Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Ỷ Thiên Đồ Long Ký

Chương 35 – Dữ tử cộng huyệt tương phù tương

Tác giả: Kim Dung
Chọn tập

Dù cho dị mộng đồng sàng,

Thác đi hai nắm xương tàn bên nhau.

Trương Vô Kỵ đi theo cô gái chưa được mấy bước, đã đến trước giường. Con a hoàn vén trướng lên, chui vào bên trong, nhưng vẫn cầm tay Trương Vô Kỵ không chịu buông ra. Trương Vô Kỵ giật mình kinh hãi, nghĩ thầm con a hoàn này tuy còn bé, lại xấu xí, nhưng dẫu sao cũng vẫn là đàn bà, làm sao có thể cùng cô ta ngủ chung một giường được? Huống chi lúc này đuổi theo địch là chuyện gấp, thành thử giựt tay về. Con a hoàn nói nhỏ:

– Thông đạo ở trong giường.

Chàng nghe mấy chữ đó, tinh thần phấn chấn, không còn hiềm phân biệt nam nữ, thấy con a hoàn lật chiếc chăn lên, nằm ngang trên giường, chàng cũng nằm xuống bên cạnh. Không biết cô gái hoạt động máy móc gì, chiếc giường bỗng dưng nghiêng qua một bên, hai người rơi tuột ngay xuống.

Tuy rơi tới đất phải đến mấy trượng nhưng may là bên dưới có trải một lớp cỏ dày nên không thấy đau chút nào, chỉ nghe trên đầu một tiếng cạch nhỏ, chiếc giường đã quay lại như cũ. Chàng trong bụng khen thầm: “Cơ quan này bố trí thật tinh vi, ai ngờ được cửa đường hầm bí mật này lại ở ngay trên giường một tiểu thư”. Chàng nắm tay cô gái, vội vàng đuổi về phía trước.

Chạy được mấy trượng, nghe thấy tiếng xích của con a hoàn kéo lê dưới đất, chợt nghĩ ra: “Cô gái này chân tập tễnh, lại có xích sắt, sao có thể chạy nhanh đến thế?” liền ngừng lại. Cô gái đoán được tâm sự chàng, cười nói:

– Cháu giả vờ què chân để đánh lừa lão gia và tiểu thư đấy thôi.

Trương Vô Kỵ nghĩ bụng: “Thảo nào mẹ ta đã dặn rằng đàn bà con gái trong thiên hạ thích đánh lừa người khác. Hôm nay ngay cả Bất Hối muội muội cũng đã ám toán ta”. Lúc này chàng đang lo đuổi theo kẻ địch thành thử ý niệm đó chỉ thoáng qua, rồi nghĩ qua chuyện khác, trong đường hầm cong cong quẹo quẹo chạy mấy chục trượng thì tắc nghẽn, nhưng gã Viên Chân tuyệt nhiên không thấy đâu.

Con a hoàn nói:

– Đường hầm này cháu cũng chỉ mới tới đây, chắc là còn có đường thông đi nơi khác nhưng cháu không tìm thấy cơ quan mở cửa.

Trương Vô Kỵ đưa tay mò quanh mọi chiều, thấy những vách đáo chỗ lồi chỗ lõm, không thấy có dấu nối, đưa tay đẩy thử những chỗ lồi lõm không thấy chuyển động chút nào. Con a hoàn than:

– Cháu cũng đã thử hàng chục cách nhưng vẫn không tìm ra máy móc ở chỗ nào, thật là lạ lùng. Cháu cũng đã đem đèn lửa vào xem kỹ càng nhưng không thấy chỗ nào có dấu vết gì khả nghi. Thế nhưng hòa thượng kia trốn đi đâu?

Trương Vô Kỵ hít một hơi, vận kình vào hai cánh tay, tại bức vách phía trái dùng sức đẩy thử, không thấy động tĩnh gì, lại qua bên phải đẩy thử. Lần này vách đá hơi chuyển động, chàng mừng quá, lại hít hai khẩu chân khí, sử kình đẩy thêm, tường đá từ từ lui về sau. Thì ra đó là một cái cửa đá thật dày, thật lớn, thật nặng, thật chắc chắn. Cái bí đạo trên Quang Minh Đính cấu trúc thật tinh xảo, có nơi thì dùng cơ quan bí mật, còn cái cửa đá này thì hoàn toàn không có máy móc gì, nếu không phải người có thần lực trời cho hay thân mang võ công thượng thừa thì không thể nào chuyển dịch được. Chẳng hạn như tiểu a hoàn này tuy đã vào được đường hầm nhưng võ công không đủ, nửa đường cũng phải bỏ cuộc.

Trương Vô Kỵ lúc này luyện Cửu Dương thần công đã thành, sức lực thật là mạnh mẽ nên mới có thể đẩy được cửa mở ra. Khi cánh cửa đá đã mở ra được ba thước rồi, chàng liền đánh ra một chưởng, đề phòng Viên Chân náu ở đằng sau cửa đá đánh lén chăng, sau đó mới luồn vào.

Qua khỏi bức tường đá rồi, trước mặt lại là một đường hầm dài khác, hai người liền theo đó mà đi, thấy thông đạo hơi xiên xiên lên trên, càng đi càng hẹp lại, khoảng chừng năm mươi trượng, đột nhiên đường chia thành hai nhánh. Trương Vô Kỵ đi thử một bên thì đường đó lại chia thành bảy nhánh khác, đang phân vân chưa biết theo ngả nào, bỗng nghe thấy từ đường bên trái ở phía trước có tiếng ho khẽ, tuy ngừng ngay nhưng trong đêm thanh vắng nghe vẫn rõ ràng.

Trương Vô Kỵ nói khẽ:

– Đi phía này.

Chàng liền tiến lên đi theo con đường tận cùng phía trái. Nhánh đó chỗ cao chỗ thấp, dưới đất lại gập ghềnh khó đi, chàng xông tới nghe tiếng xích sắt phía sau loảng xoảng không dứt, liền quay lại nói:

– Địch nhân ở phía trước, tình thế hung hiểm, cô cứ đi chầm chậm cũng được.

Con a hoàn trả lời:

– Có nạn cùng chịu, há sợ gì đâu?

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Ngươi cũng định lừa ta chăng?”. Đường hầm cứ theo phía trái lượn hình trôn ốc đi dần xuống dưới, mỗi lúc một hẹp dần, về sau chỉ còn đủ chỗ lọt một người tưởng chừng như một giếng sâu. Đột nhiên chàng cảm thấy từ trên đầu một làn gió ép xuống, liền vung tay áo cuộn ngay ngang lưng con a hoàn, nhảy ngay xuống dưới, chân vừa chấm đất liền nhào người về phía trước, chẳng cần biết là hang sâu vạn trượng hay tường đá vì đâu có thì giờ suy nghĩ? Cũng may phía trước là một khoảng trống đủ chỗ cho hai người dung thân. Chỉ nghe bình một tiếng thật lớn, đất cát đá vụn, bay mù mịt đầy đầu đầy mặt.

