi, còn mình đâu có xứng đáng?. Cho nên chàng cương quyết từ chối.
Cao Tắc Thành và Tưởng Đào liếc nhau một cái, Tưởng Đào đột nhiên cầm cái ghế của mình đang ngồi, ném vọt qua. Mâm của y và mâm thủ tịch cách nhau đến năm cái bàn, nhưng sức liệng của y rất mạnh, chỉ nghe vù một tiếng, cái ghế đó bay qua đầu mọi người ngồi tại năm bàn đó, rơi xuống đúng ngay bên cạnh bàn thủ tịch, ngay ngắn thẳng thắn, chỉ cách cái ghế có sẵn ở đó chừng một thước, quả thực tài nghệ không phải vừa. Tưởng Đào vừa ném cái ghế xong, Cao Tắc Thành lớn tiếng nói:
– Ha ha, Thái Sơn Bắc Đẩu, không biết kẻ nào phong cho danh hiệu Thái Sơn Bắc Đẩu đấy nhỉ? Họ Trương kia không dám ngồi, nhưng sư huynh đệ bọn ta đâu phải hạng người khiếp nhược như thế đâu.
Hai người thân pháp như gió, đã lướt ngay đến chỗ ghế ngồi.
Thì ra lúc nãy Ân Tố Tố hỏi họ xem trong hai người võ công ai cao cường hơn để dạy cho mình vài chiêu Côn Lôn kiếm pháp. Hai người không từ chối, liền rút kiếm biểu diễn ngay. Lúc đầu cốt chỉ thắng được đối phương nhưng càng đánh càng gay, về sau không còn nương tay được nữa. Ân Tố Tố lại đứng bên cạnh khiêu khích, khiến cả hai người đều bị thương. Đến khi nàng và Trương Thúy Sơn thân mật dắt nhau đi, họ mới biết mắc mưu cô gái. Cả hai thu kiếm băng bó, vừa giận vừa ghen, nhưng đâu dám gây chuyện với Ân Tố Tố. Lúc này họ thừa cơ cướp lấy mâm thủ tịch của Trương Thúy Sơn mong khích được chàng ra tay, sẽ có dịp làm nhục một phen trước mặt quần hùng.
Thường Kim Bằng giơ tay ngăn lại, nói:
– Hãy khoan.
Cao Tắc Thành giơ ngón tay ra thế, toan điểm vào khuỷu tay Thường Kim Bằng. Trương Thúy Sơn nói:
– Hai vị ngồi mâm thủ tịch này thật là thích hợp. Tiểu đệ xuống ngồi dưới kia tốt hơn.
Nói rồi cất bước đi xuống bàn thứ sáu. Ân Tố Tố đột nhiên giơ tay vẫy chàng, kêu lên:
– Trương ngũ ca, đi lại bên này.
Trương Thúy Sơn không biết nàng định nói chuyện gì, nên đi đến gần. Ân Tố Tố thuận tay cầm một chiếc ghế, đặt ngay bên cạnh mình, mỉm cười nói:
– Ngũ ca ngồi xuống đây.
Trương Thúy Sơn không ngờ nàng dám tỏ lộ hình tích ngay tại đây, trước mắt quần hào, nên hơi trù trừ, nếu như cùng nàng sóng vai ngồi cùng mâm, không khỏi quá ư thân mật, còn nếu không chịu ngồi xuống, thì khiến cho nàng bẽ mặt. Ân Tố Tố nói nhỏ:
– Tiểu muội còn có câu chuyện muốn nói với ngũ ca.
Trương Thúy Sơn thấy vẻ mặt nàng tỏ ý khẩn cầu, không tiện từ chối, nên đành ngồi xuống. Ân Tố Tố lòng như hoa nở, cười khúc khích rót cho chàng một chén rượu.
Bên kia Cao Tắc Thành và Tưởng Đào tuy đoạt được mâm thủ tịch, nhưng thấy tình hình như thế, lại càng giận hơn. Bạch Qui Thọ giơ tay phất mấy cái lên chiếc ghế, phủi cho sạch bụi, cười nói:
– Hai vị đại kiếm khách phái Côn Lôn muốn ngồi mâm thủ tịch này, quả thật không sai chút nào, mời ngồi, mời ngồi.
Nói rồi cùng Thường Kim Bằng và mười tên đà chủ quay về mâm chủ nhân. Cao Tắc Thành và Tưởng Đào đều nghĩ bụng: ?Tên gà chết kia không dám ngồi mâm thủ tịch, uy phong phái Võ Đương kể như đã bị phái Côn Lôn đè bẹp rồi?. Hai người nhìn nhau, vênh váo ngồi xuống.
Chỉ nghe lách cách, lách cách hai tiếng, chân ghế gãy rời, cả hai ngã ngửa về phía sau. Cũng may hai người võ công không đến nỗi kém, không đợi lưng chạm đất đã giơ tay đẩy xuống, tung vọt người lên, nhưng cũng phải một phen hoảng hốt. Hào khách các mâm đều cười ha hả.
Cao Tưởng hai người bấy giờ mới biết rằng khi Bạch Qui Thọ dùng tay áo phủi bụi, đã lén ra tay, nhưng phải nói âm kình của y thực là lợi hại, mình không thể nào có công lực cao như thế. Hai người vốn mười phần tự phụ, chỉ coi Thiên Ưng giáo là loại bàng môn tả đạo hạng xoàng không coi ra gì, toan lên Vương Bàn Sơn đảo khoe khoang một phen. Lúc này thấy Bạch Qui Thọ biểu lộ chút công lực, khiến cho nhuệ khí của họ suy giảm rất nhiều.
Lại nghe Bạch Qui Thọ lạnh lùng nói:
– Võ công của phái Côn Lôn, ai ai cũng biết là cao rồi, quí vị không cần phải ép gẫy hai chiếc ghế tầm thường đó để hả giận làm chi. Nói đến công phu nhỏ mọn ngồi gãy ghế, trong tiệc này có ai mà làm không được?
Nói xong y giơ tay phải, chỉ vào mười tên đà chủ ngồi ở bàn cuối, nói:
– Các ngươi cũng đã luyện qua rồi phải không?
Nghe thấy lách cách lách cách mấy tiếng lớn, mười chiếc ghế cùng gãy nát một lượt. Mười tên đà chủ có chuẩn bị trước, ngồi gãy ghế xong vẫn đứng nguyên cười hì hì, thần định khí nhàn, so với Cao Tưởng hai người hoảng hốt ngã lăn chiêng thật khác nhau một trời một vực. Trong số quần hào, phần lớn là người kiến đa thức quảng, biết rằng Bạch Qui Thọ cố tình hí lộng hai người, nhưng tình cảnh quả thật thú vị, nên ai nấy đều cười hô hố.
Trong khi mọi người còn đang cười, có hai đà chủ của Thiên Ưng giáo bưng hai khối đá lớn, đến bàn tiệc thứ nhất, giơ chân đá hai chiếc ghế gãy qua, nói:
– Ghế gỗ mỏng manh, không đủ sức mang quí thể, xin mời ngồi trên hai tảng đá này vậy.
Hai người đó là hai đại lực sĩ nổi tiếng của Thiên Ưng giáo, võ công chỉ bình bình, nhưng thân thể tráng kiện, trời sinh thần lực, hòn đá hai người mang đều phải đến bốn, năm trăm cân, đưa ra cho Cao Tưởng hai người đỡ lấy.
Cao Tưởng tuy kiếm pháp tinh diệu, nhưng đỡ hai cục đá đó thì không sao làm nổi. Cao Tắc Thành nhíu mày nói:
– Bỏ xuống đi.
Hai người đại lực sĩ cùng nhất tề ?hự? lên một tiếng, hai tay giơ thẳng, nâng hai tảng đá lên cao khỏi đỉnh đầu, nói:
– Đỡ này.
