Chẳng qua một chút danh hờ,
Ngoài thì báo oán trong chờ lên ngôi.
Máu đào thấm đất bao người,
Thiếu Lâm trường hận một đời bỏ đi.
Chưởng của Lộc Trượng Khách đánh lén Trương Vô Kỵ đúng ngay lúc chàng phải dùng toàn lực chống đỡ nội kình của mười tám tên phiên tăng liên thủ ở đằng trước, thành thử phía sau không có hộ thể thần công che chở. Huyền Minh hàn độc xâm nhập vào thân bị thương rất nặng, chàng bèn ngồi xếp bằng vận chuyển Cửu Dương chân khí quanh người ba lần rồi thổ ra hai ngụm máu bầm mới thấy đỡ tức ngực, mở mắt ra thấy Triệu Mẫn nhìn mình vẻ mặt hết sức lo lắng.
Trương Vô Kỵ ôn tồn nói:
– Triệu cô nương, phen này khiến cô thật khổ sở.
Triệu Mẫn đáp:
– Đến giờ này chàng vẫn còn gọi em là ?Triệu cô nương? ư? Em chẳng còn là người của triều đình, cũng không còn là quận chúa, trong lòng chàng … chàng vẫn coi em là một tiểu yêu nữ hay sao?
Trương Vô Kỵ từ từ đứng lên nói:
– Tôi hỏi cô một câu, cô nói thực cho tôi biết, vết kiếm trên mặt biểu muội Ân Ly của tôi, có phải do cô rạch hay không?
Triệu Mẫn đáp:
– Không phải.
Trương Vô Kỵ hỏi:
– Thế thì ai đã hạ thủ?
Triệu Mẫn đáp:
– Em không thể nói cho chàng hay được. Đến khi nào chàng gặp Tạ đại hiệp, ông ta sẽ nói cho chàng nghe môi việc.
Trương Vô Kỵ lạ lùng hỏi:
– Nghĩa phụ của tôi biết rõ ư?
Triệu Mẫn nói:
– Nội thương của chàng chưa khỏi, càng hỏi nhiều càng thêm rắc rối. Em chỉ nói với chàng một điều, nếu như chàng tra rõ ngọn ngành, Ân cô nương nếu thực là do em hại, chẳng cần chàng ra tay, em lập tức tự vẫn tạ tội ngay trước mặt chàng.
Trương Vô Kỵ thấy nàng nói như chém đinh chặt sắt không thể không tin, trầm ngâm một hồi rồi nói:
– Chắc có lẽ trên chiếc thuyền của Minh Giáo Ba Tư có cao thủ mai phục, nửa đêm thi triển tà pháp xông thuốc cho mình mê đi rồi hại biểu muội của tôi, sau đó ăn trộm đao Đồ Long và kiếm Ỷ Thiên. Cứu được nghĩa phụ ra xong, chắc phải đi Ba Tư một chuyến, hỏi Tiểu Siêu cho rõ ràng.
Triệu Mẫn dẩu môi cười nói:
– Chắc chàng nhớ Tiểu Siêu nên tìm cớ để đi gặp chứ gì? Em khuyên chàng dưỡng thương là hơn, không nên nghĩ ngợi vẩn vơ, việc đi lên chùa Thiếu Lâm mới là chuyện chính.
Trương Vô Kỵ lạ lùng:
– Đi lên chùa Thiếu Lâm làm gì?
Triệu Mẫn đáp:
– Thì để cứu Tạ đại hiệp.
Trương Vô Kỵ lại càng ngạc nhiên hỏi thêm:
– Nghĩa phụ của tôi đang ở trên chùa Thiếu Lâm ư? Sao lại ở chùa Thiếu Lâm nhỉ?
Triệu Mẫn đáp:
– Đầu dây mối nhợ bên trong em cũng không biết rõ nhưng Tạ đại hiệp đang ở trong chùa Thiếu Lâm thì nhất định là đúng. Để em nói cho chàng hay, dưới tay em có một thủ hạ xuất gia nơi chùa Thiếu Lâm, chính y đã hi sinh mạng sống để mang tin đó đến cho em.
Trương Vô Kỵ hỏi lại:
– Tại sao phải hi sinh mạng sống?
Triệu Mẫn đáp:
– Người bộ thuộc đó muốn chứng minh cho em nên tìm cách cắt một nắm tóc của Tạ đại hiệp. Thế nhưng chùa Thiếu Lâm canh gác Tạ đại hiệp cực kỳ nghiêm mật, người thủ hạ đó lấy được nắm tóc rồi chạy ra khỏi chùa nhưng vẫn bị phát giác, thân trúng hai chưởng, gắng gượng đem được đến cho em chẳng bao lâu thì chết.