Trương Vô Kỵ định thần, bỗng nghe cô gái nói: “Nguy hiểm quá, tên giặc trọc ẩn thân bên cạnh, đẩy đá đè mình”. Trương Vô Kỵ theo sườn đá vòng trở lại, tay phải giơ lên che đầu, đi được mấy bước, tay đã chạm phải mặt xù xì của tảng đá. Có tiếng của Viên Chân truyền từ sau tảng đá đến tai:

– Tặc tiểu tử, hôm nay cho ngươi chết nơi đây, có một cô gái nhỏ làm bạn, cũng may cho ngươi lắm đó. Nếu ngươi có khỏe, xem ngươi có đẩy nổi tảng đá này không nào? Nếu một tảng chưa đủ, cho thêm một tảng nữa.

Lại nghe tiếng sắt nạy vào đá, rồi thêm một tiếng bình nữa, một khối đá khác lại bị y bẩy xuống, đè lên trên tảng đá trước. Đường hầm này chỉ đủ lọt một người, Trương Vô Kỵ đưa tay mò thử, tuy tảng đá không hoàn toàn bịt chặt đường hầm, nhưng cùng lắm chỉ có thể đút lọt một cánh tay, còn người thì không thể nào chui qua được. Chàng hít một hơi chân khí, hai tay lắc thử, hai bên đất cát bay xuống mù mịt nhưng tảng đá không thể nào đẩy nổi. Xem ra hai khối đá nặng đến mấy nghìn cân chồng lên nhau, dù chàng có khỏe như trâu như hổ, cũng không thể nào mở nổi. Tuy chàng đã luyện Cửu Dương thần công nhưng sức người có hạn, hai khối đá to như hai cái gò nhỏ kia, làm sao có thể di chuyển được một gang nửa tấc nào?

Lại nghe Viên Chân ở bên ngoài tảng đá thở hổn hển, có lẽ sau khi y bị thương nặng rồi, lại còn dùng sức bẩy hai tảng đá khiến cho gân cốt không còn hơi sức. Y thở mấy lần rồi hỏi:

– Tiểu tử … tên … tên ngươi là..

Nói đến đây y hụt hơi không nói tiếp được nữa. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Lúc này nếu như y có đổi ý, đột nhiên mở lòng từ bi, muốn cứu hai người ra thì cũng không sao làm được. Việc gì mình phải phí lời với y làm gì, đi xem đường hầm có lối khác đi ra không là hơn”. Nghĩ thế quay mình lại, theo đường hầm đi tiếp về phía trước. Cô gái nói:

– Bên mình cháu có đồ đánh lửa, tiếc rằng không có đèn nến gì cả, có lửa cũng tắt ngay.

Trương Vô Kỵ nói:

– Đừng đánh lửa vội.

Chàng đi tiếp về phía trước thêm mấy chục trượng nữa thì đến cuối đường hầm. Hai người mò khắp nơi, Trương Vô Kỵ mò được một cái thùng gỗ, mừng nói:

– Có đây.

Giơ chưởng lên đánh xuống đập vỡ cái thùng, thấy trong thùng đầy bột, không biết là vôi hay là bột mì. Chàng nhặt một mảnh gỗ lên nói:

– Cô đốt lửa lên.

Cô tiểu hoàn lấy ra hỏa đao, hỏa thạch, bùi nhùi đánh lửa lên châm vào thanh gỗ, đột nhiên lửa cháy bùng lên chói cả mắt, mảnh gỗ bén lửa ngay. Hai người sợ đến nhảy dựng lên, mũi ngửi thấy mùi khét của diêm sinh. Cô gái nói:

– Thuốc súng đó.

Cầm mảnh gỗ giơ lên cao, nhìn lại bột trong thùng gỗ quả nhiên là thuốc nổ đen sì. Nàng cười khúc khích:

– Nếu như lúc đốm lửa tóe ra bén vào hỏa dược, e rằng cả tên ác hòa thượng ở bên ngoài kia cũng tan xác.

Lại thấy Trương Vô Kỵ ngơ ngẩn nhìn mình, trên mặt đầy vẻ kinh ngạc, thần sắc thực là khác lạ, liền mỉm cười hỏi:

– Công tử sao thế?

Trương Vô Kỵ thở dài một tiếng, nói:

– Thì ra, thì ra cô … cô đẹp đến thế.

Cô tiểu hoàn che miệng cười, nói:

– Cháu sợ hết hồn, quên cả giả trang khuôn mặt.

Nói rồi đứng thẳng người lên. Thì ra cô ta chẳng gù lưng, cũng không khập khiễng, hai mắt sâu thẳm có thần, mày dài mũi thẳng, bên má có lúm đồng tiền. Tuy nhiên nàng tuổi còn nhỏ, thân thể chưa trưởng thành, mặt mày xinh đẹp nhưng vẫn còn nét trẻ con. Trương Vô Kỵ nói:

– Vì cớ gì cô phải giả vờ thành quái đản đến thế?

Cô gái cười đáp:

– Tiểu thư ghét cháu lắm, thấy cháu xấu xí thì trong lòng mới vui vẻ. Nếu cháu không giả vờ thành hình dáng quái dị như thế, cô ấy đã giết cháu lâu rồi.

Trương Vô Kỵ hỏi:

– Tại sao cô ấy lại muốn giết cô?

Tiểu hoàn đáp:

– Tiểu thư nghi là cháu muốn ám hại cô ấy và lão gia.

Trương Vô Kỵ lắc đầu:

– Thật là đa nghi. Khi cô cầm trường kiếm trong tay, cô ta không động đậy gì được, cô vẫn không hại cô ấy. Từ nay về sau, cô ấy sẽ không còn nghi ngờ gì cô nữa.

Cô gái nói:

– Cháu dẫn công tử xuống dưới này, tiểu thư lại càng nghi hơn. Nhưng không biết mình có ra khỏi nơi đây được không, nên dù cô ấy nghi hay không nghi, cháu cũng không để ý tới nữa.

Cô gái vừa nói vừa giơ cao thanh gỗ, xem xét chung quanh. Chỗ hai người đang đứng hình như là một căn phòng, chất đầy cung tên binh khí, đa số đều đã rỉ sét, có lẽ là nơi tàng trữ binh khí của Minh giáo khi xưa để phòng khi phải chống với ngoại địch. Xem xét tường bốn bên chung quanh, không thấy có dấu vết gì xem ra là cuối đường hầm rồi. Viên Chân sở dĩ cố ý ho là để dụ cho hai người đi vào tuyệt lộ.

Tiểu hoàn nói:

– Công tử gia, tên cháu là Tiểu Siêu. Cháu nghe tiểu thư gọi công tử là Vô Kỵ ca ca, vậy đại danh có phải là Vô Kỵ không?

Trương Vô Kỵ đáp:

– Đúng thế. Tôi họ Trương …

Đột nhiên chàng chợt nghĩ ra, cúi xuống nhặt một cây trường mâu, nhắc nhắc thử, thấy thật nặng nề, phải đến bốn chục cân, nói:

– Số thuốc nổ này xem ra có thể phá vỡ tảng đá cứu mình thoát hiểm được.

Tiểu Siêu vỗ tay reo lên:

– Hay lắm, hay lắm.

Khi nàng vỗ tay, tiếng xích ở cổ tay chạm nhau kêu leng keng. Trương Vô Kỵ nói:

– Sợi xích này vướng chân vướng tay, giựt đứt nó đi cho rồi.

Tiểu Siêu sợ hãi nói:

– Không, không được đâu. Lão gia sẽ giận lắm đó.

Trương Vô Kỵ nói:

– Cô cứ nói là tôi bẻ gãy, tôi không sợ ông ta bực mình đâu.