Lúc ấy, Cao Tưởng chỉ còn nước lui về phía sau, e sợ nếu một trong hai người sức yếu hơn, hòn đá bốn năm trăm cân kia lỡ tay rơi xuống, còn gì mà không xương gãy thịt nát? Hai người trong lòng tức giận, nhưng không dám ra tay tấn kích, e ngại hòn đá chênh vênh nên không dại gì lại gần nơi hiểm địa.
Bạch Qui Thọ lớn tiếng nói:
– Hai vị kiếm khách phái Côn Lôn không muốn ngồi mâm thủ tịch, thôi lại mời Trương tướng công lên vậy.
Trương Thúy Sơn đang ngồi bên cạnh Ân Tố Tố, mùi hương thơm thoang thoảng, trong lòng thấy ngây ngất, không khỏi thần hồn phiêu đãng, bỗng nghe Bạch Qui Thọ nói, lập tức tỉnh lại: ?Ta trăm ngàn lần không thể để cho mình rơi vào ma chướng, dây dưa hơn nữa với nữ ma đầu của tà giáo này?.
Chàng lập tức đứng lên, đi qua bên kia. Bạch Qui Thọ nghe Thường Kim Bằng tán dương Trương Thúy Sơn võ công cao cường, nhưng y chưa có dịp chính mắt trông thấy, lúc này có ý định thử xem thế nào, nên đưa mắt ra hiệu cho hai tên đà chủ đang giơ cao hai tảng đá. Hai tên đà chủ hiểu ý, đợi Trương Thúy Sơn đến gần, cùng quát lên:
– Trương tướng công cẩn thận, xin đỡ lấy.
Tiếng vừa dứt, hai người rùn mình xuống, hai tay thu lại, hét lên một tiếng, hết sức bung ra, hai khối đá cùng thẩy thẳng lên đầu Trương Thúy Sơn.
Quần hào nhìn thấy tình cảnh đó, không ai bảo ai cùng đứng bật cả lên. Bạch Qui Thọ tuyệt nhiên không có ác ý, chỉ muốn thử xem võ công Trương Thúy Sơn đến đâu, một phần vì danh tiếng Võ Đương thất hiệp quá vang dội trên chốn giang hồ, nay thấy chỉ là một văn nhược thư sinh, không khỏi ngạc nhiên, phần khác vì Ân Tố Tố trước nay không coi ai ra gì, vậy mà đối với vị Trương ngũ hiệp này lại mười phần say đắm, về sau người này đối với Thiên Ưng giáo ắt có liên quan trọng đại. Thế nhưng khi thấy hai tên đại lực đà chủ hùng hùng hổ hổ ném hai tảng đá, y cảm thấy hối hận, kêu thầm: ?Chết rồi?. Y nghĩ bụng Trương Thúy Sơn là danh môn đệ tử, không thể nào để đá làm bị thương, nhưng khi nhảy nhót né tránh, thể nào chẳng hoảng hốt, nếu như chẳng may lại bị xấu mặt, không những Trương Thúy Sơn bực mình, Ân cô nương ắt sẽ nổi giận. Trong khoảnh khắc y định ngay chủ ý, nếu như tình hình không ổn, lập tức giá họa cho hai tên đà chủ, thà để chúng chết dưới tay mình còn hơn là đắc tội với Ân Tố Tố.
Trương Thúy Sơn thấy hai hòn đá từ trên không rơi xuống, chàng giật mình kinh hãi, nếu như nhảy về sau tránh né thì so với hai gã Cao Tưởng của phái Côn Lôn có khác gì, chẳng làm mất thanh vọng của sư môn ư? Lúc dó chàng không có thể suy nghĩ nhiều hơn, người luyện võ khi gặp cảnh nguy hiểm khẩn bách, công phu súc tích tự nhiên nảy ra. Tay trái chàng sử cái móc bên phải trong tự quyết chữ ?võ?, hất tảng đá bên trái, tay phải sử chiêu nét phất trong tự quyết chữ ?đao?, hất tảng đá bên phải.
Hai tảng đá này vốn dĩ cũng đã phải bốn trăm cân, lại thêm rơi từ trên xuống, sức thật ghê gớm. Trương Thúy Sơn không có sức mạnh bắp thịt, bảo chàng bưng một cục đá cũng không nổi. Thế nhưng võ công này Trương Tam Phong từ thư pháp biến ra, thực là thần kỳ, đoạt cả công phu tạo hóa. Võ công của phái Võ Đương, không cần phải dùng nhiều sức, cũng không cần ra chiêu nhanh, chỉ cần lực đạo vận dụng đúng phép tắc, bốn lượng có thể gạt được nghìn cân. Lúc này Trương Thúy Sơn sử dụng công phu tối tinh diệu của sư môn, mượn sức ném của hai tên đà chủ, hất hai tảng đá bay vọt lên trời.
Hai khối đá đó bay lên chính là từ sức của hai tên đà chủ, chỉ có điều chàng vung tay bát động, biến đổi phương hướng. Tay áo dài của chàng phất phới, thủ chưởng dấu bên trong, người ngoài đứng xem, chẳng khác gì như dùng tay áo cuộn hai tảng đá ném lên trời. Hai khối cự thạch một cao một thấp, trước sau rơi xuống. Trương Thúy Sơn nhẹ nhàng tung thân nhảy lên, ngồi xếp bằng trên tảng đá bên trên. Chỉ nghe một tiếng ầm, mặt đất chấn động, một tảng đá đã rơi xuống đất, lún xuống đến hơn một nửa vào trong đất. Tảng đá thứ hai lại rơi xuống tiếp, bình bình ổn ổn nằm ngay trên tảng thứ nhất, hai tảng đá chạm nhau, lửa văng tung tóe, lay động chén bát trên các mặt bàn kêu loảng xoảng.
Trương Thúy Sơn điềm nhiên ngồi trên tảng đá, cười nói:
– Hai vị đà chủ thần lực kinh người, bội phục, bội phục.
Hai tên đà chủ cũng kinh ngạc đến trợn mắt há mồm, đứng trơ trơ ngay tại chỗ, một lời cũng không thốt nổi. Trong giây lát, cả sơn cốc yên lặng như tờ, một lát sau, mới ầm ầm nổi lên tiếng vỗ tay khen ngợi, hồi lâu chưa dứt.
Ân Tố Tố đưa mắt cho Bạch Qui Thọ, mặt tươi như hoa, thật là đắc ý. Bạch Qui Thọ mừng quá, may là Trương Thúy Sơn võ công kinh người, lại biến trò chơi nguy hiểm của mình thành một dịp để lấy lòng Ân cô nương. Y vội vàng đi đến bàn thủ tịch, rót một chén rượu, lớn tiếng nói:
– Đã từ lâu nghe uy danh Võ Đương thất hiệp, hôm nay được thấy võ công của Trương ngũ hiệp, chúng tôi quả thực kính phục vô cùng, tiểu nhân xin kính Trương ngũ hiệp một chén.
Nói rồi nâng ly uống cạn. Trương Thúy Sơn nói:
– Không dám.
Chàng cũng bồi tiếp một chén.
Bạch Qui Thọ đứng thẳng người, lớn tiếng nói:
– Tệ giáo gần đây mới có được một thanh bảo đao, tên gọi Đồ Long. Thường nghe rằng ?Võ Lâm Chí Tôn, Bảo Đao Đồ Long, Hiệu Lệnh Thiên Hạ, Mạc Cảm Bất Tòng?.[12]
Y nói đến đây, đưa đôi mắt sáng quắc quét từ tả qua hữu khắp một lượt toàn trường. Thân hình y không to lớn, nhưng tiếng nói hưởng lượng, mục quang sắc bén, khiến cái uy nghiêm làm mọi người đều e sợ. Y ngừng lại một chút, nói tiếp:
– Ân giáo chủ của tệ giáo muốn gửi danh thiếp mời các lộ anh hùng trong thiên hạ tới núi Thiên Ưng, để đem bảo đao cho mọi người cùng xem. Ngặt vì làm như thế phải trù hoạch mất nhiều thời gian cho chu đáo, lại e rằng anh hùng các nơi không biết bảo đao đã do tệ giáo làm chủ, nên mời bạn bè bằng hữu các bang lộ Giang Nam tới chơi, để nhìn qua cho biết.