Trương Vô Kỵ nói:
– Ôi, ghê gớm thật.
Ba chữ ?ghê gớm thật? không biết là chàng khen thủ đoạn của Triệu Mẫn hay là nói về thế cục nguy hiểm. Chàng trong lòng buồn bực làm xáo trộn nội tức nhịn không nổi lại hộc máu ra. Triệu Mẫn vội nói:
– Nếu biết thương thế của chàng nặng nề, lại dễ khích động như thế, em chẳng nên nói cho chàng nghe làm chi.
Trương Vô Kỵ ngồi xuống đất, tựa lưng vào một tảng đá cố gắng giữ lòng cho bình tĩnh để điều tức nhưng trước sau vẫn rối như mớ bòng bong không sao trấn định được bèn nói:
– Không Kiến thần tăng của phái Thiếu Lâm bị nghĩa phụ anh dùng Thất Thương Quyền đánh chết. Tăng cũng như tục của chùa Thiếu Lâm hai mươi năm qua thề sẽ báo mối thù này, huống chi Thành Côn lại xuất gia nơi chùa Thiếu Lâm. Nghĩa phụ anh rơi vào tay họ làm sao còn sống cho nổi?
Triệu Mẫn nói:
– Chàng không phải nóng ruột quá, có một vật có thể cứu được tính mạng Tạ đại hiệp.
Trương Vô Kỵ vội hỏi:
– Vật gì vậy?
Triệu Mẫn đáp:
– Bảo đao Đồ Long.
Trương Vô Kỵ suy nghĩ lại liền rõ ngay. Thanh đao Đồ Long được thiên hạ gọi là ?Võ Lâm Chí Tôn?, phái Thiếu Lâm mấy trăm năm qua đứng đầu võ lâm, nên phải chiếm được thanh đao đó mới cam lòng. Chính vì họ muốn có thanh đao này nên không giết Tạ Tốn ngay nhưng việc hành hạ chiết nhục chắc không tránh khỏi.
Triệu Mẫn nói tiếp:
– Em nghĩ rằng việc cứu Tạ đại hiệp chỉ nên hai đứa mình bí mật ra tay thì hơn. Anh hùng hào kiệt trong Minh Giáo tuy đông thật nhưng nếu tất cả xông lên chùa Thiếu Lâm, hai bên tổn thất chắc sẽ nhiều. Phái Thiếu Lâm nếu thấy không đương cự nổi với Minh Giáo, không giữ nổi Tạ đại hiệp không chừng sẽ giết ông ta cũng nên.
Trương Vô Kỵ thấy nàng tính toán chu đáo, trong lòng cảm kích nói:
– Mẫn muội, em nói đúng lắm.
Triệu Mẫn lần đầu tiên được chàng gọi bằng ?Mẫn muội?, lòng thấy hết sức ếm đềm hoan hỉ nhưng nghĩ lại ơn sinh thành dưỡng dục, tình nghĩa anh em từ nay trôi theo dòng nước không khỏi ngậm ngùi.
Trương Vô Kỵ cũng đoán được tâm sự nàng nhưng không biết khuyên nhủ cách nào chỉ nghĩ: ?Nàng từ nay đem thân phó thác cho mình, biết làm thế nào để báo đáp cái thâm tình hậu ý ấy? Chỉ Nhược có ước định hôn nhân với ta, làm sao ta phụ nàng được? Ôi, chuyện trước mắt là làm sao tìm cách cứu nghĩa phụ là quan trọng, còn tình cảm gái trai kia hãy để qua một bên?.
Chàng cố gượng đứng lên nói:
– Thôi mình đi.
Triệu Mẫn thấy chàng mặt mày nhợt nhạt, biết rằng bị thương rất nặng đôi lông mày nhíu lại trầm ngâm nói:
– Cha em thương em chiều em, không có gì phải ngại chỉ sợ ca ca không bỏ qua đâu. Chỉ trong vòng hai giờ nữa, thể nào anh em cũng tìm cách rời phụ thân, phái người đi bắt chúng mình về.
Trương Vô Kỵ gật đầu, thấy Vương Bảo Bảo hành sự quả quyết, là một nhân vật cực kỳ lợi hại, xem ra không thể dễ dàng xuôi tay, hiện giờ hai người đều bị thương nặng nếu như đi về hướng tây đến chùa Thiếu Lâm, ắt là đường sá gian nan thành ra chưa biết tính toán thế nào. Triệu Mẫn nói:
– Chúng mình mau mau rời khỏi chốn nguy hiểm này, đến chân núi rồi hãy tính đường đi.
