Dương Tiêu hỏi:
– Thế Triệu cô nương đó là ai?
Phạm Dao hỏi lại:
– Đại ca thử đoán xem nào?
Dương Tiêu đáp:
– Chẳng lẽ cô ta là con gái của Sát Hãn Đặc Mục Nhĩ?
Phạm Dao vỗ tay cười:
– Đúng đó, đoán một lần là đúng ngay. Nhữ Dương Vương sinh được một trai một gái, con trai là Khố Khố Đặc Mục Nhĩ, con gái là cô nương đó, tên Mông Cổ của cô ta là Mẫn Mẫn Đặc Mục Nhĩ. Khố Khố Đặc Mục Nhĩ là thế tử của Nhữ Dương Vương, sau này sẽ tập vương tước, còn cô gái được phong làm Thiệu Mẫn quận chúa. Cả hai người con đều hiếu võ, ai cũng giỏi võ công. Hai người lại thích ăn mặc như người Hán, nói tiếng Hán, lại lấy một cái tên Hán, con trai là Vương Bảo Bảo, con gái là Triệu Mẫn. Triệu Mẫn chính là từ tước hiệu Thiệu Mẫn quận chúa mà ra.
Vi Nhất Tiếu cười:
– Hai anh em nhà này kể cũng lạ, một người họ Vương, một người họ Triệu, nếu như là người Hán mình thì tức cười đến chết được.
Phạm Dao nói:
– Thật ra họ đều thuộc họ Đặc Mục Nhĩ, nhưng tên lại để trước, phong tục của phiên bang là như thế. Nhữ Dương Vương Sát Hãn Đặc Mục Nhĩ cũng có tên Hán, ông ta họ Lý.
Nói đến đây cả bốn người cùng cười ồ[3].
Dương Tiêu nói:
– Triệu cô nương dung mạo hình dáng, có thể nói là một mỹ nữ người Hán. Thế nhưng khi nhìn nàng hành sự, tính tình man dã của con gái phiên bang lập tức hiện ra ngay.
Trương Vô Kỵ đến bây giờ mới biết lai lịch của Triệu Mẫn, tuy vẫn biết nàng hẳn là quí nhân trong triều đình nhưng không ngờ lại là quận chúa con gái của vị đại nguyên soái thống lãnh thiên hạ binh mã. Mấy lần chàng đụng độ với cô ta, lần nào cũng bị lép vế không nhiều thì ít, tuy võ công nàng không bằng mình, nhưng mưu lược tâm cơ, biến hóa vô cùng, chàng quyết không phải là địch thủ.
Phạm Dao lại kể tiếp:
– Thuộc hạ vẫn ngầm thám thính, biết Nhữ Dương Vương quyết tâm tiêu diệt hết các môn phái bang hội. Y nghe theo kế của Thành Côn, việc đầu tiên là làm sao tiêu diệt bản giáo. Tôi suy nghĩ rất kỹ, nội bộ của mình đang phân tranh khốc liệt, ngoại địch lại mạnh mẽ như thế, cái họa diệt vong thật ngay trước mắt, muốn tìm cách cứu thì phải làm sao trà trộn vào trong vương phủ, tìm cho ra âm mưu của Nhữ Dương Vương, rồi tùy cơ giải cứu, ngoài cách đó ra, không còn cách nào khác.
Có điều tôi vẫn ngạc nhiên không hiểu được là Thành Côn vốn là sư huynh của Dương giáo chủ phu nhân, lại là sư phụ của Tạ Pháp Vương, vì sao lại đối đầu với bản giáo một cách quyết liệt tàn độc đến thế. Nguyên do bên trong, không thể nào nghĩ ra được, chỉ nghĩ y tham đồ phú quí diệt bản giáo để lập công với triều đình. Tuy những anh em trong bản giáo biết Thành Côn không nhiều nhưng tôi đã gặp y rồi sợ y sẽ nhận ra và mưu tính của tôi sẽ bị bại lộ nên phải nghĩ cách giết y cho được.
Vi Nhất Tiếu nói:
– Đúng là như thế.
Phạm Dao nói tiếp:
– Thế nhưng tên này quả thực giảo hoạt, võ công lại cao siêu, tôi liên tiếp ám toán y ba lần đều không thành công. Lần thứ ba tuy có đâm được y một kiếm, nhưng tôi cũng bị y đánh trúng một chưởng, cũng may mà chạy thoát được không đến nỗi lộ hình tích, nhưng cũng bị trọng thương phải dưỡng bệnh hơn một năm mới khỏi.
Khi đó Nhữ Dương Vương phủ đang toan tính việc tiêu diệt giới giang hồ, tôi nghĩ nếu mình có cải trang thì cũng chỉ được một thời gian. Năm xưa tôi cùng Dương huynh cùng nổi tiếng, trên giang hồ không phải là ít người biết mặt biết tên Tiêu Dao nhị tiên, nếu để lâu thể nào cũng lộ hình tích, đành nghiến răng hủy dung mạo mình, giả làm một đầu đà để tóc, dùng thuốc nhuộm đầu rồi đi sang nước Hoa Thích Tử Mô[4] bên Tây Vực.
Vi Nhất Tiếu lạ lùng hỏi:
– Sang bên Hoa Thích Tử Mô? Đường xa hàng vạn dặm, có liên can gì đến vụ này đâu?
Phạm Dao mỉm cười, đang định trả lời Dương Tiêu đã vỗ tay nói:
– Kế đó hay lắm. Vi huynh, Phạm huynh đệ sang nước Hoa Thích Tử Mô, tìm cách biểu diễn tài năng, các vương công Mông Cổ nhất định thu dụng. Nhữ Dương Vương đang lúc chiêu mộ võ sĩ bốn phương, vua chúa nước Hoa Thích Tử Mô muốn lấy lòng Nhữ Dương Vương thể nào chẳng đưa y sang vương phủ để lập công. Như thế, Phạm huynh đệ thành võ sĩ sắc mục từ bên Hoa Thích Tử Mô cống hiến, dung mạo lại biến đổi rồi, không mở miệng nói năng, Thành Côn dù có tài thánh cũng không nhận ra được.
Vi Nhất Tiếu thở dài một tiếng, nói:
– Dương giáo chủ để Tiêu Dao nhị tiên đứng trên Tứ Đại Pháp Vương, quả thực có mắt. Kế mưu đó Ưng Vương, Bức Vương không thể nào nghĩ ra được.
Phạm Dao đáp:
– Vi huynh khen quá lời. Quả đúng như Dương tả sứ đã liệu, tôi ở Hoa Thích Tử Mô giết sư tử đánh hổ, cũng có chút uy danh, vương công nơi đó liền đưa tôi vào Nhữ Dương Vương phủ. Thế nhưng lúc đó Thành Côn không còn ở trong vương phủ nữa không biết đi đâu.
Dương Tiêu liền thuật sơ qua cho Phạm Dao nghe Thành Côn kết oán với Minh giáo ra sao, lén lên Quang Minh Đính đánh trộm thế nào, rồi gian mưu bị Trương Vô Kỵ nói toạc ra sao, sau đấu nội lực với Ân Dã Vương chết như thế nào.
Phạm Dao nghe xong, ngơ ngẩn xuất thần, mới biết bên trong có nhiều điều uẩn khúc, đứng lên, cung kính nói với Trương Vô Kỵ:
– Giáo chủ, có một chuyện thuộc hạ phải thú tội với giáo chủ.
Trương Vô Kỵ nói:
– Phạm hữu sứ hà tất quá khiêm tốn như thế.
Phạm Dao nói:
– Thuộc hạ đến Nhữ Dương Vương phủ rồi, để làm cho vương gia tin tưởng, tại nơi phố chợ kinh thành Đại Đô này, chính tay đánh chết ba tên hương chủ của bản giáo để cho mọi người biết bản nhân và Minh giáo đã có thù từ trước.
Trương Vô Kỵ không nói gì, nghĩ thầm: “Tàn sát anh em trong bản giáo là một trong năm điều đại cấm kỵ. Dương tả sứ, tứ pháp vương, ngũ hành kỳ các người tranh đoạt chức vị giáo chủ, tuy đánh nhau dữ dội nhưng không ai dám giết anh em trong Minh giáo. Tội này của Phạm hữu sứ thực không nhỏ, nhưng y bản tâm chỉ muốn hộ giáo, chẳng phải vì tư thù, theo lý thì không thể trách phạt y được”. Chàng bèn nói:
– Phạm hữu sứ vì tấm lòng muốn hộ giáo, bản nhân không thể trách cứ được.
Phạm Dao khom mình nói:
– Tạ ơn giáo chủ tha tội.
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Vị Phạm hữu sứ này hành sự tàn nhẫn cũng ít ai dám làm. Y dám rạch lên mặt mình bảy tám nhát dao, nếu có giết vài tên hương chủ trong bản giáo chắc y cũng chẳng coi vào đâu. Minh giáo bị người ta gọi là tà ma ngoại đạo, cũng có nguyên do, không biết làm sao mai này y có thể thay đổi cái tà khí đó được?”.
Phạm Dao thấy Trương Vô Kỵ bề ngoài nói là “không thể trách cứ”, nhưng mặt lại lộ vẻ bất bình, liền giơ tay rút phắt ngay kiếm Dương Tiêu đeo ngang lưng, tay trái vung lên, chặt đứt ngay hai ngón tay phải. Trương Vô Kỵ giật mình hoảng hốt, giơ tay giựt lại thanh kiếm, hỏi:
– Phạm hữu sứ, ông … ông …sao thế?