Nói tới đây, y giơ tay khoát một cái. Tám tên đệ tử trong số giáo chúng lớn tiếng đáp ứng, quay mình đi vào một sơn động ở phía tây.
Mọi người yên chí là tám tên này sẽ vào trong hang núi để đem đao ra, nên đều chăm chú nhìn theo. Nào ngờ khi trở ra bọn họ đều cởi trần, khiêng một cái đỉnh sắt lớn. Trong đỉnh một ngọn lửa cháy bừng bừng, lên cao cả trượng. Cả tám tên đều phải đứng khá xa, dùng gậy dài ghé vai khiêng, thở phì phò, ỳ ạch để chiếc đỉnh trên bãi đất trống. Mọi người bị lửa hắt vào mặt, đều cảm thấy nóng rát. Đằng sau tám tên này lại có thêm bốn tên khác, hai tên khiêng một chiếc đe thợ rèn, hai tên khác mỗi tên mang một cái búa sắt.
Bạch Qui Thọ nói:
– Thường đàn chủ, xin mời dương đao lập uy.
Thường Kim Bằng đáp:
– Tuân lệnh.
Rồi quay lại nói lớn:
– Mang đao ra.
Hai tên đà chủ có thần lực, mới vừa biểu diễn vác đá liền đi vào sơn động. Khi trở ra, một tên hai tay bưng một cái bao dài, tên kia đi theo hộ vệ. Giao cho Thường Kim Bằng xong, mỗi tên bước qua một bên tùy giá. Thường Kim Bằng mở bao, lộ ra một thanh đơn đao. Y cầm lên, nhìn quanh mọi người một lần, rút đao ra khỏi vỏ, nói:
– Đây chính là võ lâm chí tôn bảo đao Đồ Long, xin các vị nhìn cho kỹ.
Nói xong y đưa thanh đao lên ngang mặt, cử chỉ thật cung kính.
Quần hào nghe tiếng Đồ Long bảo đao đã lâu, nhưng chỉ thấy cái đao đó đen biếc không đẹp tí nào, trong lòng không khỏi hồ nghi: ?Ai biết thanh đao này thật hay giả??.
Chỉ thấy Thường Kim Bằng từ từ giao thanh đao cho tên đà chủ ở phía bên trái, nói:
– Thử búa đi!
Tên đà chủ nhận lấy đơn đao, để lên trên cái đe, lưỡi hướng lên trời. Tên kia cầm cái búa lên, nhắm ngay lưỡi đao giáng xuống. Chỉ nghe thấy một tiếng keng nhỏ, đầu cái búa đã bị cắt ra làm hai, một nửa còn dính vào cán, một nửa rơi xuống đất. Quần hào ai nấy kinh hãi, đứng bật cả lên, thầm nghĩ: ?Bảo kiếm, lợi đao có thể cắt vàng chặt ngọc dẫu có ít thấy, nhưng không phải là không có. Thế nhưng thanh Đồ Long đao này cắt cái búa sắt như cắt miếng đậu phụ, ngay tiếng đinh đang cũng không nghe, nếu không phải là thần vật thì cũng có điều gì man trá?.
Trong đám Thần Quyền Môn và Cự Kình Bang có một người đi đến bên cái đe sắt, xem xét nửa cái búa, thấy vết cắt phẳng lỳ lấp lánh sáng choang, quả thực vừa mới đứt xong.
Gã thần lực đà chủ lại cầm một mảnh búa lên đập vào thanh đao, cục sắt lại đứt đôi một cách dễ dàng. Lần này quần hào ai nấy đều lớn tiếng hoan hô. Trương Thúy Sơn nghĩ thầm:
– Đao báu như thế, quả thực là nghe chưa nghe tới, nhìn chưa nhìn thấy bao giờ.
Thường Kim Bằng chậm rãi bước tới bãi đất, cầm bảo đao lên, sử một chiêu ?Thượng Bộ Phách Sơn?, chỉ nghe soẹt một tiếng nhỏ, chém cái đe sắt đứt ra làm đôi. Đột nhiên y lướt qua bên trái, vút một cái, chém ngang thân một cây tùng lớn. Thế rồi y tiếp tục nhảy qua chạy lại, vung đao liên tiếp múa may, chém đủ mười tám cây cổ tùng. Quần hào thấy y vũ động bảo đao, nhưng những cây đó vẫn còn nguyên vẹn, đang lấy làm khó hiểu, bỗng nghe Thường Kim Bằng cười một tiếng dài, chạy đến cây tùng thứ nhất, phất tay áo một cái, đánh vào giữa thân cây. Chỉ nghe những tiếng lách cách, cây tùng đã đổ xuống bên ngoài. Hóa ra cây tùng này đã bị bảo đao chém đứt đôi, nhưng chỉ vì đao quá bén, Thường Kim Bằng sử lực lại thật chuẩn xác, tuy nửa thân trên đã đứt đoạn, nhưng vẫn còn nằm trên cây. Chỉ đến khi có ngoại lực suy động, lúc ấy mới đổ. Cây tùng thứ nhất đổ làm thành một làn gió mạnh, chỉ nghe liên tiếp những tiếng lách cách, lách cách không dứt, những cây đại thụ còn lại cũng thi nhau ngã xuống.
Thường Kim Bằng cười ha hả, vung thanh đao ném thẳng vào đám lửa đang bừng bừng cháy trong đỉnh sắt.
Tiếng cây đổ chưa dứt hẳn, bỗng nghe từ xa truyền lại tiếng ỳ ầm, ỳ ầm, dường như có ai đang chặt cây. Bạch Qui Thọ và Thường Kim Bằng đều ngạc nhiên, nhìn theo hướng tiếng động thấy những chiếc cột buồm đang từ từ đổ xuống từng chiếc một. Những chiếc cột buồm đó đều có treo cờ, Thiên Ưng giáo, Cự Kình bang, Hải Sa phái, Thần Quyền môn các thủ lãnh thấy các lá cờ thi nhau rơi xuống, không ai không tức giận, lập tức sai thủ hạ đi điều tra.
Vẫn nghe thấy những tiếng bì bành liên tiếp, chỉ trong khoảnh khắc tất cả mọi cột buồm đều gãy hết, không cái nào còn nguyên, tưởng như chiếc vịnh nhỏ có hải quái, đánh chìm mọi chiếc thuyền đang ở trong đó. Quần hào tụ tại bãi cỏ không ai ngờ được biến cố này, nhất thời không nói nên lời, lúc đầu còn tưởng Thiên Ưng giáo bố trí âm mưu, nhưng thấy thuyền của Thiên Ưng giáo cũng bị tai họa, xem ra không phải.
Một nhóm thứ hai lại được sai đi tìm hiểu. Từ bãi cỏ đến cái vịnh không bao xa, hơn một chục người gửi đi không thấy ai quay trở lại. Mọi người ai nấy hoang mang, kinh nghi bất định. Bạch Qui Thọ nói với một đà chủ dưới tay:
– Ngươi đi coi xem nào.
Tên đà chủ đó tuân lệnh ra đi. Bạch Qui Thọ cố gượng trấn tĩnh, nói:
– Có lẽ dưới biển có biến cố gì, các vị cũng đừng quá lo. Ví bằng thuyền bè có bị hủy hết, chẳng lẽ mình không làm bè đi về được hay sao? Thôi, thôi, thôi, bọn mình cạn chén đi chứ.
Quần hào ai nấy đều bồn chồn nhưng không muốn mọi người thấy mình yếu đuối, nên nhất tề đưa chén lên, vừa để vào môi, bỗng nghe từ phía vịnh tiếng người kêu la thật thảm thiết, vang vọng đến.
Bạch Qui Thọ và Thường Kim Bằng nghe tiếng đó đúng là kẻ thuộc hạ mới sai đi, trong bụng hoang mang, thấy tiếng chân huỳnh huỵch chạy về, mỗi lúc một gần, rồi một người đầy máu hiện ra chính là tên đà chủ đó.