Trương Vô Kỵ gật đầu, chệnh choạng dắt con ngựa lại, đang định trèo lên chỉ thấy ngực đau nhói, không sao lên yên được. Triệu Mẫn tay phải dùng sức, nghiến răng đẩy một cái tống được chàng lên lưng ngựa, nhưng vì dùng sức quá nhiều vết thương trên ngực do dao găm đâm vào hồi nãy máu lại chảy ra. Nàng gắng gượng trèo được lên ngựa ngồi phía sau, trước đây vốn là chàng đỡ nàng bây giờ lại hóa ra nàng phải giơ tay đỡ Trương Vô Kỵ. Hai người thở hổn hển một hồi lâu mới dám giục ngựa chạy, còn con kia dẫn theo đằng sau lưng.
Hai người cưỡi chung xuống tới chân núi rồi tính việc đi ra đường lớn, sau đó sẽ ngoặt qua hướng đông để khỏi phải đụng đầu Vương Bảo Bảo. Đi được một lát thì đến một con đường nhỏ, lúc đó hai người mới thấy an tâm nghĩ thầm nếu như Vương Bảo Bảo sai người truy nã, ắt chẳng đời nào lại theo đường nhỏ mà kiếm, chỉ cần đi đến khi trời tối vào trong núi sâu thì có thể coi như thoát nạn.
Hai người đang đi bỗng nghe đằng sau có tiếng vó ngựa vang lên, hai con ngựa ở đâu chạy đến. Triệu Mẫn thất sắc, ôm chặt lấy lưng Trương Vô Kỵ nói:
– Ca ca em đến nhanh thật, thôi mình coi như xong đời, không thể nào thoát độc thủ của anh ta. Vô Kỵ ca ca, thôi cứ để em theo ca ca về phủ, tìm cách cầu xin gia gia mai này mình còn có dịp gặp lại. Trời dài đất rộng, nguyện đôi ta mãi mãi sẽ không bao giờ phụ nhau.
Trương Vô Kỵ cười gượng nói:
– Lệnh huynh chắc gì đã chịu thả cho anh đi.
Mới nói tới đó, hai con ngựa ở phía sau chỉ còn cách vài chục trượng. Triệu Mẫn giục ngựa tránh qua một bên, rút dao găm ra, trong bụng đã quyết, nếu như còn cách nào khác thì sẽ tìm đường thoát thân, còn như anh mình nhất định giết Trương Vô Kỵ cho bằng được thì hai người sẽ chết chung một chỗ. Hai kẻ cưỡi ngựa kia đến gần không ngừng bước, trên lưng ngựa là hai tên lính Mông Cổ, đi ngang hai người, chỉ liếc qua một cái rồi giục ngựa chạy luôn. Triệu Mẫn thở phào nghĩ thầm: ?Tạ trời tạ đất, hóa ra chỉ là tên lính tầm thường, không phải người đi truy nã mình?. Thế nhưng hai tên lính gò cương chậm lại, nói với nhau mấy câu rồi bất thần quay đầu ngựa chạy đến bên cạnh hai người. Một tên quân Nguyên mặt mũi râu ria quát lớn:
– Hai đứa man tử khốn kiếp kia, chúng bay ăn cắp đâu hai con ngựa tốt thế này?
Triệu Mẫn nghe giọng điệu y, biết rằng chúng trông thấy hai con tuấn mã phụ thân tặng cho có ý tham lam. Hai con ngựa của Nhữ Dương Vương là loại ngựa tốt, lại thêm yên vàng cương bạc, quả thật quí giá vô cùng. Người Mông Cổ thích ngựa như tính mạng, trông thấy thế ai chẳng động tâm? Triệu Mẫn nghĩ thầm: ?Hai con ngựa tuy là của gia gia cho thật nhưng nếu như hai tên này cậy mạnh cướp lấy thì cũng đành phải cho chúng chứ làm sao được?. Nàng liền nói bằng tiếng Mông Cổ:
– Các ngươi là thuộc hạ của tướng quân nào thế? Sao dám vô lễ với ta như vậy?
Tên quân Mông Cổ ngạc nhiên hỏi lại:
– Tiểu thư là ai?
Y thấy hai người ăn mặc sang trọng, lại thêm hai con ngựa thật đẹp, nghe nói tiếng Mông Cổ lưu loát nên không còn dám coi thường nữa. Triệu Mẫn đáp:
– Ta là con gái của tướng quân Hoa Nhi Bất Xích, đây là anh trai ta, hai người chúng ta trên đường đi bị cướp nên bị thương.