Nói xong chàng cầm hai đầu xích, dụng kình giựt ra. Sợi xích đó vốn chỉ nhỏ bằng cây đũa, sức kéo của chàng phải đến ba bốn trăm cân, nhưng chỉ kêu coong một tiếng, dây xích chấn động nhưng vẫn y nguyên không đứt.

Chàng hừ một tiếng, hít một hơi dài, tăng thêm kình lực, nhưng sợi dây xích cũng vẫn không hề hấn gì. Tiểu Siêu nói:

– Sợi dây xích này thật là lạ lùng, không phải bảo đao lợi kiếm thì không làm gì được đâu. Chìa khóa do tiểu thư giữ.

Trương Vô Kỵ gật đầu:

– Nếu mình ra khỏi nơi đây, tôi sẽ bảo cô ta mở khóa cho cô.

Tiểu Siêu nói:

– Chỉ sợ cô ấy không chịu đưa.

Trương Vô Kỵ nói:

– Tôi với cô ta có giao tình không phải tầm thường, cô ấy thể nào cũng đưa cho tôi.

Nói rồi chàng cầm cây trường mâu, đến bên dưới tảng đá, đứng nghe ngóng một lát, không nghe tiếng hô hấp của Viên Chân, chắc y đã đi xa rồi. Tiểu Siêu giơ cao mồi lửa, đứng bên cạnh soi cho chàng. Trương Vô Kỵ nói:

– Một lần chắc không vỡ được đâu, chắc phải làm vài lần.

Chàng vận sức vào cánh tay đục một cái lỗ cạnh tảng đá và vách hang. Tiểu Siêu đem hỏa dược tới, Trương Vô Kỵ liền nhồi vào trong cái lỗ đó, xoay chiếc giáo lại, dùng cán giáo lèn cho chặt, lại làm một sợi dây dẫn kéo dài tới bên trong căn phòng đá. Chàng cầm lấy cây đuốc trong tay Tiểu Siêu, cô gái liền lấy tay bịt chặt tai lại. Trương Vô Kỵ tiến ra trước che cho cô, cúi xuống châm ngòi đốm lửa liền theo đường dây chạy đi.

Chỉ nghe một tiếng ầm thật lớn, một làn hơi nóng ép thốc vào, đẩy chàng lùi lại hai bước, Tiểu Siêu cũng ngã chúi xuống. Chàng đã đề phòng trước, giơ tay đỡ ngang lưng cô ta. Trong thạch thất khói bụi bay mù mịt, cây đuốc cũng bị thổi tắt ngúm. Trương Vô Kỵ hỏi:

– Tiểu Siêu, cô không sao chứ?

Tiểu Siêu ngập ngừng một hồi, nói:

– Cháu … cháu không sao cả.

Trương Vô Kỵ nghe cô giọng có vẻ nghẹn ngào, hơi lấy làm lạ, đến khi đốt lửa lên, thấy cô rưng rưng nước mắt, liền hỏi:

– Sao thế? Cô khó chịu trong người ư?

Tiểu Siêu nói:

– Trương công tử, công tử … công tử không biết cháu là ai, sao đối với cháu tốt thế?

Trương Vô Kỵ lạ lùng:

– Thế là sao?

Tiểu Siêu nói:

– Sao công tử lại che ở trước mặt cháu? Cháu chỉ là một đứa nô tì hèn hạ, còn công tử … tấm thân nghìn vàng, sao lại đứng chắn cho cháu?

Trương Vô Kỵ mỉm cười, nói:

– Tôi có quí trọng gì đâu? Cô là một cô gái nhỏ, tôi tự nhiên phải che chở cho cô.

Đến khi khói bụi tan hết, chàng đi trở lại sườn hang, thấy tảng đá kia chẳng hề hấn gì, vẫn sừng sững như cũ, chỉ vạt đi một góc nhỏ. Trương Vô Kỵ hơi thất vọng nói:

– Chỉ sợ phải đến bảy tám lần thì mình mới qua được. Thế nhưng thuốc nổ chỉ còn dùng được nhiều lắm là hai lần nữa thôi.

Chàng lại cầm cây mâu lên, đục lỗ trên tảng đá. Đào được mấy nhát, vô tình đâm cây mâu vào vách đá, đột nhiên một cục đá to bằng cái đấu rơi ra, hở thành một cái lỗ. Chàng vừa mừng vừa sợ, thò tay vào, móc những đá chung quanh lắc mấy cái, thấy hơi nhúc nhích, vội sử kình giựt ra, lại thêm một tảng đá khác tuột xuống. Chàng moi ra được bốn cục đá vuông vức chừng một thước thì cái hang đã đủ để chui vào. Thì ra phía bên kia của đường hầm này có một lối đi, vừa rồi thuốc nổ tảng đá lớn, đã làm cho tường chấn động khiến những tảng đá rời ra. Cái miệng hang bịt bằng đá hoa cương, từng khối lớn bằng cái đấu.

Trương Vô Kỵ cầm bó đuối chui qua trước rồi gọi Tiểu Siêu đi theo. Đường hầm này cũng theo hình trôn ốc đi xuống, nhưng chàng đã khôn ngoan hơn, cầm cây mâu chĩa ra đằng trước, đề phòng Viên Chân ám toán lần nữa. Đi khoảng bốn năm chục trượng, đến một cửa đá. Chàng đưa cây mâu và bó đuốc cho Tiểu Siêu, vận kình đẩy cánh cửa, mở ra một căn phòng nữa.

Gian phòng này rất lớn, trên đỉnh có thạch nhũ rỏ xuống, đúng là một thạch động thiên nhiên. Chàng cầm bó đuối soi qua mấy vòng, bỗng thấy dưới đất hai bộ xương người chết. Y phục trên hai tàn cốt này chưa rã hết, nhìn kỹ là một người đàn ông, một người đàn bà.

Tiểu Siêu sợ hãi, nép vào bên cạnh Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ giơ cao ngọn đuốc, tra xét căn phòng thêm một lần nữa, nói:

– Chỗ này xem chừng là tận cùng rồi, không biết có tìm được đường ra không?

Chàng cầm cây mâu, gõ vào các bức vách, chỗ nào cũng thấy bình bịch nặng nề không thấy chỗ nào có vẻ rỗng. Chàng đến gần hai bộ xương người, thấy tay người đàn bà cầm một con dao găm sáng loáng, đâm vào ngực mình. Chàng hơi ngạc nhiên, nghĩ đến câu chuyện Viên Chân kể. Viên Chân và Dương phu nhân lén gặp nhau trong bí đạo, bị Dương Đính Thiên bắt gặp. Dương Đính Thiên phẫn uất, tẩu hỏa chết, Dương phu nhân liền dùng chủy thủ tự vẫn chết theo chồng. “Không lẽ hai người này là vợ chồng Dương Đính Thiên chăng?”. Chàng đến gần bộ xương người đàn ông, thấy bên cạnh nơi xương bàn tay có một miếng da dê.

Trương Vô Kỵ nhặt miếng da lên xem, chỉ thấy một bên có lông, một bên nhẵn thín, không có gì đặc biệt. Tiểu Siêu cầm lấy miếng da, vẻ mặt vui mừng, kêu lên:

– Chúc mừng công tử, đây là tâm pháp võ công cao cấp nhất của Minh giáo.