Phạm Dao đáp:
– Tàn sát anh em vô tội trong bản giáo là một trọng tội. Phạm Dao đại sự chưa thành, không thể tự tận, chặt hai ngón tay trước, ngày sau sẽ chặt cái đầu trên cổ.
Trương Vô Kỵ nói:
– Bản nhân đã tha có cái lỗi cũ của Phạm hữu sứ rồi, sao lại còn phải khổ như thế? Thân đang phải lo nhiệm vụ quan trọng ắt phải tòng quyền. Phạm hữu sứ, chuyện này về sau không đề cập nữa.
Chàng vội lấy kim sang ra rịt vào vết thương cho y, tự xé vạt áo mình băng lại, biết người này tính quật cường, nói năng không thể xúc phạm đến y mà đến vẻ mặt cũng không thể khó chịu. Chàng nghĩ đến đó, sợ y sau này tự vẫn tạ tội thật, y đã vì bản giáo mà phải chịu biết bao nhiêu đắng cay, trong lòng hết sức cảm động, đột nhiên quì xuống, nói:
– Phạm hữu sứ, ông lập đại công cho bản giáo, xin nhận một lạy này. Nếu ông còn tự tàn hại thân thể, ấy là bảo tôi vô đức vô năng, không xứng đáng với nhiệm vụ giáo chủ. Ông còn tự mình đâm một kiếm, tôi sẽ đâm tôi hai kiếm. Tôi tuổi trẻ kiến thức nông cạn, không rõ sự tình thành ra không phân biệt được thế nào là tốt thế nào là xấu.
Phạm Dao, Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu thấy giáo chủ quì xuống cũng lật đật lạy phục dưới đất. Dương Tiêu gạt lệ nói:
– Phạm huynh đệ, ngươi không nên làm như thế. Bản giáo hưng suy toàn ở một mình giáo chủ, giáo chủ đã ra lệnh, ngươi nhất quyết không được vi phạm.
Phạm Dao lạy tạ nói:
– Thuộc hạ hôm nay tỷ kiếm thí chưởng, đối với giáo chủ dĩ nhiên kính phục lắm rồi. Khổ đầu đà tính tính ngang ngạnh, xin giáo chủ tha tội cho.
Trương Vô Kỵ hai tay đỡ y dậy. Chuyện này qua rồi, hai người trong lòng càng hiểu nhau hơn, không còn gì ngăn cách nữa. Phạm Dao lại kể tiếp những chuyện đã thấy đã nghe trong Nhữ Dương Vương phủ.
Nhữ Dương Vương Sát Hãn Đặc Mục Nhĩ thực sự là người có tài dùng binh, tuy nắm binh quyền nhưng triều chính bị kẻ gian chèn ép, lại thêm đương kim hoàng đế hôn ám vô đạo, khiến cho thiên hạ đại loạn, dân tâm công phẫn, toàn nhờ vào công Nhữ Dương Vương đông chinh tây thảo, đánh dẹp nghĩa quân. Thế nhưng diệt xong nơi này thì nơi khác lại nổi lên, không lúc nào yên, Nhữ Dương Vương vì bận chuyện điều binh khiển tướng nên chuyện tiêu diệt các môn phái bang hội phải dẹp qua một bên.
Mấy năm sau, con trai con gái của y khôn lớn, thế tử Khố Khố Đặc Mục Nhĩ theo cha chỉ huy quân, con gái Mẫn Mẫn Đặc Mục Nhĩ thì thống suất võ sĩ Mông Hán, phiên tăng Tây Vực tấn công các môn phái. Thành Côn đứng bên trong ngầm giúp nàng đưa ra sách lược, nhân dịp lục môn phái vây đánh Quang Minh Đính, Triệu Mẫn liền dẫn các đại cao thủ, mưu toan thừa cơ ngư ông đắc lợi, diệt luôn cả Minh giáo lẫn sáu đại môn phái. Việc hạ độc ở Lục Liễu Sơn Trang chính là vì thế mà ra. Có điều khi đó Phạm Dao phụng mệnh bảo vệ Nhữ Dương Vương nên không tham dự chuyến du hành Tây Vực, cho nên mãi về sau mới biết. Phạm Dao cho biết thêm, y ở phủ Nhữ Dương Vương tuy không lộ hình tích nhưng vì từ Tây Vực đến, Triệu Mẫn cũng không cho y tham gia chiến dịch, có lẽ đó cũng là chủ ý của Thành Côn không chừng.
Triệu Mẫn dùng độc dược các phiên tăng hiến cho nàng là Thập Hương Nhuyễn Cân Tán, bỏ vào đồ ăn thức uống của sáu đại môn phái từ Quang Minh Đính trở xuống. Thập Hương Nhuyễn Cân Tán này không sắc, không mùi, bỏ vào nước trà thì ai mà nhận ra cho được? Chất độc dược này một khi phát tác, lập tức toàn thân gân cốt mềm nhũn, một vài ngày sau, tuy có thể hành động như thường nhưng nội lực hoàn toàn không thể phát huy, cho nên các cao thủ của lục đại môn phái viễn chinh Quang Minh Đính chỉ trong vòng một tháng đều bị sa lưới.
Riêng phái Thiếu Lâm thì đoàn người thứ ba do Không Tính chỉ huy kẻ hạ độc sơ xuất bị lộ, hai bên liền giao tranh. Không Tính bị “A Tam” giết chết, những người còn lại không địch nổi Huyền Minh nhị lão, thần tiễn bát hùng cùng bọn “A Đại”, “A Nhị”, “A Tam” nên chết mất hơn chục người, số còn lại thì bị bắt cả.
Sau đó là tiến đánh ngay các cơ sở căn bản của các môn phái, đầu tiên là phái Thiếu Lâm. Chùa Thiếu Lâm phòng vệ nghiêm mật, muốn lẻn vào hạ độc thật không phải dễ, nếu tại các khách điếm nơi thị trấn trên đường đi bỏ thuốc độc thì dễ dàng hơn. Còn không hạ độc thì chỉ có cách lấy thịt đè người, ỷ đông tấn công vào.
Phạm Dao nói tiếp:
– Quận chúa muốn hạ thủ chùa Thiếu Lâm lại e không đủ người nên mới điều từ Đại Đô tới một nhóm tiếp viện, chính là do tôi dẫn đầu, cũng may là đi bắt bọn sư chùa Thiếu Lâm. Phái Thiếu Lâm trước nay vẫn vô lễ với bản giáo, cho chúng nó nếm mùi đau khổ thật không gì sướng bằng. Nếu có đem bọn sư sãi thối tha của chùa Thiếu Lâm giết sạch, khổ đầu đà này cũng chẳng thèm nhíu mày. Giáo chủ, chắc giáo chủ cũng muốn thế phải không? Ha ha.
Dương Tiêu vội cướp lời:
– Huynh đệ, vậy những pho tượng La Hán bị xoay lại cũng là do tay ngươi phải không?
Phạm Dao cười đáp:
– Tôi thấy quận chúa sai người đục mười sáu chữ sau lưng tượng, ý muốn giá họa cho bản giáo, nên lẻn quay trở lại, xoay các tượng La Hán. Đại ca, các người quả thực tinh tế, vậy mà vẫn nhìn thấy được. Khi đó đại ca có nghĩ là tiểu đệ chăng?
Dương Tiêu đáp:
– Bọn ta suy nghĩ rằng bên trong bọn đối đầu, hình như có một vị cao thủ ẩn bên trong duy hộ bản giáo, nhưng đâu có ngờ được rằng đó là hảo huynh đệ cùng hàng với ta hồi xưa.
Cả bốn người cùng cười ha hả. Dương Tiêu liền nói sơ qua cho Phạm Dao nghe, Minh giáo từ nay quyết định làm hòa với các môn phái khác, bỏ hết hiềm khích để cùng chung sức kháng quân Mông Cổ, do đó muốn cứu các cao thủ ra. Phạm Dao nói:
– Địch đông ta ít, chỉ có bốn người mình thật khó mà làm được việc này. Chi bằng đi tìm giải dược của Thập Hương Nhuyễn Cân Tán cho bọn sư sãi thối tha, ni cô khắm khú, cùng bọn mũi bò uống, đợi chúng nó phục hồi công lực rồi cùng xông ra, đánh cho bọn Thát tử trở tay không kịp, sau đó tất cả chạy ra khỏi Đại Đô.
Minh giáo trước nay vẫn thù nghịch với các phái Thiếu Lâm, Võ Đương và danh môn chính phái nên lời ăn tiếng nói của y với lục môn phái chẳng nể nang tí nào. Dương Tiêu cứ nháy mắt với y luôn nhưng Phạm Dao chẳng hề để ý. Trương Vô Kỵ cũng không coi những tiểu tiết đó ra gì, vỗ tay nói:
– Lời của Phạm hữu sứ đúng lắm, nhưng làm sao có được giải dược của Thập Hương Nhuyễn Cân Tán bây giờ?
Phạm Dao nói:
– Tôi trước nay không mở lời, thành thử quận chúa đối với tôi tuy có chút kính nể, nhưng không bao giờ bàn những chuyện quan trọng cả. Chỉ một mình nàng nói, người kia không trả lời nửa câu chẳng mất hứng sao? Huống chi tôi lại từ một tiểu quốc bên Tây Vực sang, nàng ta không coi là kẻ tâm phúc, thành ra giải dược của Thập Hương Nhuyễn Cân Tán ra thế nào tôi không hề hay biết. Tôi chỉ biết là chuyện này trọng đại nên cũng cố gắng để ý. Nếu tôi không nhầm, độc dược và giải được do Huyền Minh nhị lão chia nhau cầm giữ, một kẻ cầm độc dược, một kẻ cầm giải dược, nhưng luôn luôn đổi qua đổi lại.