Hai tên lính đưa mắt nhìn nhau, đột nhiên ngửa miệng cười sằng sặc. Tên râu rậm lớn tiếng nói:
– Đâm lao thì theo lao, giết nốt hai đứa nhãi này rồi tính sau.
Y liền rút yêu đao ra, giục ngựa chạy đến. Triệu Mẫn kinh hoảng kêu lên:
– Các ngươi làm gì thế? Ta cho tướng quân hay hai đứa bay sẽ bị bốn ngựa phanh thây đó.
?Tứ mã phân thi? là trọng hình trong quân đội Mông Cổ, kẻ phạm pháp bốn tay chân bị buộc vào bốn con ngựa, sau một tiếng lệnh người ta sẽ đánh ngựa cho cùng chạy, phạm nhân sẽ bị xé ra thành bốn mảnh là hình phạt khốc liệt nhất trong các hình phạt.
Gã lính Nguyên râu xồm kia vẫn cười đáp:
– Hoa Nhi Bất Xích đánh không lại quân phản tặc Minh Giáo, chém giết bộ thuộc bừa bãi để cho hả tức. Hôm qua đại quân nổi dậy, băm vằm cha ngươi nát nhừ ra rồi. Ở đây lại gặp hai con chó con này thì thật tốt quá.
Nói xong y giơ đao lên chém xuống đầu hai người. Triệu Mẫn vội giật dây cương cho ngựa nhảy qua tránh được. Gã Nguyên binh toan đuổi theo thì tên kia kêu lên:
– Đừng giết con bé xinh đẹp kia, bọn mình hãy phong lưu khoái hoạt một trận trước đã.
Tên râu rậm liền đáp:
– Đúng lắm, đúng lắm.
Triệu Mẫn chợt nghĩ ra một cách liền nhảy xuống ngựa chạy qua một bên đường. Hai tên lính Mông Cổ cùng xuống ngựa đuổi theo. Triệu Mẫn kêu lên ?Ối chao? rồi ngã lăn ra. Gã rậm râu liền nhảy tới ôm lưng nàng, cùi chỏ Triệu Mẫn liền thúc ra sau trúng ngay huyệt đạo trên ngực y, tên râu xồm không kịp hự lên một tiếng đã ngã lăn sang một bên. Tên còn lại đâu biết bạn mình đã bị ám toán, cũng nhảy tới, Triệu Mẫn cũng cùng một cách lại đánh trúng yếu huyệt. Hai lần đả huyệt như thế, lúc bình thời thật chẳng mất chút hơi sức nào nhưng lúc này phải thở hổn hển, mồ hôi lạnh ướt đầm đầu tóc, toàn thân dường như không còn lực khí.
Nàng gắng gượng đứng lên, đỡ Trương Vô Kỵ xuống ngựa, rút chủy thủ ra cầm trên tay quát lớn:
– Hai tên cẩu tặc phạm thượng làm loạn kia, có muốn sống không thì bảo?
Hai tên lính Mông Cổ huyệt đạo bị đánh trúng, nửa thân trên hoàn toàn tê dại, hai tay không cử động được tuy nửa thân dưới vẫn còn tri giác nhưng cũng đau đớn khó chịu. Chúng tưởng Triệu Mẫn thể nào cũng giết cả đôi, nào ngờ nghe nàng nói xem ra còn có chút hi vọng sống sót, vội nói:
– Cô nương tha mạng cho, Hoa Nhi Bất Xích tướng quân không phải chúng tôi giết hại.
Triệu Mẫn nói:
– Được, nếu các ngươi làm theo lời ta thì ta tha cho hai cái mạng chó của chúng bay khỏi chết.
Hai tên lính Mông Cổ chẳng biết nàng bắt chúng làm chuyện khó khăn gì nhưng cũng đáp liều:
– Làm ngay, làm ngay.
Triệu Mẫn chỉ vào hai con ngựa của mình nói:
– Hai chúng bay cưỡi hai con ngựa này chạy về hướng đông, trong vòng một ngày một đêm, phải chạy sao cho đủ ba trăm dặm, càng nhanh càng tốt, không được sai sẩy.
Hai gã mặt ngơ ngác, có nằm mơ cũng không ngờ được nàng lại chỉ bắt chúng làm một việc dễ đến thế, nghĩ chắc nàng muốn nói ngược để đùa chúng chăng. Gã râu xồm nói:
– Cô nương, tiểu nhân dẫu có lớn mật mấy cũng chẳng dám tơ tưởng đến con ngựa của cô nương …
Triệu Mẫn ngắt lời y nói:
– Việc đang khẩn bách, mau mau lên ngựa. Trên đường đi nếu có ai hỏi đến, ngươi phải nói là hai con ngựa này mua ngoài chợ, tuyệt đối không được đề cập đến hình dáng bọn ta, biết chưa?