Nói xong thò ngón tay trỏ bàn tay trái quẹt vào con dao chủy thủ trên ngực Dương phu nhân một cái, cắt một đường nhỏ, lấy máu bôi lên trên tấm da, liền từ từ hiện lên, hàng đầu tiên gồm mười một chữ viết: Minh Giáo Thánh Hỏa Tâm Pháp: Càn Khôn Đại Na Di.

Trương Vô Kỵ vô tình tìm được võ công tâm pháp của Minh giáo nhưng không lấy gì vui, nghĩ thầm: “Trong đường hầm này không nước, không gạo, nếu không ra khỏi nơi đây, cùng lắm được bảy tám ngày, ta và Tiểu Siêu cũng chết đói chết khát thôi. Dù có học võ công cao đến mấy thì cũng đành vô dụng”.

Chàng nhìn hai bộ xương, nghĩ tiếp: “Gã Viên Chân kia sao không lấy luôn bộ tâm pháp Càn Khôn Đại Na Di này luôn? Có lẽ sau khi y gặp phải chuyện đau đớn kia rồi, không bao giờ còn dám quay lại nhìn xác vợ chồng Dương Đính Thiên nữa. Chắc y cũng không biết mảnh da dê này có chép tâm pháp võ công, nếu không thì chẳng nói gì vợ chồng họ Dương đã chết rồi, mà dù còn sống, y cũng tìm cách lấy cắp”. Chàng quay lại hỏi Tiểu Siêu:

– Sao cô lại biết được bí mật của tấm da dê này?

Tiểu Siêu cúi đầu đáp:

– Khi lão gia nói chuyện với tiểu thư cháu có nghe lén được. Hai người là giáo đồ Minh giáo, không dám vi phạm giáo qui, đi xuống dưới bí đạo này tìm kiếm.

Trương Vô Kỵ nhìn hai bộ xương trắng, hơi thấy cảm khái, nói:

– Mình chôn họ đi vậy.

Hai người gom đất đá chung quanh lại vun vào một chỗ rồi đắp lên xác hai vợ chồng Dương Đính Thiên. Tiểu Siêu bỗng cầm một vật bên cạnh tàn cốt Dương Đính Thiên lên nói:

– Trương công tử, ở đây có một phong thư.

Trương Vô Kỵ cầm lấy xem qua, thấy trên bao thư có viết mấy chữ “Phu nhân thân khải”[1] bốn chữ. Vì đã lâu ngày, phong bì đã mục nát nên bốn chữ kia cũng đã bị tàn khuyết, nhưng vẫn còn nhìn thấy nét bút rắn rỏi toát ra một vẻ mạnh mẽ. Phong bì được dán kỹ, dấu xi khằn vẫn còn nguyên. Trương Vô Kỵ nói:

– Dương phu nhân chưa kịp mở thư ra xem đã tự sát chết rồi.

Chàng cung kính đặt bao thư vào trong đống tàn cốt của hai người, đang định lấy đất đá vùi lên, Tiểu Siêu nói:

– Mở ra xem thử nào? Không chừng Dương giáo chủ có dặn dò chuyện gì.

Trương Vô Kỵ đáp:

– Làm thế e rằng bất kính.

Tiểu Siêu nói:

– Nếu như Dương giáo chủ có tâm nguyện gì chưa thành, công tử chuyển cáo lại cho lão gia và tiểu thư, để họ theo lời Dương giáo chủ thực hiện, chẳng hay hơn ư?

Trương Vô Kỵ thấy vậy cũng phải liền nhẹ nhàng mở phong bì, lấy ra một tờ giấy lụa trắng thật mỏng, trên đó có viết:

Phu nhân yêu quí:

Phu nhân từ khi về nhà họ Dương, ngày đêm u uất. Ta thô lỗ kém đức, không đủ cho phu nhân vui lòng, thật là có lỗi lắm vậy. Nay đã đến lúc vĩnh biệt, mong phu nhân lượng thứ cho.

Y giáo chủ đời thứ ba mươi hai có di mệnh rằng, khi nào ta luyện thành Càn Khôn Đại Na Di thần công, hãy dẫn các anh em đi qua tổng giáo bên Ba Tư, tìm cách nghênh đón thánh hỏa lệnh về. Bản giáo tuy phát nguyên từ Ba Tư, nhưng đã mọc rễ nơi Trung Hoa, thêm cành tỏa lá đã mấy trăm năm nay rồi. Nay Thát tử chiếm trung thổ của ta, bản giáo thề nhất định tới cùng, quyết không tuân lệnh vô lý từ tổng giáo Ba Tư, chịu cúi đầu nhận kẻ Mông Nguyên làm chủ. Thánh hỏa lệnh nếu về lại tay ta rồi, Minh giáo Trung Hoa lập tức có thể đứng ngang hàng với tổng giáo Ba Tư ngay.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Thì ra tổng giáo Minh giáo ở tại nước Ba Tư. Y giáo chủ và Dương giáo chủ không chịu tuân lệnh tổng giáo hàng phục Nguyên triều, thực là những hảo hán tử rất khí khái”. Chàng trong lòng đối với Minh giáo thêm vài phần khâm phục, lại đọc tiếp xuống dưới:

Hôm nay ta sơ thành thần công bậc thứ tư, lại biết được chuyện Thành Côn, huyết khí trào lên không sao tự chế được, chân lực tán hết, biết đã đến lúc trở về rồi. Ý trời như thế, mệnh ta như thế, biết làm sao hơn?

Trương Vô Kỵ đọc đến đây, thở dài một tiếng nói:

– Thì ra khi Dương giáo chủ viết lá thư này, đã biết chuyện Dương phu nhân cùng Thành Côn lén gặp nhau nơi bí đạo.

Chàng thấy Tiểu Siêu ngập ngừng dường như muốn hỏi chuyện gì nhưng không dám mở miệng, liền đem chuyện vợ chồng Dương Đính Thiên và Thành Côn thuật sơ qua. Tiểu Siêu nói:

– Cháu thấy chuyện này là do Dương phu nhân không nên không phải. Nếu bà ta trong lòng còn nghĩ đến Thành Côn thì đừng lấy Dương giáo chủ làm gì, còn nếu đã lấy Dương giáo chủ, thì không nên lén gặp lại Thành Côn.

Trương Vô Kỵ gật đầu, nghĩ thầm: “Cô này còn bé như thế nhưng đã hiểu biết”. Chàng đọc tiếp xuống dưới:

Nay mệnh ta chỉ còn sớm tối, phụ lòng Y giáo chủ trọng thác, thực là kẻ có tội của bản giáo. Vậy phu nhân cầm lá thư do chính ta viết này, chiêu tụ tả hữu Quang Minh sứ giả, bốn đại Hộ Giáo pháp vương, Ngũ Hành Kỳ sứ, Ngũ Tản Nhân truyền di mệnh của ta như sau:

Bất luận ai thu hồi được thánh hỏa lệnh về thì được làm giáo chủ đời thứ ba mươi bốn của bản giáo. Kẻ nào không phục giết đi không tha. Ra lệnh cho Tạ Tốn tạm nhận chức vụ Phó giáo chủ, xử phân các việc trọng đại trong bản giáo.