Dương Tiêu thở dài:
– Cái nàng quận chúa nương nương đó quả thật lắm mưu mẹo, đàn ông con trai bình thường không sao theo kịp. Chẳng lẽ đến cả Huyền Minh nhị lão cô ta cũng chưa tin hẳn hay sao?
Phạm Dao đáp:
– Thứ nhất cô ta không yên tâm, thứ nhì làm như thế càng thêm kỹ càng. Chẳng hạn như mình lúc này định ăn trộm thuốc giải, đâu có biết được đang do Lộc Trượng Khách giữ hay là do Hạc Bút Ông giữ. Hơn nữa, nghe nói thuốc độc và thuốc giải hương vị màu sắc hoàn toàn giống nhau, ngoài người giữ thuốc ra không ai biết được. Người ngoài ăn trộm thuốc giải, không chừng lại lấy nhằm thuốc độc. Thập Hương Nhuyễn Cân Tán lại có một chỗ rất ghê gớm là người trúng phải thuốc độc rồi, gân cốt mềm nhũn không cử động được, thế nhưng nếu uống thêm thuốc độc lần thứ hai, dù chỉ một tí xíu, lập tức máu chạy ngược lên, ngừng thở chết liền không thuốc gì cứu được.
Vi Nhất Tiếu le lưỡi nói:
– Nếu thế thuốc giải không thể nào lấy nhầm được.
Phạm Dao nói:
– Nói thế nhưng cũng không có gì quan trọng. Bọn mình cứ lấy thuốc của cả Huyền Minh nhị lão, kiếm một tên đệ tử tép riu nào của phái Hoa Sơn, Không Động gì đó cho uống thử, nếu y chết thì là thuốc độc, thế có phải tiện không?
Trương Vô Kỵ biết tà tính của y rất nặng, không coi tính mạng người khác ra gì, chỉ mỉm cười nói:
– Cái đó không được. Thế lỡ mình tốn bao nhiêu công sức lại chỉ ăn cắp được toàn là thuốc độc cả thì sao?
Dương Tiêu vỗ đùi nói:
– Giáo chủ nói vậy phải lắm. Đêm hôm qua mình đến quấy rối như thế, chắc làm cho quận chúa sợ lắm rồi, có thể giữ luôn giải dược ngay bên mình. Theo ý tôi, mình phải tra xét rõ ràng xem ai giữ thuốc giải trước đã, sau đó mới tính kế mà làm.
Y trầm ngâm một hồi rồi nói:
– Huynh đệ, Huyền Minh nhị lão kia thích cái gì hơn cả?
Phạm Dao cười đáp:
– Lộc hiếu sắc, Hạc hiếu tửu thế thôi chứ chẳng còn thích gì nữa.
Dương Tiêu bèn hỏi Trương Vô Kỵ:
– Giáo chủ, có loại thuốc gì làm cho người ta gân cốt mềm nhũn, giống như là uống phải Thập Hương Nhuyễn Cân Tán chăng?
Trương Vô Kỵ suy nghĩ một chốc, cười nói:
– Nếu muốn cho toàn thân không còn chút hơi sức nào, mơ mơ màng màng buồn ngủ thì không khó, nhưng dùng cho cao thủ thì chỉ được nửa giờ dược lực sẽ hết, còn để được lâu dài như Thập Hương Nhuyễn Cân Tán thì không có cách nào cả.
Dương Tiêu cười đáp:
– Được nửa giờ cũng đủ rồi. Thuộc hạ có một kế này, không biết có dùng được hay không, nhờ giáo chủ xem thế nào. Nói là kế thực không bõ cười. Phạm huynh đệ làm sao dụ được Hạc Bút Ông đi uống rượu, trong rượu bỏ thuốc giáo chủ chế ra. Sau đó Phạm huynh đệ sẽ giải vờ làm dữ nói là trúng phải Thập Hương Nhuyễn Cân Tán của Hạc Bút Ông, lúc đó giải dược ở trong tay ai là mình biết liền, thừa cơ đoạt lấy đem ra cứu người.
Trương Vô Kỵ nói:
– Kế đó có dùng được hay không, cũng còn tùy tính tình Hạc Bút Ông ra sao mới biết được, Phạm hữu sứ ông thấy sao?
Phạm Dao duyệt lại trong óc từ đầu chí cuối một lần, thấy kế đó tuy giản dị nhưng không có gì sơ hở liền nói:
– Tôi xem kế của Dương đại ca có thể làm. Hạc Bút Ông tính tình độc ác, nhưng mưu mẹo khôn ngoan không bằng Lộc Trượng Khách, nếu giải dược mà ở trong người Hạc Bút Ông, tôi võ công tuy không bằng y nhưng có thể đối phó được.
Dương Tiêu nói:
– Thế nếu giải dược ở trong người Lộc Trượng Khách thì sao?
Phạm Dao nhíu mày nói:
– Nếu thì thì khó thật.
Y đứng thẳng lên, tại bên cạnh ngọn đồi đi qua đi lại, một hồi lâu, bỗng vỗ tay một cái nói:
– Nếu như thế, Lộc Trượng Khách khôn ngoan hơn người, đánh lừa y thể nào y cũng nhìn ra được, chỉ có cách nắm đúng chỗ nhược của y. Nếu mình lấy ra để uy hiếp, y tính nặng nhẹ hơn thiệt, có chịu khuất phục hay không mình chưa biết. Đương nhiên chuyện ngang tàng thế này là chuyện mạo hiểm rất lớn, nhưng ngoài cách này ra không còn cách nào hay hơn.
Dương Tiêu hỏi:
– Lão ta có tâm sự gì vậy? Y già người trẻ bụng, có cái thóp nào huynh đệ nắm được chăng?
Phạm Dao đáp:
– Mùa xuân năm nay, Nhữ Dương Vương nạp thiếp, có mời mấy người chúng tôi đến hoa sảnh ăn tiệc. Nhữ Dương Vương muốn khoe người thiếp của mình xinh đẹp nên sai tân nương ra chuốc rượu. Tôi thấy đôi mắt cú vọ của Lộc Trượng Khách nhìn hau háu, mồm chảy nước dãi, dường như thèm muốn lắm.
Vi Nhất Tiếu hỏi:
– Rồi sau ra sao?
Phạm Dao đáp:
– Sau chẳng sao cả, đây là ái thiếp của vương gia, dù y lớn mật đến mấy, cũng chẳng dám giở trò gì.
Vi Nhất Tiếu nói:
– Chỉ nhìn hau háu thì đâu đã tội vạ gì?
Phạm Dao nói:
– Chẳng tội vạ gì thì mình làm cho thành tội vạ. Chuyện này phải nhờ đến Vi huynh thi triển khinh công, đến cướp ái cơ của Nhữ Dương Vương đem về, vứt vào giường của Lộc Trượng Khách. Cha già dê đó mười phần đến tám chín sẽ nhịn không nổi, thể nào cũng làm láo làm lếu một phen. Nếu y có cố gắng gò cương bờ vực, tôi cũng cứ xông vào phòng, khiến cho y có mồm cũng không cãi được, có rửa cũng không sạch tội, chỉ có nước hai tay dâng giải dược lên thôi.
Dương Tiêu và Vi Nhất Tiếu cùng vỗ tay cười nói:
– Cái kế chặn họng này quả là cao minh. Gã Lộc Trượng Khách kia gian ngoan cách mấy cũng sẽ bị ê mặt.
Trương Vô Kỵ vừa tức cười vừa ngại ngùng nghĩ thầm những người thuộc hạ mình hành sự gian trá âm độc, so với các thủ hạ của Triệu Mẫn cũng chẳng khác gì, chỉ điều một bên thiện, một bên ác, hai bên cách biệt rất xa, lấy gậy ông đập lưng ông, có thể nói là dĩ độc công độc. Chàng nghĩ đến đó cũng thấy yên tâm, mỉm cười nói:
– Chỉ có điều làm lụy đến người ái cơ của Nhữ Dương Vương.
Phạm Dao cười đáp:
– Tôi sẽ xông ngay vào phòng, không để cho Lộc Trượng Khách sơ múi gì, thế là xong.
Sau đó bốn người bàn tính cẩn thận, lấy được giải dược rồi sẽ do Phạm Dao đem vào trong tháp, chia cho cao thủ các phái Thiếu Lâm, Võ Đương uống. Trương Vô Kỵ và Vi Nhất Tiếu ở bên ngoài tiếp ứng, một khi thấy Phạm Dao nổi lửa tại chùa Vạn An, thì cũng đốt nhà dân chúng chung quanh, quần hiệp sẽ thừa cơ náo loạn chạy được ra ngoài. Dương Tiêu sẽ mua ngựa trước, dự bị xe cộ chờ sẵn nơi cửa tây, những người chạy ra sẽ chia nhau lên chạy tới Xương Bình gặp lại. Trương Vô Kỵ nghĩ đến chuyện đốt nhà dân chúng, không khỏi làm liên lụy người vô tội, Dương Tiêu nói:
– Giáo chủ, mọi việc không phải lúc nào cũng hai mặt đều chu toàn. Bọn mình cứu được quần hiệp sáu môn phái ra, mai sau nếu đuổi được Thát tử đó là tạo phúc cho muôn vạn dân lành, hôm nay nếu có phải hại vài trăm gia đình, cái đó cũng không đáng gì.