Hai tên lính Mông Cổ bán tín bán nghi nhưng Triệu Mẫn luôn mồm giục giã, nghĩ bụng nếu dẫu có gì lừa dối thì cũng còn hơn là bị nàng đâm chết ngay tại chỗ nên vội xin lỗi, từng bước từng bước lết đến trèo lên yên. Người Mông Cổ từ nhỏ lớn lên trên lưng ngựa, cưỡi ngựa còn dễ hơn đi trên đường, tuy tay chân cứng đơ nhưng cũng điều khiển được con ngựa chạy. Hai đứa sợ rằng Triệu Mẫn chỉ vì hồ đồ nhất thời rồi sẽ hối hận nên chạy được vài trượng liền kẹp hai chân, thúc ngựa chạy cho nhanh.
Trương Vô Kỵ nói:
– Chủ ý của em cao minh thật. Nếu như thủ hạ của ca ca em có thấy hai con tuấn mã này, cũng tưởng hai đứa mình đi về hướng đông. Thế bây giờ chúng mình đi về hướng nào đây?
Triệu Mẫn nói:
– Mình sẽ đi về hướng tây nam.
Hai người trèo lên hai con ngựa của hai tên Mông Cổ để lại, không theo đường mà đi băng qua những vùng hoang dã đi về hướng tây nam.
Đoạn đường này toàn những loạn thạch hiểm trở, gai góc rất nhiều đâm vào chân ngựa khiến máu chảy ròng ròng, đi khập khiễng mỗi giờ chỉ được chừng hai chục dặm. Trời sắp tối bỗng thấy dưới thung lũng một luồng khói đen cuồn cuộn bốc lên. Trương Vô Kỵ mừng nói:
– Trước mặt có người ở, thôi mình tới đó xin tá túc.
Đi đến gần thấy lấp ló sau những tàn cây một góc tường màu vàng, thì ra là một cái miếu. Triệu Mẫn đỡ Trương Vô Kỵ xuống ngựa, để hai con ngựa quay đầu về hướng tây, nhặt dưới đất một cành gai, quất luôn mấy cái vào mông hai con ngựa. Hai con ngựa hí lên một tiếng dài, chạy vọt đi. Nàng tới đâu cũng bày nghi trận, chỉ mong truy binh của Vương Bảo Bảo bị lạc đường, cả đến không còn ngựa cưỡi đi lại rất gian nan nàng cũng đành chịu, chỉ cốt sao được lúc nào hay lúc ấy.
Hai người dìu lẫn nhau, từng bước từng bước đến trước miếu, thấy trên biển ngay cửa chính đề ?Trung Nhạc Thần Miếu?. Triệu Mẫn cầm chiếc vòng cửa gõ ba cái, đợi một hồi không thấy ai trả lời lại gõ thêm ba cái nữa.
Bỗng nghe bên trong cửa có tiếng người lạnh lùng hỏi:
– Người hay quỉ đó? Muốn chết hay sao?
Nghe lạch cạch mấy tiếng, cánh cửa từ từ mở ra, đằng sau có một bóng người. Khi đó trời đã sâm sẩm tối, người kia lại quay lưng ra ánh sáng nên không nhìn rõ mặt, nhưng thấy y đầu trọc mặc áo nhà tu hóa là một hòa thượng. Trương Vô Kỵ nói:
– Hai anh em chúng tôi đi đường gặp cướp, thân bị trọng thương, xin nhà chùa cho tá túc một đêm. Mong đại sư mở lòng từ bi.
Người kia hừ một tiếng, cười khẩy nói:
– Người xuất gia xưa nay có giúp đỡ ai bao giờ, các ngươi đi chỗ khác.
Y vừa toan đóng cửa, Triệu Mẫn vội nói:
– Giúp người người giúp lại, biết đâu chẳng có chỗ lợi cho mình.
Gã hòa thượng kia liền hỏi:
– Lợi chỗ nào?
Triệu Mẫn giơ tay tháo chiếc vòng đeo tai có đính hạt châu đeo đưa cho y. Gã hòa thượng thấy hạt ngọc trai trên chiếc vòng to bằng ngón tay út bèn nhìn kỹ lại hai người đánh giá thêm một lần nữa rồi nói:
– Được rồi, giúp người người giúp mình.
Y né qua một bên nhường Triệu Mẫn đỡ Trương Vô Kỵ đi vào. Nhà sư đó đưa hai người đi qua một đại điện và một gian phòng, đến bên cái chái phía đông nói:
– Hai người ở đây nhé.