Y hai tay ôm mặt, những kẽ ngón tay máu chảy ra, đỉnh đầu da bị lột, còn quần áo từ ngực xuống đến bụng dưới, đùi đều rách hết, có một vết thương thực dài, máu thịt bầy nhầy nhưng không biết sâu nông ra sao, thảm thiết kêu lên:
– Kim Mao Sư Vương, Kim Mao Sư Vương.
Bạch Qui Thọ hỏi:
– Một con sư tử ư?
Y nghe nói là một mãnh thú cũng phần nào khoan tâm. Tên đà chủ nói:
– Không, không phải, đó là một người. Y cào chết mọi người, đánh đắm hết cả thuyền.
Nói tới đây y chịu không nổi, ngã lăn ra, chết tươi. Bạch Qui Thọ nói:
– Để ta đi xem.
Thường Kim Bằng nói:
– Tôi cũng đi theo.
Bạch Qui Thọ đáp:
– Ngươi ở lại bảo hộ Ân cô nương.
Y biết rằng tên đà chủ vừa chết võ công không phải tầm thường, tại Thiên Ưng giáo được coi là một tay có hạng, nhưng chỉ chớp mắt đã bị thương như thế, đối thủ ắt võ công rất cao. Thường Kim Bằng gật đầu:
– Xin vâng.
Bỗng nghe có tiếng đằng hắng, rồi tiếng người nói:
– Kim Mao Sư Vương đã ở đây rồi.
Mọi người giật mình kinh hãi, thấy một người từ sau một cây lớn bước ra. Người đó thân thể cao to dị thường, tóc vàng đầy đầu phủ xuống tận vai, mắt xanh biếc lóng lánh phát quang, tay cầm một chiếc lang nha bổng hai đầu dài đến trượng sáu, trượng bảy. Y đứng tại trước bàn tiệc, uy phong lẫm lẫm, chẳng khác gì thiên thần, thiên tướng.
Trương Thúy Sơn nghĩ thầm: ?Kim Mao Sư Vương, cái hỗn hiệu đó hẳn là do tóc y vàng mà ra, nhưng y là ai? Chưa nghe sư phụ nói đến bao giờ?.
Bạch Qui Thọ tiến lên mấy bước, nói:
– Xin hỏi tôn giá cao tính đại danh?
Người kia đáp:
– Không dám, tại hạ họ Tạ, đơn danh một chữ Tốn, biểu tự là Thoái Tư, có một cái ngoại hiệu là Kim Mao Sư Vương.
Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố đưa mắt nhìn nhau, đều nghĩ: ?Người này thần thái uy mãnh như thế, nhưng chọn tên hiệu thật là tư văn. Chỉ có ngoại hiệu là hợp thôi?. Bạch Qui Thọ thấy y ăn nói lễ độ, nói:
– Hóa ra đây là Tạ tiên sinh. Tôn giá không quen biết gì chúng tôi, sao lại vừa đến đảo đã hủy thuyền sát nhân là sao?
Tạ Tốn mỉm cười, để lộ hàm răng trắng sáng lấp lánh, nói:
– Các vị tụ họp tại đây để làm gì thế?
Bạch Qui Thọ nghĩ thầm: ?Việc này không thể dấu y được. Gã này võ công dĩ nhiên lợi hại, nhưng y chỉ có một mình. Ta cùng Thường đàn chủ liên thủ, lại có thêm Trương ngũ hiệp, Ân cô nương đứng bên tương trợ, chắc là có thể trừ được y?. Y lớn tiếng nói:
– Tệ giáo Thiên Ưng giáo mới có được một thanh bảo đao, nên mời bằng hữu giang hồ tới đây để tất cả cùng xem.
Tạ Tốn trừng mắt nhìn thanh đao Đồ Long trong đỉnh sắt lúc ấy mới vừa bị liệt hỏa nung, thấy thanh đao đó nằm trong than mà không suy tổn chút nào, quả thực thần vật lợi khí, liền nhanh nhẹn bước tới.
Thường Kim Bằng thấy y giơ tay phải ra toan cầm thanh đao, quát lên:
– Ngừng tay.
Tạ Tốn quay đầu lại khinh khỉnh hỏi:
– Cái gì?
Thường Kim Bằng đáp:
– Đao đó là sở hữu của tệ giáo, Tạ bằng hữu có thể đứng xa mà xem chứ không được cầm lên.
Tạ Tốn đáp:
– Thế đao này các ngươi đúc chăng? Hay các ngươi mua được?
Thường Kim Bằng á khẩu, nhất thời không trả lời được. Tạ Tốn nói:
– Các người đoạt được từ tay người khác, ta lại từ tay các ngươi đoạt lại, thật là thiên công địa đạo, có gì đâu mà không được?
Nói rồi tiếp tục đi tới cầm thanh đao. Chỉ nghe loảng xoảng, Thường Kim Bằng đã cởi ở lưng ra hai trái lưu tinh chùy, quát lên:
– Tạ bằng hữu, nếu người không ngừng tay, tại hạ đành phải vô lễ.
Ngôn ngữ của y tựa hồ cảnh cáo, kỳ thực nói là đánh ngay, trái dưa thép từ tay trái nhắm ngay lưng Tạ Tốn phóng tới. Tạ Tốn không thèm quay đầu lại, chỉ giơ thanh lang nha bổng quơ ra sau lưng, nghe keng một tiếng lớn, trái dưa thép bị lang nha bổng đỡ, bay ngược trở lại, nhanh vô tỉ. Thường Kim Bằng kinh hãi, trái dưa từ bên phải lập tức bay ra, hai trái dưa đụng nhau. Không ngờ Tạ Tốn thần lực kinh người, hai trái dưa cùng quay trở lại, đánh ngay vào ngực Thường Kim Bằng. Thường Kim Bằng thân hình loạng choạng, ngã xuống chết ngay.
Lúc y trên sông Tiền Đường dùng chùy đánh vỡ thuyền của Mạch thiếu bang chủ thần uy làm sao, vậy mà bây giờ không chịu nổi một cái đỡ lang nha bổng của Tạ Tốn.
Năm tên đà chủ thuộc Chu Tước Đàn kinh hãi, cùng xông lên. Hai người đỡ Thường Kim Bằng, ba người rút binh khí, không kể sống chết xông vào đánh Tạ Tốn. Tạ Tốn tay trái cầm thanh đao Đồ Long, tay phải dùng lang nha bổng thọc vào cái đỉnh hất một cái, cái đỉnh sắt nặng mấy trăm cân kia lập tức bay quét ngang qua, đè bẹp cả ba tên đà chủ. Dư thế của đại đỉnh chưa yếu, dưới đất còn lăn thêm mấy vòng, hất ngã luôn cả hai tên đang đỡ Thường Kim Bằng. Cả năm tên đà chủ cùng Thường Kim Bằng lập tức quần áo cháy bùng, trong đó bốn tên đà chủ đã bị đỉnh đụng chết, chỉ còn một tên sống sót quằn quại dưới đất.
Mọi người thấy tình thế như vậy, không ai không rụng rời. Tạ Tốn chỉ giơ tay đã đánh cho năm tên hảo thủ giang hồ chết tươi, tên đà chủ còn lại cũng đã trọng thương khó sống. Trương Thúy Sơn hành tẩu giang hồ, gặp những cao thủ không phải ít, nhưng siêu nhân cả thần lực lẫn võ công như Tạ Tốn thì chàng chưa thấy bao giờ. Chàng nghĩ thầm mình không phải địch thủ của y, mà ngay cả đại sư ca, nhị sư ca cũng không bằng được. Hiện nay trên đời, trừ phi sư phụ hạ sơn, ngoài ra không biết có ai thắng được y hay không.
Tạ Tốn nhắc thanh đao lên, giơ ngón tay búng một cái, thanh đao phát ra một tiếng trầm uất không phải vàng không phải gỗ, gật đầu khen ngợi:
– Vô thanh vô sắc, thần vật tự hối[13], đao tốt thực là tốt.