Bốn người kế sách đã định rồi, chia nhau vào thành lo liệu. Dương Tiêu thì đi lo mua ngựa mua xe, Trương Vô Kỵ điều chế một liều thuốc mê. Để cho bớt mùi thuốc, chàng phải thêm ba loại hương liệu để khi trộn vào rượu rồi, uống vào vẫn thấy thơm ngon. Vi Nhất Tiếu đi ra chợ mua một cái túi vải lớn, chờ trời tối sẽ lẻn vào Nhữ Dương Vương phủ cướp người ái cơ của vương gia.
*
* *
Phạm Dao và Huyền Minh nhị lão vì có nhiệm vụ canh chừng các cao thủ của lục đại môn phái nên đều ở luôn trong chùa Vạn An, còn Triệu Mẫn thì ở trong vương phủ, đến tối mới đánh xe tới chùa học võ. Phạm Dao mang thuốc mê về chùa Vạn An, nghĩ đến hơn hai mươi năm qua Minh giáo chia năm xẻ bảy, bây giờ mới có cơ trung hưng, không uổng công lao mình phải chịu muôn vàn khổ sở, trong lòng cảm thấy bồi hồi. Trương giáo chủ võ công cao cường, lại là người thật là nhân nghĩa khiến ai ai cũng tâm phục nhưng vì thiếu cái tính quyết liệt độc địa, không khỏi có tính mềm yếu đàn bà quả là mỹ trung bất túc.
Y ở bênh cánh tây, còn Huyền Minh nhị lão thì ở tại Bảo Tương tinh xá nơi hậu viện. Bình thời y cũng ngại hai gã này, sợ có khi lộ tẩy nên rất ít giao du, thành thử hai bên ở xa xa nhau, lúc này nghĩ đến việc mời Hạc Bút Ông đi uống rượu mà sao không lộ hình tích quả không phải dễ.
Y nhìn về phía sau chùa thấy mặt trời đang ngả về tây, hơn một nửa của mười ba tầng bảo tháp đã khuất nắng, mái ngói lưu ly trên đỉnh cũng nhạt dần. Y chưa biết phải tính sao, chắp hai tay sau lưng đi lững thững về phía hậu viện, đột nhiên ngửi thấy mùi thịt thật thơm từ hàng hiên đối diện với Bảo Tương tinh xá tỏa ra, chính là nơi ở của Tôn Tam Hủy và Lý Tứ Tồi, hai người trong thần tiễn bát hùng.
Phạm Dao chợt động tâm, đi đến trước sương phòng giơ tay đẩy cửa, mùi thịt liền bay thốc vào mũi. Lý Tứ Tồi đang ngồi xổm dưới đất đang quạt lấy quạt để một cái lò lửa đỏ hồng, trên lò để một cái nồi đất lớn, hương thơm từ đó bay ra. Tôn Tam Hủy thì đang xếp bát dọn đũa, rõ ràng hai tên đang sắp sửa đánh chén.
Hai người thấy khổ đầu đà đẩy cửa bước vào, giật mình kinh hãi, nhìn y mặt mày đăm đăm không khỏi chột dạ. Chúng mới rồi đánh chết một con chó vàng ngoài đường, chặt bốn chân len lén đem về phòng nấu ăn. Chùa Vạn An là chỗ sư sãi thanh tu, ở trong chùa đun thịt chó quả thực không phải. Chuyện này giá như người ngoài nhìn thấy thì cũng không đến nỗi nào nhưng khổ đầu đà này lại là đệ tử nhà Phật, y mà nổi nóng, đánh cho một trận, hai đứa không sao địch lại. Võ công khổ đầu đà đã cao cường, huống chi lại lỗi về phần họ, nếu như bị đòn cũng đáng.
Hai đứa đang phập phồng lo sợ, thấy khổ đầu đà đi đến bên bếp lửa, mở vung ra, nhìn vào rồi hít một hơi dài dường như muốn nói: “Thơm quá, thơm quá!”. Y đột nhiên thò tay vào trong nồi, không kể nước đang sôi sùng sục, nhón lấy một miếng thịt, bỏ vào mồm nhai nhồm nhoàm, chỉ giây lát ăn hết sạch. Y liếm môi xem chừng có vẻ ngon lắm khiến Tôn Lý hai người mừng không để đâu cho hết, vội nói:
– Mời khổ đại sư ngồi xuống đây, ngồi xuống đây. Chúng tôi có biết đâu lão nhân gia cũng thích món thịt cầy.
Khổ đầu đà không ngồi, lại thò tay vào nồi bốc thêm một miếng thịt khác, ngồi chồm hổm ngay bên bếp lửa mà ăn. Tôn Tam Hủy muốn lấy lòng y, rót ngay một bát rượu đem đến. Khổ đầu đà cầm bát rượu lên ực một hơi, đột nhiên nhổ toẹt xuống đất, tay trái đưa lên xua xua nơi mũi, ý nói rượu cay quá, uống không vừa miệng, đứng lên tất tả bước ra khỏi phòng.
Tôn Lý hai người thấy y hầm hầm bỏ đi, lại đâm lo, nhưng chẳng mấy chốc lại thấy y tay cầm một bầu rượu lớn quay lại, lúc ấy mới hoàn hồn, vui mừng nói:
– Đúng vậy, đúng vậy. Rượu của chúng tôi không phải loại ngon, khổ đại sư có mỹ tửu đem tới thì thật còn gì bằng.
Hai người vội vàng dọn bàn xếp bát cung kính mời khổ đầu đà ngồi chỗ thượng thủ, đem thịt chó bày đầy một mâm để ngay trước mặt. Khổ đầu đà võ công thật cao cường, là loại đệ nhất trong đám thủ hạ của Triệu Mẫn, bình thời thần tiễn bát hùng đâu có dám vói cao, hôm nay may sao lại mời được y ăn thịt chó, biết đâu lão nhân gia lại vui lòng truyền cho một hai tuyệt chiêu, thật cả đời dùng không hết.
Khổ đầu đà mở chiếc nút gỗ trên đầu hồ lô, rót ra ba bát. Rượu này màu vàng ánh, đặc sánh như mật ong, vừa rót ra đã bốc lên thơm ngát. Tôn Lý hai người cùng reo lên:
– Rượu ngon quá, ngon quá!
Phạm Dao nghĩ thầm: “Không biết Huyền Minh nhị lão có nhà không, nếu như y đi khỏi chưa về thì phen này mình thật phí công”. Y cầm bát rượu bở vào nồi nước đang sôi, lúc đó thịt chó nấu đã nhừ, hơi bốc lên càng làm mùi rượu thêm nồng. Tôn Lý thèm nhỏ dãi, đang định cầm rượu lên, khổ đầu đà liền giơ tay ra hiệu đừng vội, bảo hai người bỏ rượu vào hâm trước rồi hãy uống. Ba người thay phiên nhau hâm rượu, mùi bốc ra thơm lừng, Hạc Bút Ông chẳng ở trong chùa thì thôi, nếu không thì dù có cách mấy dãy nhà cũng phải ngửi thấy.
Quả nhiên từ bên phía Bảo Tương tinh xá nghe tiếng mở cửa kẹt một cái rồi nghe tiếng Hạc Bút Ông:
– Rượu ngon quá, ngon quá, hà hà.
Y chẳng khách khí gì liền đi qua sân đẩy cửa bước vào, thấy khổ đầu đà và Tôn Lý ba người ngồi bên bếp lửa uống rượu ăn thịt, đang lúc thích chí. Hạc Bút Ông ngạc nhiên cười nói:
– Khổ đại sư, hóa ra ngài cũng thích món này, đâu có ngờ mình lại là chỗ đồng đạo với nhau.
Tôn Lý hai người vội đứng dậy mời:
– Hạc công công, mời ngài ngồi uống vài chén, đây là mỹ tửu của khổ đại sư, chẳng mấy khi có được.
Hạc Bút Ông liền ngồi ngay trước mặt khổ đầu đà, hai người là khách mà làm như chủ ăn uống thật tận tình, còn Tôn Lý thành ra kẻ hầu bưng thịt rót rượu. Bốn người cao hứng ngồi uống một hồi, người nào cũng ngà ngà say. Phạm Dao nghĩ thầm: “Ta hạ thủ là vừa”. Y liền tự rót cho mình một bát đầy, tiện tay để cái bầu rượu nằm xuống. Thì ra y đã khoét rỗng cái nút đậy hồ lô, để bột thuốc Trương Vô Kỵ chế ra vào trong đó, bên ngoài bọc hai lần vải. Bầu rượu nếu để đứng thì bột thuốc không xuống được, bốn người chỉ uống rượu bình thường nhưng một khi để nằm xuống, rượu ngấm qua lần vải làm tan thuốc, rượu trong bình nay biến thành rượu độc. Đáy bầu vốn tròn, để đứng để nằm chẳng ai để ý, huống chi bốn người uống đã một lúc lâu, đang lúc mềm môi hơi men bừng bừng.
Phạm Dao thấy Hạc Bút Ông cầm bát rượu lên uống một hơi cạn sạch liền mở nắp rót thêm rượu cho y. Hạc Bút Ông thấy bát của mình đã đầy, tiện tay cũng châm thêm cho Tôn Lý, thấy bát của khổ đầu đà vẫn còn nguyên nên không rót. Bốn người liền bưng bát lên uống ừng ực.