Trương Vô Kỵ lòng chấn động, nghĩ thầm: “Hóa ra Dương giáo chủ đã chỉ định nghĩa phụ ta tạm nhiếp chức vụ phó giáo chủ. Nghĩa phụ ta văn võ toàn tài, Dương giáo chủ chết rồi, ông ta là nhân vật kiệt hiệt nhất của Minh giáo. Tiếc rằng Dương phu nhân không đọc lá thư này, nếu không Minh giáo không đến nỗi tàn sát lẫn nhau, long trời lở đất như thế”. Chàng thấy Dương Đính Thiên coi trọng Tạ Tốn như thế, lòng thật vui mừng, nhưng cũng không khỏi thương cảm, xuất thần một hồi rồi lại đọc tiếp:

Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp tạm do Tạ Tốn tiếp chưởng, sau này sẽ chuyển lại cho tân giáo chủ. Làm rạng rỡ tôn giáo của chúng ta, đuổi quân Hồ Lỗ ra khỏi bờ cõi, làm điều lành, trừ điều ác, giúp chuyện ngay, chống kẻ gian, mong các đấng minh tôn thánh hỏa phổ huệ thiên hạ thế nhân là điều tân giáo chủ phải cố mà làm.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Cứ theo di mệnh của Dương giáo chủ mà xem, tông chỉ của Minh giáo thật là chính đại. Các đại môn phái cứ khư khư giữ lấy quan niệm của môn hộ, không ngừng làm khó dễ Minh giáo, quả thực không phải chút nào”. Chàng lại đọc tiếp tờ di thư:

Ta đem công lực còn sót lại trong mình, đóng cửa đá lại ở cùng Thành Côn trong đường hầm này, còn phu nhân cứ theo bản đồ bí đạo mà thoát ra. Đương thế không có người thứ hai nào có thần công Càn Khôn Đại Na Di, thì cũng không ai có thể đẩy được cái cửa đá nằm ở vị trí Vô Vọng. Đợi đến khi hào kiệt hậu thế luyện được rồi, tàn cốt của ta và Thành Côn cũng đã mục nát.

Đính Thiên cẩn bạch.

Sau cùng là một hàng chữ nhỏ:

Ta tên là Đính Thiên, ở trên đời không làm được công nghiệp gì, đối với bản giáo không làm tròn nhiệm vụ, làm đau lòng phu nhân, ôm mối hận chết đi, vậy mà dám cuồng ngôn đội trời đạp đất[2], thật đáng chê cười.

Ở phía sau bức thư là một bản đồ bí đạo, ghi rõ các nơi ngõ ngách và cửa nẻo. Trương Vô Kỵ mừng quá, nói:

– Dương giáo chủ vẫn tưởng sẽ tự giam mình chung với Thành Côn trong đường hầm này, hai người cùng chết, nào ngờ ông ta tính không đến nơi đến chốn, chết sớm quá, để cho gã Thành Côn kia thung dung cho tới tận hôm nay. Cũng may mình có bức bản đồ này có thể kiếm được lối ra.

Tại bức địa đồ, chàng kiếm đúng chỗ mình đang đứng, tra xét lại thì có khác nào bị một thùng nước lạnh dội từ đầu trở xuống, thì ra lối thoát duy nhất, chính là lối mà Thành Côn dùng đá lấp mất rồi, thành ra dù có hay không có bức toàn đồ cũng thế thôi. Tiểu Siêu nói:

– Công tử đừng vội nản lòng, có thể có lối khác không chừng.

Cô ta cầm lấy tấm bản đồ, cúi đầu xem kỹ, thấy bản đồ vẽ thật rành rọt, đúng là ngoài lối đó ra không còn đường nào khác. Trương Vô Kỵ thấy nàng lộ vẻ thất vọng, cười gượng:

– Di thư của Dương giáo chủ có nói rõ, nếu ai luyện thành thần công Càn Khôn Đại Na Di, thì có thể đẩy được cánh cửa đá mà ra. Trên đời bây giờ ngoài Dương Tiêu tiên sinh ra, không ai luyện qua môn này cả. Thế nhưng ông ta công lực còn non, dẫu có ở nơi đây cũng chưa chắc đã làm được việc gì. Hơn nữa, mình cũng không biết hướng Vô Vọng là ở chỗ nào, trên bản đồ không ghi rõ, thì làm cách nào mà tìm?

Tiểu Siêu nói:

– Vô Vọng ư? Đó là phương vị của một trong sáu mươi tư quẻ của Phục Hi, Càn chấm dứt ở cung Ngọ, Khôn chấm dứt ở cung Tý, Dương ở phương Nam, Âm tại phương Bắc. Vô Vọng nằm giữa hai vị trí Minh Di và Tùy.

Nàng nói xong liền ở trong thạch thất phân chia phương vị, đi đến góc phía tây bắc, nói:

– Ở tại nơi đây.

Trương Vô Kỵ thấy lên tinh thần, nói:

– Có thật không?

Chàng liền chạy đến đường hầm chứa binh khí, lấy một cây đại phủ về, cạo sạch những đất cát bám trên tường, quả nhiên có dấu của một cánh cửa, nghĩ thầm: “Ta tuy không biết phép tắc trong Càn Khôn Đại Na Di, nhưng luyện Cửu Dương thần công đã thành, uy lực chưa chắc đã kém gì môn này”. Nghĩ thế bèn tụ khí vào đan điền, kình lực vận lên hai cánh tay, hai chân xoải ra thành cung tiễn bộ[3], từ từ đẩy ra. Chàng đẩy một hồi lâu, thạch môn trước sau vẫn không nhúc nhích. Bất luận hai tay chàng đổi kiểu nào, vận chân khí cách nào, tới khi hai tay mỏi nhừ, xương cốt cơ thể kêu lục cục, cái cửa đá đó vẫn trơ trơ tưởng như liền với bức tường là một, chẳng di động được một phân.

Tiểu Siêu khuyên:

– Trương công tử, đừng thử thêm nữa, để cháu đem hỏa dược lại xem thế nào.

Trương Vô Kỵ vui mừng nói:

– Hay lắm, tôi quên mất là mình có thuốc súng.

Hai người đem tất cả nửa thùng thuốc súng nhồi vào thạch môn rồi đốt dây dẫn hỏa. Sau tiếng nổ, cánh cửa đá bị vạt vào đến bảy tám thước nhưng vẫn không thấy đường hầm đâu, xem ra tảng đá này bề dày còn hơn cả bề rộng.

Trương Vô Kỵ hơi cảm thấy ân hận, cầm tay Tiểu Siêu, dịu dàng nói:

– Tiểu Siêu, toàn là do tôi cả, làm cho cô cũng bị giam nơi đây không ra được.

Tiểu Siêu đưa đôi mắt trong suốt nhìn thẳng vào mặt chàng nói:

– Trương công tử, công tử phải trách cháu mới phải, nếu như cháu không dẫn công tử vào … thì đâu đến nỗi … đến nỗi …

Nói đến đây, cô gái giơ tay áo gạt lệ, một hồi sau, bỗng dưng cười khanh khách, nói:

– Nếu mình không ra được thì buồn lo cũng có ích gì. Để cháu hát cho công tử nghe một bài, được không?

Trương Vô Kỵ còn lòng dạ nào mà nghe hát, nhưng không nỡ làm nàng cụt hứng, mỉm cười nói:

– Thế thì hay lắm.