Y ngửng đầu lên, nhìn chiếc vỏ đao ở bên cạnh Bạch Qui Thọ, nói:
– Đó có phải là cái bao của đao Đồ Long không? Đưa lại đây.
Bạch Qui Thọ thầm nghĩ tình thế này, tính mệnh mình mười phần kể như chết đến chín, nếu như đưa vỏ đao cho y, không những cái tiếng anh hùng một đời trôi theo dòng nước, mà sau này nếu giáo chủ truy cứu tội, thì cái chết lại càng thêm thảm khốc. Thế nhưng giờ phút này chống cự lại y, thì cũng chỉ có nước chết mà thôi, cho nên y ngang nhiên đáp:
– Ngươi muốn giết cứ việc giết, họ Bạch này có phải là phường tham sống sợ chết chăng?
Tạ Tốn mỉm cười, nói:
– Cứng cỏi lắm, cứng cỏi lắm. Trong Thiên Ưng giáo quả nhiên cũng có vài ba nhân vật.
Bỗng nhiên tay phải y vung ra, thanh đao Đồ Long nặng hơn một trăm cân phóng thẳng vào Bạch Qui Thọ. Bạch Qui Thọ vốn đã đề phòng, nên thanh đao vừa rời khỏi tay, biết rằng thủ kình người này mạnh vô tả, không dám dùng binh khí đón đỡ, cũng không dám đưa tay ra chộp, lập tức né qua một bên. Nào ngờ thanh đao đó bay xéo tới, nghe soẹt một tiếng, phóng ngay vào chiếc bao đang ở trên bàn. Cái ném đó lực đạo thật mạnh, mang luôn cả vỏ đao cùng bay lên. Tạ Tốn đưa lang nha bổng ra, vừa gom vừa móc, khoèo luôn cả thanh đao Đồ Long lẫn bao về, tiện tay nhét luôn vào thắt lưng. Cái cách của y ném đao thu bao vừa chuẩn xác, tinh xảo, thủ pháp lại lạ lùng, quả thực không ai ngờ nổi.
Nhãn quang của y từ trái qua phải, nhìn quần hào khắp một lượt, hỏi:
– Tại hạ muốn lấy thanh đao Đồ Long này, các vị có dị nghị gì không?
Y hỏi luôn hai lượt, không ai dám trả lời.
Bỗng nhiên từ trong bàn tiệc của phái Hải Sa có một người đứng lên nói:
– Tạ tiền bối đức cao vọng trọng, danh dương bốn bể, đao này từ nay về tay Tạ tiền bối sở hữu. Bọn chúng tôi ai ai cũng đều hết sức tán thành.
Tạ Tốn nói:
– Các hạ có phải là Tổng đà chủ phái Hải Sa Nguyên Quảng Ba không?
Người kia đáp:
– Chính thị.
Y thấy Tạ Tốn biết được tên mình, rất là khoái chí, nhưng cũng hoảng sợ. Tạ Tốn nói:
– Ngươi biết sư phụ ta là ai chăng? Ở môn nào phái nào? Ta đã làm được việc gì?
Nguyên Quảng Ba ấp úng đáp:
– Cái đó ? Tạ tiền bối ?
Thực ra y không biết tí gì cả. Tạ Tốn lạnh lùng đáp:
– Việc gì của ta ngươi cũng không biết, sao dám nói đức cao vọng trọng, danh dương bốn bể? Ngươi chỉ quen nịnh bợ xu phụ, nói láo quen mồm. Ta sinh bình ghét nhất hạng người vô sỉ tiểu nhân như ngươi. Mau đứng ra đây.
Câu cuối cùng mỗi tiếng đều vang ầm như sấm động. Nguyên Quảng Ba bị uy thế của y bức hiếp, không dám trái lời, cúi đầu đi đến trước mặt y, nhưng không cưỡng nổi run lên bần bật.
Tạ Tốn nói:
– – Phái Hải Sa các ngươi võ nghệ bình thường, chỉ dùng độc diêm hại người. Năm ngoái ở Dư Diêu giết hại toàn gia Trương Đăng Vân, đầu tháng này Âu Dương Thanh chết ở Hải Môn, đều do tay các ngươi, phải không?
Nguyên Quảng Ba giật mình kinh hãi, vẫn tưởng hai vụ án đó cực kỳ bí mật, làm sao y lại biết được? Tạ Tốn quát:
– Gọi thủ hạ ngươi đem hai bát muối độc ra đây, để ta xem thử, là loại gì.
Bang chúng phái Hải Sa ai cũng mang theo độc diêm, Nguyên Quảng Ba không dám trái lời, chỉ còn nước bảo thủ hạ đem hai bát muối ra. Tạ Tốn cầm lấy một bát, đưa lên mũi ngửi một hồi, nói:
– Hai người mình mỗi người ăn một bát.
Nói rồi cắm lang nha bổng xuống đất, đưa tay nắm Nguyên Quảng Ba kéo lại, nghe lạch cạch, đã bóp y trật hàm ra, khiến y không thể nào ngậm miệng lại, rồi đem một bát muối độc đổ cả vào mồm.
Toàn gia Trương Đăng Vân ở Dư Diêu một đêm bị giết sạch, còn Âu Dương Thanh ở Hải Môn bị ám hại chết tại khách điếm là hai nghi án lớn trong võ lâm những năm gần đây. Trương Đăng Vân và Âu Dương Thanh thanh danh trên chốn giang hồ không tệ hại, không ai ngờ rằng lại do Nguyên Quảng Ba của phái Hải Sa làm, Trương Thúy Sơn thấy y bị ép ăn muối độc, chàng cảm thấy thống khoái trong lòng.
Tạ Tốn lại cầm bát muốn độc kia lên, nói:
– Họ Tạ này làm gì cũng công bình, ngươi ăn một bát, ta cũng tiếp ngươi một bát.
Nói rồi há mồm, cầm bát muối trút luôn vào bụng. Việc làm đó ra ngoài dự liệu của mọi người. Trương Thúy Sơn thấy y ra tay tàn độc, nhưng thần khí uy vũ ngang tàng, huống chi những người bị y giết đều là loại cùng hung cực ác, trong lòng không khỏi có chút hảo cảm, nhịn không nổi nói:
– Tạ tiền bối, những gian nhân này có chết cũng đáng, việc gì phải đồng lần với họ?
Tạ Tốn xoay qua, trừng mắt nhìn chàng. Trương Thúy Sơn mỉm cười, nhưng không lộ vẻ sợ hãi. Tạ Tốn hỏi:
– Các hạ là ai?
Trương Thúy Sơn đáp:
– Vãn bối là Trương Thúy Sơn của phái Võ Đương.
Tạ Tốn nói:
– Ồ, các hạ là Trương ngũ hiệp của phái Võ Đương, cũng đến đây tranh đoạt đao Đồ Long chăng?
Trương Thúy Sơn lắc đầu:
– Vãn bối đến Vương Bàn Sơn chỉ cốt tra xét tại sao sư ca là Du Đại Nham bị thương thôi, Tạ tiền bối nếu rõ chuyện này làm ơn cho biết.
Tạ Tốn không trả lời, thấy Nguyên Quảng Ba kêu la thảm thiết, ôm bụng lăn lộn mấy vòng rồi co rúm lại chết tốt. Trương Thúy Sơn vội nói:
– Tạ tiền bối mau uống giải dược đi.
Tạ Tốn nói:
– Uống giải dược cái gì, mau đưa rượu đây cho ta.
Người tư tân chuyên việc tiếp khách của Thiên Ưng giáo lập tức mang vò và chén rượu lại. Tạ Tốn quát:
– Thiên Ưng giáo các ngươi tính khí thật là nhỏ nhen, mau mang bình lớn đến đây.
Gã tư tân tự mình bưng một vò trần tửu lớn, cung cung kính kính đặt trước mặt Tạ Tốn, trong lòng nghĩ thầm:
– Ngươi trúng độc rồi lại còn uống rượu, chắc còn hiềm chết chưa đủ nhanh chắc?