Chỉ trừ Phạm Dao ra, ba người kia đều uống phải rượu độc. Tôn Lý hai người nội lực kém, độc tửu vừa vào bụng, chỉ giây lát đã thấy chân tay bải hoải, toàn thân rã rời không còn chút hơi sức nào. Tôn Tam Hủy liền nói:
– Tứ đệ, bụng ta sao có gì trục trặc.
Lý Tứ Tồi cũng nói:
– Ta … ta … cũng dường như trúng độc.
Lúc này Hạc Bút Ông cũng đã thấy khác, vội vận khí, nội tức sao không đưa lên được, mặt liền biến sắc. Phạm Dao liền đứng ngay lên, mặt hầm hầm, chộp ngực Hạc Bút Ông, miệng ú ớ gầm gừ nhưng không nói ra được. Tôn Tam Hủy sợ hãi nói:
– Khổ đại sư, chuyện gì thế?
Phạm Dao giơ ngón tay chấm vào rượu, viết lên trên bàn năm chữ “Thập Hương Nhuyễn Cân Tán”. Tôn Lý hai người đều biết Thập Hương Nhuyễn Cân Tán do Huyền Minh nhị lão cất giữ, thấy tình hình trước mắt xem ra khổ đầu đà và mình đều bị trúng phải thuốc độc này. Hai người đưa mắt nhìn nhau, khom lưng nói với Hạc Bút Ông:
– Hạc công công, anh em chúng tôi đâu có dám mạo phạm với lão nhân gia, xin ngài nương tay cho.
Tôn Lý cho rằng Hạc Bút Ông chắc chỉ muốn ra tay đối phó với khổ đầu đà, hai người chẳng may vướng vào tròng, cùng mắc phải cái vạ giữa đàng chứ đối phó với họ thì cần gì phải dùng đến độc dược.
Hạc Bút Ông cũng kinh ngạc vạn phần, Thập Hương Nhuyễn Cân Tán tháng này do y giữ, rõ ràng cất bên trong cây bút mỏ hạc phía bên trái, hai món binh khí đó là vật bất ly thân, dẫu có kẻ nào muốn trộm thuốc từ trong mình ra thật không sao làm được. Thế nhưng y vừa vận khí thấy không cách gì có thể dụng lực, thì đúng là trúng phải Thập Hương Nhuyễn Cân Tán không sai vào đâu. Thực ra thuốc mê do Trương Vô Kỵ điều chế tuy có mạnh thật nhưng khác xa Thập Hương Nhuyễn Cân Tán, tình trạng lúc uống vào cũng không giống tí nào. Thế nhưng Hạc Bút Ông chỉ nghe là uống Thập Hương Nhuyễn Cân Tán vào thì gân cốt mềm nhũn, chân tay bải hoải nhưng chính mình chưa hề thử bao giờ, thành ra tuy hai loại thuốc khác nhau xa nhưng y làm sao phân biệt được? Chỉ thấy khổ đầu đà vừa hoảng hốt, vừa giận dữ, còn Tôn Lý hai người đứng bên van xin không ngớt nên không nghi ngờ liền nói:
– Khổ đại sư đừng có nóng, mình là chỗ anh em, tại hạ làm gì có ý gia hại? Chính tôi cũng trúng phải thuốc độc, thân thể rã rời, không biết đứa nào làm trò ma mãnh, thật là lạ.
Phạm Dao lại chấm tay vào rượu viết lên mấy chữ: “Lấy thuốc giải mau”. Hạc Bút Ông gật đầu nói:
– Đúng thế, mình uống thuốc giải trước đã, sau đó sẽ tìm tên gian tặc nào giở trò ra tính sổ với nó sau. Giải dược ở bên mình Lộc sư ca, xin khổ đại sư cùng đi với tôi.
Phạm Dao trong bụng mừng thầm, không ngờ kế của Dương Tiêu lại dễ dàng đến thế, biết ngay giải dược đang ở trong tay ai. Y giơ tay nắm cổ tay Hạc Bút Ông, cố ý làm ra vẻ lảo đảo đi về phía Bảo Tương tinh xá. Hạc Bút Ông thấy y dường như đi không nổi, trong bụng mừng thầm: “Gã khổ đầu đà này võ công vốn dĩ cực cao, nhưng chưa bao giờ anh em mình có dịp cùng y so tài cao thấp, xem y trúng độc rồi chân đi không vững, chắc nội lực kém mình xa lắc”.
Hai người đi đến trước cửa tinh xá, căn phòng phía nam là của Hạc Bút Ông, còn phòng phía bắc là của Lộc Trượng Khách, thấy phòng phía bắc cửa đóng kín mít. Hạc Bút Ông gọi lớn:
– Sư ca có nhà không?
Lập tức có tiếng Lộc Trượng Khách từ bên trong đáp lời. Hạc Bút Ông giơ tay đẩy cửa, nào ngờ cửa cài then từ bên trong. Y kêu lên:
– Sư ca mở cửa mau, có việc gấp.
Lộc Trượng Khách nói:
– Chuyện gấp cái gì? Ta đang luyện công, ngươi đừng đến quấy rầy có được không?
Hạc Bút Ông và Lộc Trượng Khách cùng học một thầy, không ai kém ai nhưng một là Lộc Trượng Khách vai sư huynh, hai nữa y trí mưu hơn nhiều nên Hạc Bút Ông đối với y có phần tôn kính, nghe giọng y có vẻ không vui không dám réo nữa.
Phạm Dao nghĩ chuyện này không nên dây dưa, một khi thuốc mê tan rồi thì mình sẽ bị lộ tẩy nên chẳng nói chẳng rằng, ghé vai ẩy một cái, then cửa gãy ra, cánh cửa mở toang, nghe tiếng đàn bà kêu rú lên.
Lộc Trượng Khách đang đứng bên cạnh giường, nghe thấy tiếng cửa mở, quay đầu nhìn ra, vẻ mặt cực kỳ sượng sùng. Phạm Dao thấy trên giường có một người đàn bà, toàn thân quấn trong một chiếc chăn mỏng, chỉ hở cái đầu, bên ngoài tấm vải có buộc dây, trông như một cuộn mành mành. Người đàn bà tóc xõa ra ngoài, da dẻ trắng muốt, dung nhan cực kỳ diễm lệ, nhìn ra chính là Hàn thị, người ái cơ Nhữ Dương Vương mới nạp, bụng nghĩ thầm: “Vi Bức Vương quả nhiên giỏi thật, một mình vào ra vương phủ, bắt được Hàn cơ rồi”.
Thực ra tuy Nhữ Dương Vương phủ canh gác cẩn mật nhưng tựu trung các võ sĩ chỉ hộ vệ vương gia, thế tử và quận chúa, còn cơ thiếp của Nhữ Dương Vương rất đông nên chẳng ai nghĩ đến việc có người đến cướp đem đi nên phải canh phòng. Hơn nữa Vi Nhất Tiếu đến nhanh như chớp, lại biến hóa thật gọn gàng, vừa vào phủ là vác ngay Hàn cơ đi, thật là thần không hay quỉ không biết. Còn như làm sao bỏ được vào trong phòng Lộc Trượng Khách thật khó hơn nhiều, y phải đợi cả nửa ngày mới gặp được lúc Lộc Trượng Khách ra đi cầu, lẻn vào đặt Hàn cơ lên trên giường, rồi lặng lẽ bỏ đi.
Lộc Trượng Khách trở về thấy có một người đàn bà nằm trên giường, vội vàng nhảy lên mái nhà, nhìn chung quanh bốn bề thì lúc đó Vi Nhất Tiếu đã chạy xa rồi, ngoài phòng Tôn Lý vọng ra tiếng ăn nhậu rức lác, không còn gì khác. Lộc Trượng Khách thấy việc này quả thật quái lạ, nhưng lặng thinh thản nhiên quay về phòng, nhìn lại cô gái kia, không khỏi trố mắt há hốc mồm. Ngày hôm đó vương gia nạp cơ có làm tiệc đãi luôn một số cao thủ hữu danh, nàng Hàn cơ kia lúc kính tửu mủm mỉm cười, Lộc Trượng Khách tuy tuổi đã cao nhưng cũng không khỏi mê mẩn. Y tham dâm hiếu sắc, một đời làm hại không biết bao nhiêu đời đàn bà con gái lương gia, nay thấy Hàn cơ xinh đẹp, trong bụng không khỏi tiếc rẻ, sao không sớm gặp được mỹ nhân. Nếu như trước khi vương gia lấy về mà trông thấy thì làm sao thoát được tay y. Về sau y có nghĩ đến mấy lần nhưng lại kiếm được người mới nên cũng quên đi. Bây giờ không hiểu đâu từ trời rơi xuống nàng Hàn cơ lại nằm ngay trên giường.
Y vừa sợ vừa mừng, suy nghĩ qua lập tức đoán ngay chắc là đại đệ tử Ô Vượng A Phổ biết được tâm ý sư phụ, nên lén đến cướp Hàn cơ đem về. Y thấy nàng thò đầu ra khỏi tấn chăn cuốn, mặt cổ nước da trắng ngần, thấp thoáng bờ vai trần, dường như trên người không mặt quần áo, y bụng phập phồng hỏi nhỏ vì sao nàng lại tới đây. Hỏi luôn mấy câu, Hàn cơ không trả lời, Lộc Trượng Khách bấy giờ mới biết nàng đã bị điểm trúng huyệt đạo, đang toan giơ tay giải huyệt, đột nhiên Hạc Bút Ông đến trước cửa, rồi nghe cửa bị khổ đầu đà phá vỡ.