Trong phòng chẳng đèn chẳng nến gì, tối om om, Triệu Mẫn đưa tay sờ thử trên giường chỉ độc một cái chiếu ngoài ra không có gì khác. Bỗng nghe bên ngoài có tiếng người nói oang oang:
– Hác tứ đệ, ngươi đưa ai vào đó?
Nhà sư kia đáp:
– Hai người khách đến ngủ nhờ.
?Nói xong y liền hấp tấp đi ra cửa. Triệu Mẫn nói:
– Sư phó, xin ông bố thí cho hai bát cơm với một ít rau dưa.
Hòa thượng kia đáp:
– Người xuất gia ăn của bá tánh chứ không bố thí.
Y nói rồi lầm lũi đi thẳng. Triệu Mẫn hậm hực nói:
– Gã hòa thượng này thật khả ố. Vô Kỵ ca ca, chàng đói lắm phải không? Mình phải tìm xem có cách nào kiếm gì ăn mới được.
Đột nhiên trong sân có tiếng chân người, có đến bảy tám người đi vào, ánh lửa lấp loáng, cửa phòng mở ra, hai nhà sư giơ cao ngọn đuốc chiếu vào hai người. Trương Vô Kỵ còn đang kinh hoảng, nhìn ra thấy có cả thảy tám tăng nhân, kẻ cao người thấp kẻ thì mày rậm mắt trố, kẻ thì mặt bành bạnh đầy hoành nhục[1], không một người nào ra vẻ lương thiện. Một nhà sư già mặt mũi nhăn nheo nói:
– Các ngươi trên người còn bao nhiêu vàng bạc châu báu, mau đưa hết ra đây.
Triệu Mẫn hỏi lại:
– Để làm gì?
Nhà sư già cười nói:
– Hai vị thí chủ có duyên đến chốn này, đúng ngay lúc tiểu miếu sắp làm một đàn tràng lớn, lại cần tô tượng đúc chuông, trùng tu sơn môn. Hai vị trong người có vàng bạc châu báu thì đem ra bố thí. Nếu như không khứng đưa cho chúng tôi, đắc tội với bồ tát thì phiền lắm đấy nhé.
Triệu Mẫn giận dữ nói:
– Làm thế có khác gì ăn cướp hay sao?
Nhà sư già đáp:
– Không dám, không dám! Tám anh em chúng tốt giết người đốt nhà, vốn dĩ là cường đạo, gần đây bỏ dao đồ tể xuống là thành Phật ngay, chẳng biết làm gì bèn làm sư sãi. Hai vị thí chủ có duyên làm thân dê béo đến tận miệng chúng tôi, ôi, thật khiến cho người xuất gia chúng tôi lục căn[2] không sao còn thanh tĩnh cho nổi.
Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn kinh hãi không để đâu cho hết, đâu ngờ tám nhà sư này lại là giặc cướp giả trang, gã hòa thượng già này nói không cần giữ ý ắt là định giết hai người, sau khi thổ lộ thân thế sẽ ra tay không tha.
Một nhà sư khác cười nham hiểm:
– Nữ thí chủ không phải sợ, tám hòa thượng cường đạo chúng tôi đang cần một áp miếu phu nhân, cô xinh đẹp như thế, thật chẳng khác gì Quan Thế Âm bồ tát hạ phàm, Phật Như Lai nhìn thấy cũng còn động tâm. Hay quá, hay quá!
Triệu Mẫn lấy trong bọc ra bảy tám đỉnh vàng, một vòng hạt châu để lên trên bàn nói:
– Tài vật châu báu có tất cả bây nhiêu thôi. Anh em chúng tôi cũng là người trong võ lâm, mong các vị giữ nghĩa khí giang hồ.
Nhà sư già cười hỏi:
– Hai vị là người trong võ lâm, vậy thì quả là tốt lắm, không biết là môn hạ phái nào đó?
Triệu Mẫn đáp:
– Chúng tôi là đệ tử phái Thiếu Lâm.
Phái Thiếu Lâm là môn phái lớn nhất trong võ lâm, nàng đoán chừng nếu tám người này nếu không xuất thân từ một bàng chi của Thiếu Lâm thì thân hữu cũng có người liên hệ với phái này. Nhà sư kia ngạc nhiên nhưng lập tức mắt lộ hung quang nói:
– Là đệ tử của Thiếu Lâm à? Thế thì thật là khéo, hai đứa trẻ ranh chúng bay chỉ nên trách mình đầu nhập lầm môn phái thôi.