Tạ Tốn bưng cả hũ rượu, ục ục uống luôn một mạch tất cả vào bụng. Vò này ít ra cũng phải hai mươi cân, vậy mà chỉ chốc lát y đã uống sạch. Y vỗ vỗ vào cái bụng phình to, rồi bất thần há mồm, một dòng rượu tống vọt ra, phun luôn vào ngực Bạch Qui Thọ. Bạch Qui Thọ còn đang kinh ngạc thì cột rượu đã trúng vào người y, chẳng khác gì một cái búa mấy trăm cân liên tiếp đập vào, khiến y dù nội công tinh thâm cũng không chịu nổi, lảo đảo mấy cái ngã lăn ra bất tỉnh.
Tạ Tốn quay lại, phun rượu lên trời, thành một trận mưa phủ xuống toàn thể đám Cự Kình bang. Từ bang chủ Mạch Kình trở xuống ai ai cũng đính đầy đầu đầy mặt, thấy rượu đó tanh hôi không chịu nổi, người nào công lực hơi yếu lập tức ngã lăn ra. Thì ra Tạ Tốn uống rượu vào bụng, tẩy sạch muối độc trong dạ dày, rồi dùng nội lực tống ra, hơn hai mươi cân rượu đều biến thành độc tửu, chất độc còn lại trong bụng y chỉ chút ít, nội công thâm hậu như y, không làm hại nổi.
Bang chủ Cự Kình bang là Mạch Kình bị y đùa rỡn như thế, đứng bật lên, nhưng nghĩ lại, không dám nổi giận, đành ngồi xuống. Tạ Tốn nói:
– Mạch bang chủ, hồi tháng năm năm nay, ngươi ở Mân Giang Khẩu cướp một viễn dương hải thuyền, có phải thế không?
Mạch Kình mặt xám lại, nói:
– Đúng vậy.
Tạ Tốn nói:
– Các hạ làm hải khấu, không đi ăn cướp, lấy gì mà sống? Chuyện đó ta cũng không trách làm chi. Thế nhưng ngươi đem mấy chục thương khách vô tội ném tất cả xuống biển, lại luân phiên gian dâm bảy phụ nữ đến chết, việc đó chẳng phải thái quá thương thiên hại lý ư?
Mạch Kình nói:
– Cái đó ? cái đó ? cái đó là anh em trong bang làm chứ ? không phải tôi.
Tạ Tốn nói:
– Thủ hạ ngươi làm chuyện cùng hung cực ác, ngươi không biết ước thúc, thì có khác gì chính ngươi làm? Thế khi đó những ai làm?
Mạch Kình gặp phải cảnh này, chỉ mong mình khỏi chết, rút ngay yêu đao, nói:
– Thái Tứ, Hoa Thanh Sơn, Hải Mã Hồ Lục, việc ngày hôm đó, ba người các ngươi có dự phần phải không?
Xoẹt xoẹt xoẹt ba đao, y đã chém ba kẻ ngồi bên ngã lăn ra. Ba đao đó ra tay thật là nhanh, bọn Thái Tứ không có cách gì phản kháng, lập tức trúng đao chết ngay.
Tạ Tốn nói:
– Tốt lắm. Chỉ có điều quá chậm, lại không phải ngươi thực tâm muốn thế. Giá như hôm đó ngươi giết luôn ba người này, ắt là hôm nay ta không tỉ võ với ngươi. Mạch bang chủ, công phu giỏi nhất của ngươi là gì?
Mạch Kình thấy không còn né tránh được nữa, nghĩ thầm: ?Trên đất liền tỉ thí với ngươi, chưa chắc mình đỡ được ba chiêu. Thế nhưng ở dưới biển, là giang sơn của mình, nếu có không lại, còn có đường đào tẩu, không lẽ ngươi thủy tính cũng giỏi hơn ta chăng??. Y nói:
– Tại hạ mong được lãnh giáo Tạ tiền bối công phu dưới nước.
Tạ Tốn nói:
– Được rồi, bọn mình ra ngoài biển tỉ thí.
Đi được mấy bước, bỗng nói:
– Khoan đã, ta đi khỏi đây, chỉ sợ những người ở đây chạy trốn hết cả.
Mọi người trong lòng ai nấy hãi sợ, nghĩ thầm: ?Y sợ mình chạy trốn, không lẽ y muốn giết hết mọi người ở đây sao??. Mạch Kình vội nói:
– Thực ra dù có xuống biển tỉ thí, tại hạ cũng không phải là đối thủ của Tạ tiền bối, chi bằng nhận thua trước là hơn.
Tạ Tốn đáp:
– Ừ, thế càng giản tiện, ngươi đã nhận thua, thì hoành đao tự sát đi.
Mạch Kình giật nảy người, nói:
– Cái đó ? cái chuyện tỉ võ, thắng bại là chuyện thường, việc gì mà phải tự sát ?
Tạ Tốn quát:
– Láo nào, cái mặt ngươi làm gì mà đòi tỉ võ với ta? Hôm nay ta đến đây cốt để đòi mạng. Chúng ta học võ, tay ai là không nhuốm máu? Có điều Tạ mỗ sinh bình chỉ giết người biết võ, ghét nhất những ai ăn hiếp kẻ yếu đuối, sát hại đàn bà con trẻ chưa từng luyện võ. Nếu ai đã làm chuyện đó, hôm nay Tạ mỗ sẽ không bỏ qua đâu.
Trương Thúy Sơn nghe đến đây, không nhịn nổi nhìn trộm Ân Tố Tố một cái, nghĩ đến nàng giết hại già trẻ lớn bé của Long Môn tiêu cục mấy chục mạng người, trong đó không ít người chẳng biết võ công, Tạ Tốn nếu như biết được chuyện này, thể nào cũng tìm cô tính sổ. Chàng thấy nàng mặt mày trắng bệch, môi mấp máy. Trương Thúy Sơn lại nghĩ thầm: ?Tạ Tốn như muốn giết nàng, ta có ra tay cứu hay chăng? Nếu ta ra tay, chỉ bất quá đem nạp mạng cho y thôi, huống chi với nàng cũng chỉ là tội hữu báo ứng thôi, nhưng ? nhưng ? làm sao có thể xõng tay nhìn nàng bị hành hung mà không lý tới??.
Lại nghe Tạ Tốn nói tiếp:
– Chỉ có điều sợ các ngươi chết mà không phục, nên ta cho từng người thi triển sinh bình tuyệt nghệ, chỉ cần thắng được ta một ngón thôi, ta sẽ tha cho khỏi chết.
Y nói đến đó, cúi xuống móc dưới đất hai nắm đất, đổ rượu vào, hòa thành hai nắm bùn, nói với Mạch Kình:
– Thủy tính giỏi hay dở, cốt là xem ai ở dưới nước được lâu. Ta với ngươi hai người dùng bùn bịt chặt miệng mũi, ai chịu không nổi giơ tay gỡ ra trước, thì người đó phải vung đao tự tận.
Y nói xong không cần Mạch Kình đồng ý hay không, dùng nắm bùn bên tay trái bịt luôn vào mặt mình, kín cả mũi miệng, tay phải vung ra, nghe bạch một tiếng, nắm bùn bay ra bịt chặt mũi miệng Mạch Kình.
Mọi người thấy cảnh tượng đó, tuy thật hoạt kê nhưng không ai cười nổi.
Trước khi bị bùn bịt chặt mũi miệng, Mạch Kình chuẩn bị hít một hơi dài, y lập tức ngồi xếp bằng, nín thở bất động. Y từ khi bảy tám tuổi đã ngày ngày ra biển mò cua bắt cá, bơi lội cực giỏi, đến tàn một nén hương chưa phải trồi lên mà cũng không ngộp, thành thử màn tỉ thí này y tin chắc nhất định không thua, nên không còn sợ hãi nữa, ngưng thần tĩnh tâm, cốt để được thật lâu.