Biến cố đó thật là bất ngờ, Lộc Trượng Khách tuy rất ư là quỉ quyệt nhưng muốn che đấu cũng không kịp nữa rồi. Y chợt nghĩ ra, e chừng vương gia phát giác ái cơ bị cướp, sai khổ đầu đà đến tróc nã mình, việc đến nước này chỉ còn nước chạy là hơn cả. Chỉ nghe soẹt một tiếng, trượng đầu hươu đã nằm trong tay y, tay trái ôm luôn Hàn cơ lên, toan bề phá cổ sổ nhảy ra.
Hạc Bút Ông kinh hãi kêu lên:
– Sư ca, mau đưa giải dược đây.
Lộc Trượng Khách hỏi lại:
– Cái gì?
Hạc Bút Ông nói:
– Tiểu đệ và khổ đại sư chẳng hiểu vì sao trúng phải chất độc Thập Hương Nhuyễn Cân Tán.
Lộc Trượng Khách ú ớ:
– Ngươi nói sao?
Hạc Bút Ông lại nhắc lại lần nữa, Lộc Trượng Khách lạ lùng hỏi:
– Thập Hương Nhuyễn Cân Tán chẳng phải do ngươi giữ hay sao?
Hạc Bút Ông đáp:
– Tiểu đệ chẳng biết táy máy thế nào cả bốn người đang ngồi uống rượu nhậu nhẹt, đột nhiên cả bọn đều bị trúng độc. Lộc sư ca, mau đem thuốc giải cho bọn tôi uống đi nào.
Lộc Trượng Khách nghe nói thế hồn phách bình tĩnh lại, để Hàn cơ lại trên giường, xoay mặt nàng về bên trong. Hạc Bút Ông vốn biết vị sư ca này tính tình phong lưu, trong phòng y có đàn bà con gái, cũng không lấy gì làm lạ nên chẳng để ý, huống chi Hạc Bút Ông trúng độc rồi, hồn vía lên mây còn hơi đâu mà để ý xem người đó là ai. Dẫu có bình thời y cũng không nhận ra vì hôm đó trong bữa tiệc nơi vương phủ, Hàn cơ bước ra mời rượu chỉ chào một cái rồi đi, Hạc Bút Ông chăm chăm vào việc uống rượu đâu có để ý xem người đàn bà đeo vòng ngọc, mặc áo gấm kia đẹp hay xấu?
Lộc Trượng Khách nói:
– Mời khổ đại sư về phòng Hạc huynh đệ nghỉ ngơi, tại hạ đem thuốc giải tới ngay.
Y vừa nói vừa giơ tay đẩy hai người ra khỏi phòng. Cái đẩy đó khiến cho Hạc Bút Ông lảo đảo, suýt nữa ngã. Phạm Dao cũng loạng choạng bước theo, giả vờ như nội lực cũng mất hết, tuy nhiên y nội lực thâm hậu, gặp ngoại lực tự nhiên sinh ra sức phản kích. Lộc Trượng Khách chỉ giơ tay ra lập tức phát giác sư đệ quả nhiên mất hết nội lực, khổ đầu đà thì giả vờ. Y sợ mình đoán nhầm, lại dụng lực đẩy thêm lần nữa, cả Hạc Bút Ông lẫn khổ đầu đà cùng ngã bổ chửng ra ngoài. Tuy cùng ngã, một người thân thể bông bênh, người kia rơi cái bịch.
Lộc Trượng Khách giả vờ như không cười nói:
– Khổ đại sư, quả thực đắc tội.
Nói rồi y đưa tay ra đỡ, vừa giơ tay đã nắm ngay hai huyệt Hội Tông và Ngoại Quan nơi cổ tay khổ đầu đà. Phạm Dao thấy y ra tay như thế, biết ngay mình đã bị bại lộ, tay trái vung lên, dùng trọng thủ đánh ngay vào huyệt Hồn Môn trên lưng Hạc Bút Ông, để cho y trong một thời gian thân thể uể oải không cử động được. Trong hai đại cao thủ trừ đi một người, còn một đánh một không sợ gì Lộc Trượng Khách. Y cất tiếng cười khẩy mấy tiếng nói:
– Ngươi không muốn sống hay sao mà dám đi trộm ái cơ của vương gia về đây?
Y vừa mở mồm nói, Huyền Minh nhị lão ngạc nhiên đến ngơ ngẩn cả người. Hai người biết khổ đầu đà đã mười lăm, mười sáu năm qua, chưa từng nghe y mở miệng nói một câu nào, vẫn tưởng trời sinh y câm. Lộc Trượng Khách tuy biết y chẳng phải tốt lành gì nhưng không ngờ y lại nói được, nên nghĩ ngay nếu như y cố tình đóng vai câm như thế thì tình cảnh như mình bây giờ ắt phải nguy nan, liền nói:
– Thì ra khổ đại sư không phải câm thật, hơn mười năm nay khổ tâm đóng kịch như thế là do cớ gì?
Phạm Dao đáp:
– Vương gia biết ngươi có bụng không ngay, sai ta giả làm thằng câm để tiện gần ngươi giám sát.
Câu đó đúng ra có rất nhiều sơ hở nhưng lúc này Hàn cơ đang nằm trên giường, Lộc Trượng Khách trong bụng có tà ý, không thể không tin, huống chi y vốn biết rõ Nhữ Dương Vương thích bày chuyện ràng buộc tròng tréo đối với thuộc cấp. Câu đó của Phạm Dao nói ra, Lộc Trượng Khách thấy thót cả ruột liền hỏi:
– Vương gia sai ngươi đến bắt ta ư? Ha ha, khổ đại sư võ nghệ tuy cao nhưng chưa chắc đã bắt Lộc Trượng Khách này giơ tay chịu trói được đâu?
Nói rồi y liền vung lộc trượng lên toan động thủ. Phạm Dao cười nói:
– Lộc tiên sinh, khổ đầu đà tuy võ công không bằng được ông, nhưng chắc hai bên cũng không hơn kém bao nhiêu. Nếu ông muốn đánh bại tôi, e rằng trong một hai trăm chiêu chưa chắc đã thắng. Ông thắng tôi một vài chiêu thì dễ nhưng nếu tính chuyện vừa ôm Hàn cơ đi, lại cứu cả sư đệ, Lộc Trượng Khách chắc gì đã có đủ tài làm chuyện đó.
Lộc Trượng Khách đưa mắt nhìn sư đệ, biết lời của khổ đầu đà chẳng phải ngoa. Y hai sư huynh đệ từ nhỏ học nghệ với nhau, lớn lên cho tới lúc già, mấy chục năm qua chưa rời xa nhau lấy một ngày. Hai người đều không vợ không con, có thể nói coi người kia như chính sinh mạng mình, bảo y bỏ sư đệ chạy lấy một mình, ắt không nỡ nào làm như thế.
Phạm Dao thấy y có vẻ động tâm liền quát gọi Tôn Lý hai người vào phòng, đóng chặt cửa lại nói:
– Lộc tiên sinh, việc này chưa bị bại lộ, cứ tin vào khổ đầu đà này nhất định sẽ che đậy cho ông đến nơi đến chốn.
Lộc Trượng Khách lạ lùng hỏi:
– Làm thế nào mà che đậy được?
Phạm Dao không quay đầu lại, thò tay ngược về sau điểm luôn huyệt câm và huyệt tê của hai gã Tôn Lý, thủ pháp nhanh nhẹn, nhận huyệt chuẩn xác, Lộc Trượng Khách cũng phải ngầm thán phục. Chỉ nghe khổ đầu đà nói tiếp:
– Chính ông không nói ra, lệnh sư đệ chắc chẳng thể nào làm khó sư huynh được, khổ đầu đà là người câm, từ nay vẫn là người câm không nói. Còn hai vị huynh đệ này, khổ đầu đà sẽ giúp ông bằng cách điểm vào tử huyệt để diệt khẩu, cái đó cũng chẳng đáng gì.
Tôn Lý hai người kinh hoàng thất sắc, nghĩ thầm chuyện này vốn dĩ chẳng liên quan gì đến mình, có ngờ đâu chỉ vì vài miếng thịt chó mà tội vạ ở đâu giáng xuống đầu, tuy muốn ngỏ lời van xin nhưng lại mở miệng không được. Phạm Dao lại chỉ vào Hàn cơ nói:
– Còn như cô hầu này, lão nạp đã sẵn hai phương sách. Một là phủi tay phủi chân, đem cô ta và Tôn Lý hai người xách đến chỗ nào vắng vẻ cho mỗi người một đao, báo cho vương gia hay cô nàng và tên đĩ đực Lý Tứ Tồi tằng tịu với nhau, hai đứa bỏ trốn bị khổ đầu đà bắt được, nổi giận giết cả gian phu dâm phụ, giết lây cả tên Tôn Tam Hủy. Cách thứ hai là do chính ông đem cô nàng đi dấu một nơi, về sau nếu có tiết lộ cơ mật cái đó là toàn ở ông cả.