Tiểu Siêu ngồi xuống bên cạnh chàng, cất tiếng hát:

Nhân sinh lý lẽ ai ơi,

Làm người cốt được thảnh thơi đủ rồi.

Ai ai cũng có thời thăng giáng,

Chẳng một ai chỉ xuống không lên.

Trong may có rủi kề bên,

Rủi kia cũng sẵn có hên ẩn tàng.

Trương Vô Kỵ nghe đến câu: “Cát tàng hung, hung tàng cát” lại nghĩ đến thân phận mình, quả đúng như thế, thấy giọng nàng trong trẻo dễ nghe, lên cao xuống thấp thật uyển chuyển, bao nhiêu buồn phiền giảm hẳn. Cô gái lại hát tiếp:

Giàu sang đâu hẳn giàu sang mãi,

Trời chói chang có lúc xế chiều.

Trăng kia sáng mãi bao giờ,

Tròn rồi lại khuyết đầy chờ khi vơi.

Đất thoai thoải đông nam một cõi,

Vòi vọi nghiêng tây bắc trời cao.

Dù cho thiên địa nhường bao,

Cũng chưa toàn vẹn làm sao con người.

Trương Vô Kỵ nói:

– Tiểu Siêu, cô hát nghe hay quá, bài hát này ở đâu vậy?

Tiểu Siêu cười đáp:

– Công tử nói đùa, cháu hát có gì đâu mà hay? Cháu nghe người ta hát, nên nhớ được vài câu, cũng chẳng biết của ai làm nữa.

Trương Vô Kỵ nghĩ đến câu “Thiên địa thướng vô hoàn thể” nên tấm tắc khen bài hát. Tiểu Siêu hỏi:

– Công tử có thích nghe hát thật không? Hay chỉ nói giả vờ?

Trương Vô Kỵ cười:

– Thích hay không thích nghe lại còn giả hay thật gì nữa? Lẽ dĩ nhiên là thật rồi.

Tiểu Siêu nói:

– Hay lắm. Để cháu hát thêm một bài nữa nhé?

Cô ta lấy tay vỗ lên trên đá làm nhịp, hát thêm:

Chớ nên cau mặt nhíu mày,

Cũng đừng tranh cãi để cầu hơn ai.

Mặt hoa da phấn hôm nay,

Già hơn bữa trước một ngày còn chi?

Xuân qua đông lại tới thì,

Từ xưa vẫn thế có gì khác đâu.

Dù cho khôn khéo sang giàu,

Nghèo hèn ngu độn cũng đều như nhau.

Cõi trần kẻ trước người sau,

Cuối cùng cũng đến cái cầu xuôi tay.

Hôm nay chỉ biết hôm nay,

Trăm năm thấm thoát đã hay một đời.

Mấy ai thọ được bảy mươi,

Thời gian như nước chảy xuôi qua cầu.

Bài hát ý tứ mênh mang, hiển nhiên người làm ra cũng đã nhiều kinh lịch, biết rõ bụng dạ nhân tình, ở miệng một cô gái đang tuổi hoa niên hát ra xem chừng không xứng, đúng là cô ta nghe người khác hát rồi thuộc lòng. Trương Vô Kỵ tuổi tuy còn trẻ nhưng mười năm qua cũng đã nếm đủ mùi gian khổ rồi, hôm nay bị kẹt trong giữa lòng núi, trước mắt thấy không còn đường sống nhẩm lại hai câu: “Cõi trần kẻ trước người sau, Cuối cùng cũng đến cái cầu xuôi tay” không khỏi trùng lòng. Cái cầu xuôi tay hẳn là ngày từ giã cõi đời. Chàng đã nhiều lần lâm vào cảnh sinh tử quan đầu, nhưng trước đây chỉ có hai đường, sống hay chết, không liên lụy đến ai, lần này lại kéo thêm cô bé Tiểu Siêu, rồi chuyện tồn vong của Minh giáo, an nguy của Dương Tiêu, Dương Bất Hối và bao nhiêu người khác, cái thâm cừu giữa nghĩa phụ và Viên Chân, đều có ít nhiều liên quan đến chàng, nên không đành lòng mà chịu chết.

Chàng đứng lên đến đẩy cái cửa đá lần nữa, thấy chân khí trong cơ thể lưu chuyển, tưởng như trong người tích súc một luồng lực khí vô cùng vô tận, nhưng tắc tị không thể sử dụng được, khác nào cơn lũ lụt cuồn cuộn trên sông bị hai bờ đê chặn lại, không thể nào vượt qua.

Chàng thử ba lần không xong đành chịu thúc thủ. Bỗng thấy Tiểu Siêu lại cắt đầu ngón tay, lấy máu tươi tô lên miếng da dê, nói:

– Trương công tử, công tử thử luyện Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp xem sao? Biết đâu công tử thông minh hơn người, tập một lần là được.

Trương Vô Kỵ cười đáp:

– Các giáo chủ tiền nhiệm của Minh giáo luyện suốt cả đời nhưng cũng chưa ai thành công. Các vị đó đã làm giáo chủ, tài trí ắt phải trác tuyệt hơn người, tôi chỉ trong sớm tối làm sao có thể hơn họ được?

Tiểu Siêu lại cúi đầu hát:

Hôm nay chỉ biết hôm nay,

Trăm năm thấm thoát đã hay một đời.

Công tử cứ luyện thêm được lúc nào hay lúc nấy.

Trương Vô Kỵ mỉm cười, đón lấy miếng da dê, miệng nhẩm đọc, thấy viết trên mảnh da này toàn là cách vận hành chân khí, cùng các pháp môn di cung sử kình. Chàng theo đó làm thử, không phí chút hơi sức nào đã làm được ngay. Trên miếng da viết tiếp:

Đây là tâm pháp cấp thứ nhất, người ngộ tính cao thì bảy năm có thể luyện thành, người kém một chút thì phải mất mười bốn năm.

Chàng lấy làm lạ: “Cái này có khó khăn gì đâu? Sao lại phải luyện tới bảy năm mới xong?”.

Chàng xem tiếp xuống tâm pháp cấp thứ hai, theo đó mà làm, chỉ một lát là chân khí quán thông, trong mười đầu ngón tay, tưởng chừng như có hơi lạnh vọt ra. Trong đó lại có ghi chú:

Cấp thứ hai, người ngộ tính cao thì bảy năm có thể luyện thành, người kém một chút thì phải mất mười bốn năm. Nếu tới năm thứ hai mươi mốt mà không tiến triển, không được luyện sang cấp thứ ba, để phòng tẩu hỏa nhập ma, không cách nào cứu được.

Chàng vừa mừng vừa sợ, liền coi tiếp xuống cấp thứ ba. Lúc này những hàng chữ đã mờ, chàng đang định lấy chủy thủ cắt ngón tay thì Tiểu Siêu đã lấy máu mình xoa lên mảnh da dê trước. Trương Vô Kỵ vừa đọc vừa luyện theo, tầng thứ ba rồi tầng số bốn, đi đến đâu thông đến đó luyện được ngay chẳng khác gì chẻ tre.

Tiểu Siêu thấy mặt chàng một nửa bên đỏ như máu, nửa bên kia lại xanh lè, trong lòng hơi hãi sợ, nhưng thấy chàng thần định khí túc, hai mắt sáng lấp lánh, nên cũng yên tâm. Đến khi chàng đọc tiếp luyện tâm pháp qua cấp thứ năm, mặt chàng lúc xanh lúc đỏ. Khi mặt màu xanh thì thân thể hơi run như ở trong đá lạnh, còn khi mặt đỏ thì mồ hôi vã ra như mưa.