Tạ Tốn trái lại không ngồi bất động, lại rảo bước tới mâm của Thần Quyền môn, trừng mắt nhìn chưởng môn của Thần Quyền môn là Quá Tam Quyền. Quá Tam Quyền thấy y nhìn mà rởn tóc gáy, vội đứng lên, vòng tay nói:
– Chào Tạ tiền bối, tại hạ là Quá Tam Quyền.
Tạ Tốn mồm bị gắn kín, không nói chuyện được, giơ ngón tay trỏ bên phải, nhúng vào ly rượu, viết lên trên bàn ba chữ. Quá Tam Quyền trông rồi mặt mày xám ngoét, thần tình cực kỳ hãi sợ, chẳng khác gì đột nhiên thấy ma quỉ hiện ra. Các đệ tử cùng bàn liếc trông, chỉ thấy ba chữ Tạ Tốn viết là ?Thôi Phi Yên?. Những đệ tử đó không hiểu chuyện gì, nghĩ thầm ?Thôi Phi Yên? dường như tên của một người đàn bà, nhưng không biết tại sao sư phụ lại hãi sợ đến thế.
Thế nhưng Quá Tam Quyền biết ngay, vì Thôi Phi Yên chính là chị dâu của y, y bức gian không được nên ra tay giết chết. Y nghĩ thầm: ?Y thể nào cũng không tha mình, nhân lúc bùn còn đang bịt mũi miệng, mình toàn lực tấn công, nếu như y vận khí phát quyền thể nào cũng thua Mạch Kình?.
Nghĩ thế bèn lớn tiếng nói:
– Tại hạ chấp chưởng Thần Quyền môn, cả đời chỉ học quyền pháp, vậy xin lãnh giáo tiền bối vài chiêu.
Không đợi Tạ Tốn chuẩn bị, nghe vù một tiếng, y đã nhắm ngay bụng dưới đối phương đánh tới. Quyền thứ nhất vừa ra, quyền thứ hai lập tức đi theo. Cái tên Quá Tam Quyền chính là vì quyền lực của y cực mạnh, một quyền có thể đánh chết một con bò đực, võ sư tầm thường chưa ai chịu nổi ba cú đấm. Trên giang hồ vì thế truyền ngôn, còn tên thực của y không ai biết đến nữa.
Y biết rằng sự tình trước mắt, cốt ở tấn công thật nhanh, nếu như Mạch Kình chịu không nổi phải bóc cục bùn ra, Tạ Tốn cũng nhân đó mà gỡ theo. Lúc này là lúc y thật là lợi thế, đối phương không cách nào hô hấp vận lực, võ công sẽ bị giảm đi rất nhiều.
Hai quyền của y đánh ra, Tạ Tốn giơ tay ra đỡ. Quá Tam Quyền thấy kình lực đối phương yếu đuối, so với thần uy lúc đánh chết Thường Kim Bằng, hay phun ngã Bạch Qui Thọ thật khác xa, hét lên một tiếng:
– Quyền thứ ba đây.
Cú đấm thứ ba của y có một cái tên, gọi là ?Hoành Tảo Thiên Quân, Trực Tồi Vạn Mã[14]?, là chiêu bình sinh sở học tối lợi hại, nhiều anh hùng hảo hán thành danh trên giang hồ đã bị thương dưới cú đánh này.
Lúc đó Mạch Kình mặt đã đỏ bừng, trên trán mồ hôi vã ra như mưa, xem chừng không còn chịu nổi nữa. Mạch thiếu bang chủ thấy phụ thân nguy cấp, mà Tạ Tốn lại đang tỉ quyền với Quá Tam Quyền, chợt nghĩ ra một mẹo, thò tay rút một chiếc ngân thoa của một nữ đà chủ trong bang, bẻ lấy một đoạn chừng một tấc, nhắm ngay miệng Mạch Kình ném tới, tuy không khỏi làm y bị thương nơi răng hay lưỡi, nhưng đoạn thoa sẽ đâm lủng một cái lỗ nhỏ, không khí theo đó mà vào, chuyện tỉ thí sẽ không thể nào thua được.
Mảnh thoa gãy còn cách Mạch Kình chừng một trượng, Tạ Tốn liếc mắt trông thấy, giơ chân hẩy một hòn đá nhỏ bay lên, trúng ngay chiếc ngân thoa. Chiếc thoa quay ngược trở lại, thế nhanh lạ thường, chỉ nghe Mạch thiếu bang chủ kêu ?A? một tiếng thảm thiết, giơ tay ôm mắt phải, máu chảy ròng ròng, hóa ra y đã bị chiếc thoa đâm mù mắt.
Mạch Kình lại đưa tay toan gỡ nắm đất ra, Tạ Tốn đá luôn hai hòn sỏi khác, cách cách hai tiếng, hai hòn đá đã đánh gãy hai xương đầu vai, tay y không còn động đậy được nữa.
Ngay lúc đó, quyền thứ ba của Quá Tam Quyền đã đánh ngay bụng dưới Tạ Tốn. Quyền đó thế như sấm sét, quyền lực chưa đến nhưng đã rất là mãnh liệt. Quá Tam Quyền liệu rằng đối phương sẽ không dám giơ tay đỡ thế quyền của mình mà phải né qua, nhưng dù lách qua trái hay phải, chồm lên lùi xuống, y cũng đã dự bị sẵn một thế tiếp theo cực lợi hại. Nào ngờ Tạ Tốn lại không chuyển động, Quá Tam Quyền mừng lắm, quyền của y đánh trúng ngay bụng dưới. Trong cơ thể, bụng dưới là chỗ mềm nhất, nào ngờ quyền của y đánh vào chẳng khác gì đánh vào sắt đá, vừa biết là không ổn thì mồm đã hộc máu tươi, chết ngay tại chỗ.
Tạ Tốn quay đầu lại, thấy Mạch Kình hai mắt trợn trắng, khí đã tuyệt chết rồi. Y gỡ nắm bùn của Mạch Kình ra trước, thò tay xem xét hơi thở, sau đó mới đưa tay gỡ cục bùn trên mặt mình, ngửa mặt lên trời cười một hồi, nói:
– Hai tên này bình sinh tác ác đa đoan, đến hôm nay mới gặp báo ứng cũng là muộn lắm rồi.
Nói xong y đưa đôi mắt sáng quắc như điện nhìn vào hai kiếm khách của phái Côn Lôn, từ Cao Tắc Thành sang Tưởng Đào rồi lại từ Tưởng Đào quét sang Cao Tắc Thành, một lúc lâu không nói gì. Cao Tưởng hai người mặt mày trắng bệch, nhưng vẫn ngang nhiên cầm kiếm, giương mắt nhìn lại y.
Trương Thúy Sơn thấy Tạ Tốn chỉ trong khoảnh khắc đã giết những nhân vật thủ lãnh của bốn đại bang hội, bây giờ lại toan hạ thủ Cao Tưởng hai người, đứng dậy nói:
– Tạ tiền bối, cứ như ông nói, những người mới chết đây đều đầy tội lỗi, chỉ là báo ứng mà thôi. Thế nhưng nếu ông cũng không phân biệt trắng xanh vàng đỏ gặp ai cũng giết, thì có khác gì bọn họ đâu?
Tạ Tốn cười khẩy:
– Có gì phân biệt ư? Ta võ công cao, bọn họ võ công thấp, kẻ mạnh thắng mà kẻ yếu thua, phân biệt là thế đó.
Trương Thúy Sơn nói:
– Người ta khác loài cầm thú bởi vì biết được đâu là phải, đâu là trái, nếu chỉ cậy mạnh hiếp yếu, thì đâu khác với cầm thú ở chỗ nào.
Tạ Tốn ha hả cười, nói:
– Trên đời này bộ có chuyện phân biệt phải trái ư? Ngày nay người Mông Cổ làm vua, muốn giết người Hán bao nhiêu thì giết, họ có nói chuyện phải trái với ngũ hiệp không? Người Mông Cổ muốn bắt đàn bà con gái, vàng bạc ngọc ngà của người Hán, cứ thò tay ra lấy, người Hán không phục, họ giơ đao chém liền, họ có nói chuyện phải trái đâu?