Lộc Trượng Khách không khỏi quay đầu lại nhìn Hàn cơ một cái, thấy ánh mắt nàng đầy vẻ khẩn cầu, rõ là muốn y nhận giải pháp thứ hai. Lộc Trượng Khách nhìn khuôn mặt xinh đẹp trời cho kia, nếu như một đao giết chết quả thật là đáng tiếc, trong lòng rung động liền nói:
– Đa tạ ngươi đã sắp xếp cho ta chu đáo như thế. Vậy ngươi muốn ta làm gì nào?
Y biết rằng khổ đầu đà ắt có chuyện nhờ mình, nếu không chắc chẳn thể nào bỏ qua. Phạm Dao đáp:
– Việc này cũng thật là dễ. Chưởng môn phái Nga Mi Diệt Tuyệt sư thái và tôi giao tình rất thâm, cô gái trẻ tuổi họ Chu kia là con tư sinh của tôi với lão ni cô. Cầu ông cho chút giải dược, rồi thả hai người đó ra. Trước mặt quận chúa, một mình lão nạp nhận hết cả, nếu mà có làm liên lụy đến ông thì gia đình khổ đầu đà và Diệt Tuyệt lão ni, trai trộm cắp, gái bán phấn buôn hương, chết không toàn thây, đời đời không được siêu sinh.
Y nghĩ Lộc Trượng Khách tính tình phong lưu, nếu dùng ngay truyện gái trai ra làm cớ thì dễ khiến y tin hơn. Y nghe Dương Tiêu nói anh em Minh giáo rất đông người chết dưới kiếm của Diệt Tuyệt sư thái, nên đặt ra ngay câu chuyện hoang đường hòa thượng ni cô kia. Y cả đời tà tính thành thói, ăn nói hành động không thể nào như một chính nhân quân tử bình thường. Còn như thề thốt “trai trộm cắp, gái bán phấn buôn hương” gì gì nữa, y cũng chẳng để tâm.
Lộc Trượng Khách nghe xong ngẩn người, nhưng lập tức mỉm cười, nghĩ thầm gã đầu đà này mọi chuyện đem ra bức bách mình thì ra là để cứu mụ tình nhân già cùng với đứa con gái, âu cũng là chỗ thường tình, việc này tuy rất nhiều nguy hiểm, nhưng đổi lại được một tuyệt sắc giai nhân, âu cũng đáng. Y thấy khổ đầu đà có chuyện cầu mình, trong bụng cởi được mối lo cười đáp:
– Vậy thì cướp ái cơ của vương gia đem tới đây, chắc cũng là do tay khổ đại sư phải không?
Phạm Dao đáp:
– Chuyện lớn như thế, lẽ nào chỉ tay không đến xin? Cũng phải có gì đền đáp chứ.
Lộc Trượng Khách mừng lắm, nhưng còn e bên ngoài có người nên không dám cười thành tiếng. Đột nhiên y nghĩ lại hỏi thêm:
– Thế thì sư đệ của ta tại sao lại trúng phải Thập Hương Nhuyễn Cân Tán? Độc dược này ngươi ở đâu mà có được?
Phạm Dao đáp:
– Cái đó có khó gì đâu? Lệnh sư đệ hiện đang giữ độc dược, y là người tham ăm thích uống, uống đến lúc ngà ngà, khổ đầu đà ăn cắp gì mà không được?
Lộc Trượng Khách không còn nghi ngại gì nữa liền nói:
– Hay lắm! Khổ đại sư, huynh đệ kết giao bằng hữu với ngươi, ta quyết không bán ngươi mà ngươi cũng đừng đẩy ta vào chỗ khó như thế này nữa.
Phạm Dao chỉ vào Hàn cơ nói:
– Lần tới nếu còn một việc khó mà xinh đẹp như thế này, xin Lộc tiên sinh cứ sắp đặt để đưa khổ đầu đà vào tròng, lão nạp vui vẻ mà nhận ngay.
Hai người nhìn nhau cười, nhưng trong bụng mỗi người một chủ ý. Lộc Trượng Khách ngầm tính toán, chuyện khó khăn trước mắt một khi qua rồi, làm sao xuất kỳ bất ý giết chết gã ác đầu đà này. Phạm Dao biết rằng Lộc Trượng Khách tuy nhất thời bị mình bức bách, nhưng Huyền Minh nhị lão là loại người cỡ nào, bị một vố đau như thế đâu lẽ chịu bỏ qua, chỉ đợi khi an trí Hàn cơ xong xuôi, giải được huyệt cho Hạc Bút Ông rồi, lập tức sẽ kiếm mình động thủ, nhưng khi đó các cao thủ sáu đại môn phái đã cứu xong, mình đã cúp đuôi chạy mất rồi.
Phạm Dao thấy Lộc Trượng Khách chần chừ không chịu đưa thuốc giải ra, nghĩ bụng nếu mình thúc giục, y sẽ càng làm khó thêm, nên ngồi xuống cười nói:
– Lộc huynh sao không giải khai huyệt đạo cho Hàn cơ, cả bọn cùng uống vài chén cho vui? Dưới đèn ngắm mỹ nhân, cái diễm phúc đó mấy kiếp tu dễ gì có được.
Lộc Trượng Khách biết rằng chùa Vạn An người qua kẻ lại, Hàn cơ ở đây thêm khắc nào thì thêm một phần nguy hiểm liền lấy trượng sừng hươu ra, mở một nhánh, lấy một cái chén đổ vào chén một ít bột phấn nói:
– Khổ đại sư, ngươi quả là thần cơ diệu toán, huynh đệ cam chịu lép vế, giải dược đây mau cầm lấy.
Phạm Dao lắc đầu:
– Có chút xíu bột như thế thì làm được trò gì?
Lộc Trượng Khách nói:
– Đừng nói chi cứu hai người, đến sáu bảy người cũng đủ.
Phạm Dao nói:
– Sao ngươi nhỏ mọn thế, cho thêm chút nữa thì đã sao? Nói thực, các hạ túc trí đa mưu, khổ đầu đà này sợ lại bị mắc hỡm nữa.
Lộc Trượng Khách thấy y đòi thêm thuốc giải, đột nhiên khởi nghi nói:
– Khổ đại sư, ngươi định cứu chẳng phải chỉ Diệt Tuyệt sư thái và lệnh ái mà thôi, phải không?
Phạm Dao đang định nói khéo để giải thích cho qua, bỗng nghe bên trong chùa có tiếng chân rầm rập, bảy tám người chạy tới, nghe một người nói:
– Dấu chân đến tận đây, không lẽ Hàn cơ lại ở trong chùa Vạn An chăng?
Lộc Trượng Khách mặt liền biến sắc, chộp ngay cái ly chứa thuốc giải, bỏ ngay vào bọc, cho rằng Khổ đầu đà phục sẵn người ở bên ngoài đợi vừa có giải dược liền phản mình ngay.
Phạm Dao xua tay, bảo y đừng kinh hoảng, lấy một chiếc chăn mỏng chùm lên người Hàn cơ từ đầu đến chân rồi bỏ màn che xuống. Lại nghe một người hỏi:
– Lộc trượng tiên sinh có nhà không?
Phạm Dao chỉ chỉ vào miệng mình, ý muốn nói mình câm, nên bảo Lộc Trượng Khách lên tiếng trả lời. Lộc Trượng Khách lớn tiếng quát:
– Cái gì thế?
Người kia đáp:
– Vương phủ có một cơ nhân bị gian đồ cướp đi, theo dấu kẻ gian thì tới chùa Vạn An.
Lộc Trượng Khách hầm hầm nhìn Phạm Dao, ý muốn nói: “Nếu không phải ngươi cố ý giá họa, với tài nghệ của ngươi làm sao lại có dấu chân được?”. Phạm Dao liền nhếch mép cười, giơ tay ra hiệu bảo y đuổi gã này đi, trong bụng nghĩ thầm: “Vi Bức Vương vu vạ tài thật, để dấu chân từ vương phủ tới tận đây”.
Lộc Trượng Khách liền cười khẩy đáp:
– Các ngươi không biết chia nhau đi lùng kiếm, tới đây léo nhéo cái gì?
Với địa vị và võ công như y, ai nấy đều hết sức kiêng nể, người kia vội vâng vâng dạ dạ, không dám nói thêm gì nữa, lập tức phân phái anh em tra tìm những vùng chung quanh. Lộc Trượng Khách biết lúc này chung quanh chùa Vạn An có rất đông người tra xét, tuy bọn họ không dám vào phòng mình mà tìm, nhưng ôm được Hàn cơ đi nơi khác để dấu thật không phải dễ, không khỏi nhíu mày hậm hực nhìn khổ đầu đà.
Phạm Dao bỗng nghĩ ngay một kế hạ giọng nói:
– Lộc huynh, chùa Vạn An có một nơi rất tốt, mình tạm dấu cục cưng này, qua một ngày một buổi bên ngoài tra xét dãn ra, lúc đó đem đi cũng chưa muộn.
Lộc Trượng Khách giận dữ nói:
– Trừ phi dấu ngay trong phòng ngươi thì được.
Phạm Dao cười:
– Người đẹp thế dấu ở phòng tôi, lão đầu đà chắc đâu đã không động lòng, Lộc huynh không ghen đấy chứ?
Lộc Trượng Khách hỏi lại:
– Thế ngươi bảo dấu ở đâu?
Phạm Dao mỉm cười giơ tay chỉ ngọn tháp ngoài cửa sổ. Lộc Trượng Khách thông minh cơ cảnh, thoáng cái biết ngay, giơ ngón tay cái lên khen:
– Hay lắm!