Y giơ tay toan chộp vào cổ tay nàng. Triệu Mẫn vội rụt tay lại, gã sư già liền bắt hụt. Trương Vô Kỵ thấy tình thế trước mắt thật là nguy ngập, cả mình lẫn Triệu Mẫn hai người đều bị trọng thương, không cách nào chống cự, mấy năm qua chàng đã giao đấu với không biết bao nhiêu cao thủ thành danh trong võ lâm, chẳng lẽ hôm nay lại chết về tay tám tên cường đạo hạng ba hạng tư trên giang hồ? Dầu sao chăng nữa, không thể nào giương mắt nhìn Triệu Mẫn bị nhục liền nói:
– Mẫn muội, em trốn vào sau lưng anh, để anh thanh toán tám tên giặc cỏ này.
Triệu Mẫn là người bụng đầy mưu mẹo, lúc này cũng đành bó tay liền hỏi:
– Các ngươi là hạng người nào?
Lão già kia liền đáp:
– Bọn ta là bạn đồ của phái Thiếu Lâm bị đuổi ra khỏi chùa, gặp người của môn phái khác còn ra tay nể nang một chút, còn như gặp phải đệ tử Thiếu Lâm thì không thể tha được. Tiểu cô nương, vị huynh đệ này vốn dĩ muốn giữ cô làm áp miếu phu nhân, bây giờ biết cô là đệ tử Thiếu Lâm, bọn ta đành phải tiên gian hậu sát, không để ai sống sót cả.
Trương Vô Kỵ trầm giọng nói:
– Giỏi thật! Các ngươi là môn hạ của Viên Chân, phải không nào?
Nhà sư già kia ?Ồ? lên một tiếng nói:
– Thế thì lạ thật, làm sao ngươi biết?
Triệu Mẫn liền tiếp lời:
– Bọn ta đang lên chùa Thiếu Lâm đây để gặp Trần Hữu Lượng đại ca suy cử Viên Chân đại sư lên làm phương trượng.
Lão tăng kia liền nói:
– Thiện tai, thiện tai! Ngã Phật Như Lai, phổ độ chúng sinh.
Triệu Mẫn đáp:
– Đúng thế! Chúng mình phải đồng tâm hiệp lực để cùng làm cho xong việc thiện này.
Nàng vừa nói câu đó, cả tám nhà sư cùng cười ha hả. Thì ra tám tên hòa thượng đó vốn cùng một đảng với Viên Chân và Trần Hữu Lượng, do Trần Hữu Lượng dẫn nhập, xin làm môn hạ của Viên Chân. Mấy năm nay lòng mong muốn làm phương trượng của Viên Chân càng gấp gáp nên thu nhận nhân tài khắp nơi. Tuy nhiên chùa Thiếu Lâm giới luật nghiêm nhặt, mỗi khi thu nhận một người nào đều phải do người chấp chưởng giới luật giám tự tra xét kỹ càng xuất thân lai lịch chứ không phải Viên Chân muốn thu ai cũng được.
Do đó Trần Hữu Lượng mới hiến kế rằng mời gọi các hào kiệt giang hồ, cướp sông cướp biển bái sư ở bên ngoài chùa, tuy cũng là đệ tử của Viên Chân nhưng không vào ở trong chùa Thiếu Lâm, đợi khi thời cơ đến cùng đứng lên làm đại sự. Võ công của Viên Chân cao siêu biết chừng nào, chỉ cần ra tay đều khiến cho quần hào giang hồ kính phục. Những người đó vốn dĩ ngưỡng mộ uy vọng danh môn chính phái của phái Thiếu Lâm, lại trông thấy thần công tuyệt kỹ của Viên Chân nên ai nấy đều bằng lòng bái sư.
Một số nhỏ không chịu phản bội môn hộ liền bị Viên Chân ra tay trừ ngay, thành ra gian mưu của y tuy tính toán đã lâu nhưng không bị bại lộ. Nhà sư già kia nói ?Ngã Phật Như Lai, Phổ Độ Chúng Sinh? chính là ám hiệu khi gặp để nhận nhau, nếu người cùng trong đảng sẽ đáp là ?Hoa Khai Kiến Phật, Tâm Tức Linh Sơn? là biết liền. Triệu Mẫn vừa nghe nhà sư già kia mở miệng nhận là đệ tử của Viên Chân, liền suy ra Viên Chân chắc có âm mưu lên làm phương trượng thế nhưng cái ám hiệu của họ định với nhau thì làm sao biết được?
Một nhà sư lùn mập liền hỏi:
– Phú đại ca, con nhãi này nói đến chuyện suy cử sư phụ chúng ta lên làm phương trượng chùa Thiếu Lâm, không biết cái tin tức đó từ đâu ra? Sự việc trọng đại như thế không thể không tra hỏi cho rõ ràng.