Trương Thúy Sơn lặng thinh hồi lâu, nói:
– Người Mông Cổ bạo ngược, tàn ác, hoành hành chẳng khác gì cầm thú. Phàm là người có chí khí, ai chẳng nghiến răng thống hận, ngày đêm mong đuổi được quân Thát tử, lấy lại giang sơn.
Tạ Tốn nói:
– Ngày trước người Hán làm Hoàng Đế, bộ cũng nói chuyện phải trái hay sao? Nhạc Phi là đại trung thần, sao cũng bị Tống Cao Tông giết chết? Tần Cối là đại gian thần, tại sao thân cư cao vị, hưởng tận phú quí vinh hoa?
Trương Thúy Sơn nói:
– Các vua nhà Nam Tống thích dùng gian nịnh, sát hại kẻ trung lương, bãi xích danh tướng, để đến nỗi giang sơn gấm vóc rơi vào tay dị tộc, trồng ác nhân thì thu ác quả, đó chính là phân biệt phải trái.
Tạ Tốn đáp:
– Hoàng đế Nam Tống hôn ám vô đạo, thế nhưng người Kim, người Mông Cổ tàn sát ngược đãi lại là người Hán trong khắp thiên hạ. Xin hỏi Trương ngũ hiệp, trăm họ làm điều ác gì, mà phải chịu không biết bao nhiêu tai ương như vậy?
Trương Thúy Sơn lặng thinh. Ân Tố Tố đột nhiên chen vào:
– Dân chúng vô quyền vô dũng, dĩ nhiên phải chịu để cho người ta chém giết. Người đời nói rằng họ là dao thớt, mình là cá thịt, âu cũng là chuyện thường.
Trương Thúy Sơn nói:
– Chúng ta cố công cố sức học võ, cũng là để sao cho người ta được thân oan, được hả giận, chống kẻ mạnh giúp người yếu. Tạ tiền bối anh hùng vô địch, nếu đem cái tuyệt kỹ võ công này hành hiệp trong thiên hạ, ắt là người người đều được hưởng phúc ấm.
Tạ Tốn hỏi lại:
– Hành hiệp trượng nghĩa có lợi gì? Tại sao lại phải hành hiệp trượng nghĩa?
Trương Thúy Sơn sững người, chàng từ nhỏ được sư phụ giáo huấn, ngay từ khi chưa học võ, là hành hiệp trượng nghĩa là việc suốt đời phải theo đuổi, sở dĩ học võ cũng là cốt để hành hiệp. Hành hiệp là gốc, còn học võ chỉ là ngọn. Trong bụng chàng chưa bao giờ lại hỏi 😕 Hành hiệp trượng nghĩa có lợi gì? Tại sao lại phải hành hiệp trượng nghĩa??, mà vẫn coi đó là chuyện đương nhiên, cái lý tự nhiên đã sáng tỏ rồi, nên không bao giờ suy nghĩ đến, lúc này nghe Tạ Tốn hỏi, chàng ngơ ngẩn một hồi, mới đáp:
– Hành hiệp trượng nghĩa ư, là để trải rộng chính nghĩa, thiện được đáp đền, ác bị quả báo.
Tạ Tốn cười một hồi dài, nói:
– Thiện được đáp đền, ác bị quả báo? Ha ha, nói láo nói lếu. Ngươi tưởng trong chốn võ lâm thực là có chuyện thiện được đáp đền, ác bị quả báo hay sao?
Trương Thúy Sơn bỗng nghĩ đến Du Đại Nham, tam sư ca một đời làm không biết bao nhiêu điều tốt, vậy mà bị thảm họa như thế, tám chữ ?thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo?, chính mình cũng chưa tin là thực, nên thở dài đáp:
– Đạo trời khó nói, việc người khó biết. Mình chỉ cầu sao tâm được an, thấy việc nghĩa thì làm, còn chuyện họa hay phúc, đâu nghĩ đến làm gì.
Tạ Tốn liếc Trương Thúy Sơn nói:
– Ta vẫn nghe tôn sư Trương Tam Phong tiên sinh võ công quán tuyệt đời nay, mong có duyên được gặp một lần. Ngươi là cao đồ trong môn phái, kiến thức lại tầm thường như thế, có lẽ Trương Tam Phong cũng chỉ đến thế thôi, không gặp được cũng không sao.
Trương Thúy Sơn thấy lời lẽ của y đối với ân sư có ý khinh thị, nhịn không nổi, nói:
– Cái học của ân sư đâu phải kẻ phàm phu tục tử có thể đo lường được. Tạ tiền bối võ công cao cường, hậu học tiểu bối không sánh kịp, nhưng đối với với ân sư của tôi, thì chẳng qua cũng chỉ là cái dũng của kẻ thất phu thôi.
Ân Tố Tố kéo vạt áo chàng, ý muốn chàng nhịn cái nhục nhất thời, khỏi phải gặp chuyện rắc rối trước mắt. Trương Thúy Sơn nghĩ thầm: ?Đại trượng phu có chết cũng cam, nhưng quyết không để y làm nhục đến ân sư?.
Nào ngờ Tạ Tốn lại không nổi giận, chỉ bình thản nói:
– Trương Tam Phong tiên sinh khai sáng tông phái, chắc hẳn võ công phải có chỗ khác người. Võ học chi đạo, vô cùng vô tận, ta không thể nào bằng được tôn sư, cái đó cũng không có gì lạ. Nhưng thể nào cũng có ngày, ta sẽ lên núi Võ Đương lãnh giáo một phen. Trương ngũ hiệp, môn công phu sở trường của ngươi là gì, họ Tạ này mong được biết đến.
[1] Bão tất thuyền đầu, Tư kiến gia tân. Vi phong động ba, Võng yên nhược tỉnh.
[2] Gió hiu hiu, mưa lất phất thì chẳng phải về nhà ý nói cái dù này có thể giúp người tránh được gió mưa nhỏ.
[3] con của Vệ Hằng đời Tấn (có chỗ chép là em gái) vợ của Lý Củ nên còn gọi là Lý phu nhân, có tài viết theo lối chữ lệ là thầy dạy cho Vương Hi Chi về phép viết chữ.
[4] Phép cắm hoa, hoa nọ đỡ cho hoa kia, và phép gieo vần, vần nọ liền với vần kia, ý nói chữ nọ liền với chữ kia không đứt đoạn.
[5] Văn quân nhất tịch thoại, Thắng độc thập niên thư
[6] Đêm lạnh khách đến đem trà ra đãi thay rượu. Đây là câu đầu của bài thơ tứ tuyệt: Hàn dạ khách lai trà đương tửu, Trúc lô thang phí hỏa sơ hồng. Tầm thường nhất dạng song tiền nguyệt, Tài hữu mai hoa tiện bất đồng. (Đêm lạnh trà ngon thay rượu quí, Lửa vừa mới bén nước đang sôi. Ánh trăng trước cửa càng đơn lẻ, Hay muốn thay hoa chuốc ngậm ngùi)
[7] Giấy làm ở Tuyên châu là một loại danh phẩm
[8] một loại võ khí ngắn dùng để chiếu đấu dưới nước, hai đầu nhọn, có thể dấu theo cánh tay và ném ra như một loại ám khí
[9] Thác nước từ trên cao trăm trượng đổ xuống
[10] Thầy đi ta cũng đi, thầy rảo bước ta cũng rảo bước, thầy chạy ta cũng chạy, nhưng khi thầy ra sức chạy bụi mù, thì ta chỉ giương mắt nhìn không sao theo kịp.
[11] yên ổn, lặng lẽ, khiêm tốn, đè nén là bốn đức tính cần tập luyện của đạo gia
[12] thanh đao Đồ Long là vật cao quí nhất trong võ lâm, hiệu lệnh thiên hạ, không ai dám không theo
[13] Không thanh không sắc, thần vật tự khiêm tốn dấu mình
[14] đánh ngang thì tiêu diệt nghìn quân, đánh thẳng thì đập tan vạn mã