Tiểu Siêu lấy khăn tay ra, đưa lên định lau mồ hôi trán cho chàng, đột nhiên tay giật mạnh một cái, thân hình ngả qua một bên như muốn ngã ngửa. Trương Vô Kỵ đứng lên, giơ tay áo lau mồ hôi, trong nhất thời chẳng hiểu tại sao, nhưng cũng biết rằng cấp tâm pháp thứ năm chàng đã luyện xong rồi.

Thì ra môn Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp này vốn là một phương thức vận kình sử lực rất là xảo diệu, căn bản đạo lý là làm thế nào phát huy tối đa cái tiềm lực trong cơ thể của mỗi người. Trong bất cứ ai cũng có một tiềm lực thật to lớn, nhưng bình thời không sử dụng được mà thôi. Chỉ khi nào gặp chuyện khẩn cấp, chẳng hạn như cháy nhà mới thấy một người sức trói gà không chặt cũng có thể vác cả nghìn cân. Trương Vô Kỵ luyện xong Cửu Dương thần công rồi, lực đạo súc tích trong người hiện nay không ai bì kịp, có điều chưa được minh sư chỉ điểm nên không sử dụng được. Bây giờ chàng học được Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp, sức lực trong người như hồng thủy trào lên, không có gì có thể chế ngự nổi.

Môn tâm pháp này sở dĩ khó mà luyện cho thành công, chỉ sơ xẩy một chút là tẩu hỏa nhập ma ngay, toàn là do việc vận kình vừa xảo diệu, vừa phức tạp, mà nội lực người luyện công lại chưa đủ hùng hồn để vượt qua. Việc đó cũng không khác gì đưa cho một đứa trẻ bảy tám tuổi múa một chiếc búa nặng hàng trăm cân, trùy pháp càng tinh vi áo diệu, thì càng dễ đưa đến chỗ tự đánh vào mình vỡ đầu chảy máu. Thế nhưng nếu người sử dụng cái búa là một đại lực sĩ thì lại không sao cả. Những người luyện môn tâm pháp này trước đây, chỉ vì nội lực hữu hạn, miễn cưỡng tu luyện, để lâm vào cảnh bụng dạ có thừa mà sức chẳng đủ.

Các vị giáo chủ Minh giáo ngày xưa có mấy ai không hiểu đạo lý này đâu. Thân đã làm đến giáo chủ hẳn chí khí kiên nghị lấp biển dời non, đâu có người nào chịu thua kém ai, mà cũng có ai thấy khó mà bỏ cuộc? Đại phàm võ học cao thủ đều lấy câu châm ngôn “tinh thành sở chí, kim thạch vi khai[4]” nằm lòng, nên người nào cũng hăm hăm hở hở, hết sức tu tập, biết đâu rằng sức người có hạn, chỉ nhất tâm nghĩ rằng “nhân định thắng thiên” để đến nỗi ẩm hận nhi chung.

Trương Vô Kỵ sở dĩ chỉ mất nửa ngày đã luyện xong trong khi nhiều người thông minh tài trí, võ nghệ cao cường hơn chàng nhiều lần, hết sức hết tâm mấy chục năm vẫn không thành công, cái khác nhau cũng chỉ là một bên nội lực có thừa, còn một bên nội lực chưa đủ mà thôi.

Trương Vô Kỵ luyện đến cấp thứ năm rồi, thấy tinh thần lực khí toàn thân chỗ nào cũng có thể chỉ huy như ý muốn, muốn phát là phát, muốn thu là thu, tất cả đều do tâm ý điều khiển được cả, khắp cơ thể, các đốt tiết cảm thấy thật là thoải mái. Lúc này chàng quên cả việc phải đẩy cánh cửa đá, tiếp tục luyện xuống cấp thứ sáu. Chỉ hơn một tiếng đồng hồ sau, chàng đã bước vào cấp thứ bảy.

Cấp thứ bảy này so với cấp thứ sáu áo diệu gấp bội, không có thể hiểu được một cách dễ dàng. Cũng may là chàng tinh thông y đạo, mạch lý, mỗi khi gặp chỗ khó khăn không hiểu, lại đem y lý ra ấn chứng, nên mọi chỗ chàng đều quán thông. Khi luyện được quá nửa rồi, bỗng thấy khí huyết trào lên, tim đập mạnh. Chàng vội định thần, từ đầu luyện lại, cũng bị y như thế. Từ khi chàng luyện cấp thứ nhất tới chỗ này, chưa bao giờ bị tình trạng như vậy. Chàng bỏ qua mấy câu, luyện tiếp xuống dưới, lại thấy thuận lợi, nhưng được vài câu lại gặp trở ngại. Từ đó về sau, trở ngại mỗi lúc một nhiều, tính ra tổng cộng có tất cả mười chín câu không sao luyện được.

Trương Vô Kỵ trầm ngâm một hồi, để tấm da dê lên trên đống đá, cung kính phục xuống, khấu đầu mấy lần, khấn:

– Đệ tử Trương Vô Kỵ, vô tình tìm được thần công tâm pháp của Minh giáo, chỉ vì mong thoát khỏi khốn cảnh tìm đường sống, quả không có bụng ăn cắp bí tịch của quí giáo. Đệ tử sau khi thoát khỏi hiểm cảnh rồi, sẽ nhất quyết đem thần công này tận lực giúp quí giáo, không dám phụ lòng vun đắp và đại ân cứu mạng của liệt đại giáo chủ.

Tiểu Siêu cũng quì xuống lạy mấy lạy, hạ giọng khấn thêm:

– Liệt đại giáo tông ở trên, xin quí ngài phù hộ cho Trương công tử trung hưng Minh giáo, làm sáng tỏ uy danh của liệt tổ.

Trương Vô Kỵ đứng thẳng lên nói:

– Tôi đâu có phải là giáo đồ của Minh giáo, theo lời giáo huấn của thái sư phụ tôi, trong tương lai sẽ không thể nào gia nhập Minh giáo được. Thế nhưng sau khi tôi đọc di thư của Dương giáo chủ rồi, biết được tông chỉ của Minh giáo thật là quang minh chính đại, nên thể nào cũng kiệt tận sở năng, cố giải thích những chỗ hiểu lầm cho các đại môn phái, xin hai bên đừng tranh chấp nữa.

Tiểu Siêu nói:

– Trương công tử, công tử nói còn mười chín câu chưa luyện xong, sao không nghỉ một lát, cho tinh thần sung túc, biết đâu chả luyện được?

Trương Vô Kỵ nói:

– Hôm nay tôi đã luyện thần công Càn Khôn Đại Na Di đến cấp thứ bảy rồi, tuy phải bỏ qua mười chín câu, cũng có chút khuyết điểm thực, nhưng cũng như bài hát của cô mới rồi:

Dù cho thiên địa nhường bao,

Cũng chưa toàn vẹn làm sao con người.

Có lẽ nào tôi không biết đủ, tham lam cốt được thật nhiều? Tôi có phúc trạch công đức gì mà được thần công tâm pháp của Minh giáo? Để lại mười chín câu không luyện, chính là hợp đạo lý đó.

Tiểu Siêu nói:

– Công tử nói phải lắm.