Bảo tháp đó là nơi giam giữ các cao thủ lục đại môn phái, tổng quản trông nom chính là đại đệ tử của Lộc Trượng Khách Ô Vượng A Phổ, người khác có nghi là nghi chỗ khác, chứ không ai lại ngờ rằng ái cơ của vương gia lại bị bắt dấu nơi nhà giam canh phòng giới bị cẩn mật này. Phạm Dao hạ giọng nói:
– Lúc này trong viện không có ai, chẳng nên chậm trễ, động thủ ngay đi.
Y cuốn bốn bề cái chăn trên giường lại, dấu kỹ Hàn cơ ở bên trong thành một cái bọc lớn, nhắc lên giao cho Lộc Trượng Khách. Lộc Trượng Khách nghĩ thầm ngươi không làm lại đẩy cho mình, ta vừa vác Hàn cơ ra khỏi cửa ngươi liền kêu toáng lên, lúc đó tang chứng rành rành, còn chối cãi vào đâu được nữa, mặt không khỏi biến sắc, không dám đưa tay nhận. Phạm Dao biết bụng dạ y liền nói:
– Đã giúp thì giúp cho trót, tiễn Phật tiễn tận Tây phương, khổ đầu đà hôm nay làm thêm vụ đưa dâu nữa thì đã sao nào? Ai bảo mình có việc phải cầu người làm chi?
Nói xong nhắc cái bọc lên, đẩy cửa bước ra, nói nhỏ:
– Ngươi đi trước dẹp đường, nếu có kẻ nào ngăn trở tra vấn, giết quách nó đi.
Lộc Trượng Khách nghiêng người lách qua, nhưng không dám đưa lưng ngay mặt Phạm Dao, sợ y từ sau đánh lén. Phạm Dao đưa tay khép cửa lại, cõng Hàn cơ đi lên bảo tháp.
Lúc đó đã cuối giờ tuất, ngoại trừ võ sĩ canh gác bảo tháp ra, không còn ai khác. Các võ sĩ thấy Lộc Trượng Khách và Phạm Dao, lập tức khom mình hành lễ, cung kính đứng tránh qua một bên. Hai người chưa đến chân tháp, Ô Vượng A Phổ được thủ hạ báo tin, đã chạy ra nghinh tiếp nói:
– Sư phụ, lão nhân gia hôm nay có hứng hay sao mà lên bảo tháp ngồi chơi?
Lộc Trượng Khách gật đầu, cùng Phạm Dao đang toan tiến lên bỗng nhiên từ chiếc cửa tròn ở phía tây một người bước ra, chính là Triệu Mẫn.
Lộc Trượng Khách có tật giật mình, kinh hoảng không để đâu cho hết, lại tưởng Triệu Mẫn đích thân đem thủ hạ đến bắt y, không biết tính sao chỉ đành thu hết cam đảm cùng Phạm Dao và Ô Vượng A Phổ tiến lên vái chào. Đêm hôm qua bọn Trương Vô Kỵ đến quấy rối, Triệu Mẫn có biết đâu tất cả Minh giáo chỉ có ba người, e ngại họ đem đại đội nhân mã đến tấn công nên muốn đích thân đến tháp xem xét, thấy Phạm Dao ở đây liền mỉm cười nói:
– Khổ đại sư, tôi đang định đi tìm ông đây.
Phạm Dao gật đầu, bình thản như không. Triệu Mẫn nói:
– Tôi muốn ông đi cùng với tôi đến một nơi.
Phạm Dao trong bụng kêu khổ thầm: “Mãi mới dụ được Lộc Trượng Khách vào trong bảo tháp mình sẽ ra tay rồi đoạt lấy giải dược của y thế là thành công, ngờ đâu con nhãi này lại đến đây tìm mình”. Đã toan tìm cớ thoái thác không đi, nhưng nhất thời không tìm ra được cách nào, huống chi y lại giả câm, nếu muốn từ chối cũng không nói nên lời được. Tình cấp trí sinh, nghĩ thầm: “Để mặc cho Lộc Trượng Khách tìm cách nào vậy”. Y liền chỉ cái bọc trên tay mình, quay sang Lộc Trượng Khách lắc lắc mấy cái. Lộc Trượng Khách hoảng hốt, trong bụng chửi thầm khổ đầu đà hại mình không ít. Triệu Mẫn hỏi:
– Lộc tiên sinh, cái bọc của khổ đầu đà đựng gì thế?
Lộc Trượng Khách đáp:
– À, à, đó là chăn gối của khổ đại sư đấy mà.
Triệu Mẫn lạ lùng hỏi:
– Chăn gối? Khổ đại sư mang chăn gối đi đâu?
Nàng mủm mỉm cười nói tiếp:
– Khổ đại sư thấy tôi tối dạ quá, không chịu thu làm đệ tử, tức mình ôm chăn gối đi không ở nữa đấy ư?
Phạm Dao lắc đầu, tay phải chỉ trỏ lung tung, nghĩ thầm: “Cứ để cho Lộc Trượng Khách nghĩ ra nói láo, mình câm cũng có cái lợi của người câm”. Triệu Mẫn trông không hiểu y làm thế nghĩa là sao, chỉ đành nhìn Lộc Trượng Khách chờ y giải thích. Lộc Trượng Khách động linh cơ có ngay một cớ liền nói:
– Chuyện như thế này, tối hôm qua mấy ma đầu của Ma giáo đến phá rối, thuộc hạ e ngại bọn hạ có âm mưu lớn … biết đâu … biết đâu … chúng lại không đến tháp cứu người. Thành thử sư huynh đệ thuộc hạ cùng khổ đại sư quyết định ở ngay trên tháp, tự mình canh phòng để khỏi làm hỏng việc lớn của quận chúa. Cái bọc chăn gối này là đồ ngủ của khổ đại sư.
Triệu Mẫn mừng lắm, cười nói:
– Tôi vẫn định nhờ Lộc tiên sinh và Hạc tiên sinh đích thân trông coi, có điều như thế làm nhọc các ông quá nên không dám mở miệng. Ngờ đâu ba vị lại chia xẻ mối lo với tôi, thật còn gì bằng. Có Lộc Hạc hai vị ở nơi đây trấn giữ, bọn ma đầu đâu có dám héo lánh đến, tôi khỏi phải lên tháp trông coi làm gì. Khổ đại sư theo tôi đi đằng này một chút.
Nói xong nàng nắm tay Phạm Dao. Phạm Dao không còn cách nào khác, nghĩ thầm như lúc này có nói toạc âm mưu của Lộc Trượng Khách thì cũng chẳng đi đến đâu, thứ nữa Hàn cơ đang ở trong tay mình, chưa chắc đã làm cho Triệu Mẫn tin được, đành giao cái bọc lại cho Lộc Trượng Khách. Lộc Trượng Khách giơ tay đỡ lấy nói:
– Khổ đại sư, tôi đợi ông ở trên tháp nhé.
Ô Vượng A Phổ nói:
– Sư phụ, để đệ tử mang bọc chăn gối cho.
Lộc Trượng Khách cười đáp:
– Không sao, đây là đồ của khổ đại sư, thầy đang muốn lấy lòng ông ấy tự mình mang lên cũng được.
Phạm Dao nhếch mép cười, giơ tay vỗ vào cái bọc một cái, chính trúng ngay mông của Hàn cơ. Cũng may nàng ta đã bị điểm huyệt nên không thể kêu lên được, nhưng Lộc Trượng Khách cũng sợ đến mặt tái mét, không dám dây dưa thêm nữa, quay sang chào Triệu Mẫn rồi vác Hàn cơ đi lên tháp. Y trong bụng đã tính sẵn, một khi vào trong tháp rồi lập tức lấy chăn mền thật ra đổi ngay, nếu như khổ đầu đà có cáo giác với Triệu Mẫn thì y cũng nhất định chối phắt đi.
——————————————————–
[1] Tình bạn từ lúc còn thơ (nguyên điển lấy từ thơ Lý Bạch)
[2] tức Chaghan Temur. Đặc Mục Nhĩ như vậy là một danh tướng gốc Tân Cương (Uighur), vốn là một địa chủ có công dẹp được cuộc nổi dậy của Bạch Liên Giáo ở đất Hoài trở thành một người có thế lực chính trị và quân sự. Đời Nguyên, địa chủ có quyền tuyển mộ, huấn luyện và chỉ huy dân quân riêng để chống nhau với những thế lực tôn giáo và các cuộc nổi dậy (xem thêm Cuộc Khởi Nghĩa của nhà Minh của dịch giả)
[3] Chú thích của Kim Dung: Theo Tân Nguyên Sử, quyển thứ hai trăm hai mươi “Sát Hãn Thiếp Mộc Nhi truyện” chép: Ông tổ bốn đời Sát Hãn Thiếp Mộc Nhi là Khoát Khoát Đài, ông nội là Nãi Man Đài, cha là A Lỗ Ôn, sống ở Hà Nam, đất Tần Châu, Trẩm Khâu, sau đổi qua họ Lý. Khố Khố Đặc Mục Nhĩ (Koko Temur) tuy là thế tử nhưng thực ra là cháu gọi bằng cậu của Sát Hãn Đặc Mục Nhĩ, kế vị ông khi Sát Hãn bị ám sát năm 1362. Tiểu tiết này tác giả Kim Dung cố tình bỏ qua.
[4] Tức Khwraozm (hay Khuwraizm, Khwraezm, Khwraizm) là một nước Hồi giáo ở gần Ba Tư bị Thành Cát Tư Hãn chinh phục hồi thế kỷ thứ 13.