Nàng cầm lấy tấm da dê, hỏi xem Vô Kỵ chỗ nào luyện chưa được, thầm nhẩm lại mấy lần nhớ kỹ mười chín câu đó trong lòng. Trương Vô Kỵ cười hỏi:

– Cô nhớ để làm gì?

Tiểu Siêu má đỏ bừng, nói:

– Chẳng làm gì cả. Cháu thấy công tử mà còn chưa luyện được nên xem thử coi khó đến mức nào.

Có biết đâu Vô Kỵ là người không coi trọng chuyện gì cả, thấy phải dừng là dừng, chính hợp với đạo “tri túc bất nhục” (biết đủ thì không phải chịu nhục) của cổ nhân. Thì ra năm xưa vị cao nhân sáng chế Càn Khôn Đại Na Di này, nội lực tuy mạnh thật, nhưng cũng chưa tới mức mạnh như Cửu Dương thần công nên cũng chỉ tới cấp thứ sáu là hết. Tâm pháp ông ta viết trong cấp thứ bảy, chính ông ta cũng chưa luyện tới, chỉ do thông minh trí tuệ, tưởng tượng và biến hóa ra mà thôi. Mười chín câu Vô Kỵ luyện không thông, toàn là do vị cao nhân tưởng tượng mà thêm vào, tưởng đúng mà thực ra không phải. Nếu Trương Vô Kỵ là người có cái tâm cầu toàn, nhất định phải luyện cho kỳ được mới thôi, ắt sẽ tẩu hỏa nhập ma ở cái cửa ải sau cùng này, chẳng khùng điên si ngốc thì cũng toàn thân bại liệt, có khi còn đứt kinh mạch táng mạng không chừng.

Hai người gom góp đất đá, chôn cất di thể hai vợ chồng Dương Đính Thiên xong mới đi đến trước cánh cửa đá. Lần này Trương Vô Kỵ chỉ cần đưa tay phải, để vào một bên cửa, theo đúng phép vận khí của Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp, hơi sử kình, phiến đá đã kêu kèn kẹt từ từ chuyển động. Chàng vận thêm một phần sức lực nữa, cánh cửa chầm chậm mở ra.

Tiểu Siêu mừng quá, nhảy cẫng lên, vỗ tay khen ngợi, xích sắt ở tay chân chạm vào nhau, lại kêu leng keng liên hồi. Trương Vô Kỵ nói:

– Để tôi bứt sợi dây xích lần nữa xem sao.

Tiểu Siêu cười đáp:

– Lần này chắc là phải được.

Trương Vô Kỵ cầm sợi dây xích nối liền hai cánh tay nàng, vận kình kéo ra, dây xích từ từ dài ra, nhưng vẫn không đứt. Tiểu Siêu kêu lên:

– Ối chao, không ổn rồi. Công tử càng kéo dài chừng nào, thì lại càng bất tiện chừng nấy.

Trương Vô Kỵ lắc đầu:

– Cái dây xích này thật quái lạ, e rằng kéo dài đến mấy chục trượng cũng vẫn chưa đứt.

Thì ra một đời giáo chủ Minh giáo trước đây tìm được một khối vẩn thạch quái dị từ trên trời rơi xuống, trong đó có chứa chất liệu kim khí không như các loại sắt thép khác, các thợ khéo trong Nhuệ Kim Kỳ liền thử đúc binh khí nhưng không xong, nên rèn thành sợi dây xích này. Trương Vô Kỵ thấy Tiểu Siêu ủ rũ nên an ủi cô ta:

– Cô yên tâm, cứ tin rằng tôi thể nào cũng mở được xích này cho cô. Chúng mình bị kẹt trong giữa chừng núi như thế này cũng còn ra được, sá gì một sợi dây xích nhỏ?

Chàng muốn tìm Viên Chân báo cừu, quay trở lại cố đẩy hai tảng đá vạn cân kia, tuy chàng đã luyện thành thần công, hai khối đá bị chàng đẩy có chuyển động, nhưng vẫn không chịu mở ra. Chàng lắc đầu, cùng Tiểu Siêu đi trở lại lối cửa đá.

Khi qua rồi, chàng quay lại đẩy cánh cửa đá lại như cũ, thấy tảng đá này nào có phải là cửa đâu? Thực ra đó chỉ là một khối nham thạch thiên nhiên, dưới dáy có chèn một quả cầu sắt lớn dùng như bản lề. Ngày tháng trôi qua, trái cầu đó hoen rỉ nên khối nham thạch đó khó mà chuyển động. Chàng nghĩ đến năm xưa Minh giáo kiến tạo địa đạo này, sử dụng vô số nhân lực, không biết bao nhiêu năm tháng, bao công phu và tâm huyết.

Chàng tay cầm bản đồ bí đạo theo đúng đường mà đi, tuy ngoắt ngoéo nhiều lối nhưng không phải mất công gì đã thoát ra được.

Vừa ra khỏi đường hầm thấy ánh sáng chói lòa chiếu vào mặt, hai người nhất thời không mở mắt ra được. Qua một lúc sau, mới chầm chậm hé mắt ra, thấy băng tuyết khắp nơi, ánh mặt trời phản lại nên mới càng thêm sáng chói như thế. Tiểu Siêu thổi tắt cây đuốc trên tay, tại bãi tuyết đào một cái lỗ nhỏ chôn cây đuốc xuống, nói:

– Cây đuốc ơi là cây đuốc, đa tạ ngươi chiếu sáng cho Trương công tử và ta ra khỏi đường hầm, nếu không có ngươi thì bọn ta không thể nào làm được cái gì cả.

Trương Vô Kỵ cười ha hả, trong lòng thấy sảng khoái, chợt nghĩ lại: “Thế nhân biết bao nhêu là kẻ vong ân phụ nghĩa, còn tiểu cô nương này đối với một cây củi cũng còn như thế, ắt hẳn là người trung hậu trọng nghĩa”.

Chàng quay nhìn cô mỉm cười, ánh sáng từ băng tuyết hắt lên khuôn mặt cô gái, thấy nàng da dẻ trắng trẻo, mịn màng như ngọc, nên buột miệng khen:

– Tiểu Siêu, cô đẹp quá.

Tiểu Siêu vui mừng nói:

– Trương công tử, công tử không nói dối đấy chứ?

Trương Vô Kỵ nói:

– Cô đừng giả vờ què chân, gù lưng làm thành quái dị nữa, cứ như thế này thì đẹp biết bao.

Tiểu Siêu nói:

– Công tử bảo cháu đừng giả vờ, cháu sẽ không giả vờ nữa. Tiểu thư nếu muốn giết cháu, cháu cũng không giả vờ.

Trương Vô Kỵ nói:

– Nói bậy nào. Cô có làm gì đâu mà đòi giết cô?

Chàng lại nhìn cô ta lần nữa, thấy nàng da dẻ trắng hồng, sống mũi hơi cao hơn so với con gái bình thường, tròng mắt ẩn ẩn màu xanh của biển cả, liền nói:

– Cô là con gái bản địa Tây Vực, có phải không? So với con gái Trung Nguyên chúng tôi, xem có phần đẹp hơn.

Tiểu Siêu hai lông mày hơi nhướng lên, nói:

– Cháu chỉ muốn được giống như con gái Trung Nguyên thôi.

Chọn tập
Bình luận
× sticky