Tám gã này tuy đã cạo đầu làm sư nhưng vẫn gọi nhau bằng đại ca, nhị ca chưa bỏ thói quen từ thuở còn là lục lâm. Trương Vô Kỵ vừa nghe thấy tiếng cười của bọn chúng biết là không xong, có điều mới bị trong thương chân khí không sao ngưng tụ, chỉ đành cố gắng thu nhiếp tâm thần, thấy hơi nóng bốc lên bừng bừng bên đông một mảng, bên tây một khối nhưng không sao vận chuyển vào kinh mạch được.
Nhà sư già kia giơ năm ngón tay như vuốt chim vồ tới Triệu Mẫn, nàng không có cách nào chống đỡ, chỉ đành co người xuống gầm giường còn Trương Vô Kỵ nóng ruột nhưng không cách nào khác hơn là ngồi xếp bằng vận công, chỉ mong khôi phục được hai, ba thành công lực đủ đế đánh bại tám tên ác tặc này.
Gã sư lùn mập thấy chàng còn ra bộ ra tịch ngồi hành công đả tọa, giận dữ quát lớn:
– Thằng khốn này không biết sống chết là gì, để ông cho mày về chầu tây phương trước đã, đỡ vướng chân vướng tay.
Nói xong tay phải vung lên, xương cốt kêu lốp cốp, nghe vù một tiếng đánh luôn một quyền ngay ngực Trương Vô Kỵ. Triệu Mẫn thấy tình hình nguy cấp, hoảng hốt kêu lên. Chỉ thấy tăng nhân đó đấm ra xong, tay phải mềm nhũn thõng xuống, hai mắt trừng trừng, đứng như trời trồng. Nhà sư già kinh hãi giơ tay đẩy vào y, gã sư lùn mập lập tức ngã xuống, thì ra y đã chết rồi. Tất cả các nhà sư khác vừa sợ, vừa tức, nhao nhao hò hét:
– Thằng nhãi này có yêu pháp, có tà thuật.
Thì ra gã sư mập vận kình vào cánh tay, đấm thẳng vào ngực Trương Vô Kỵ, trúng ngay huyệt Đàn Trung. Cửu Dương thần công của Trương Vô Kỵ dùng để đánh người thì chưa đủ nhưng hộ thể thì lại có thừa, không những trả ngược lại quyền kình của đối phương mà còn nhân cú đánh của địch, dẫn động Cửu Dương chân khí trong người, tăng thêm một luồng kình lực nữa nên gã sư mập kia lập tức chết ngay.
Gã sư già đoán rằng trên ngực Trương Vô Kỵ có dấu mũi tên hay món gì nhọn sắc tẩm độc khiến cho gã kia bị trúng phải nên lập tức xuất chưởng đánh vào tay phải lộ ra ngoài áo của chàng, định rằng đánh gãy hai cánh tay trước rồi sẽ từ từ thanh toán sau. Chưởng lực cương mãnh đó trúng tay Trương Vô Kỵ, khích động Cửu Dương chân khí trong người phản kích ra, gã sư già bị bắn văng trở lại, thế mạnh như tên bắn, nghe loảng xoảng một tiếng lớn đã vỡ tung cửa sổ ra ngoài, đụng phải một cây hòe lớn ngoài sân đầu vỡ nát chết tươi.
Bọn sư còn lại kêu réo om sòm, một tên nhắm ngay huyệt Thái Dương đấm một quyền, còn một tên khác dùng thế Song Long Sang Châu giơ hai ngón tay móc mắt, một tên nữa giơ chân đá luôn vào huyệt Đan Điền của Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ cúi đầu tránh đôi mắt, để cho y đâm vào trán, chỉ nghe bình bình, ối ối, hự hự mấy tiếng lớn, ba nhà sư trước sau bị chấn động chết cả. Gã thứ ba giơ chân đá, lực đạo hết sức mãnh liệt, chân y cũng bị gãy rời. Nơi đan điền Trương Vô Kỵ bị trúng cú đá, chân khí bùng lên, cả một nửa bên phải mạch lạc đều quán thông, trong bụng mừng thầm: ?Tiếc thay tên ác tăng này chết sớm quá, giá như y đá thêm vào bụng mình mấy cái nữa, giúp mình khôi phục công lực mau hơn. Xem ra ta bị thương tuy có nặng thật nhưng việc khôi phục không lấy gì làm khó, chỉ cần nghỉ ngơi mười ngày nửa tháng là sẽ trở lại như xưa?.
Tám nhà sư đã chết năm, ba tên còn lại sợ đến hồn vía lên mây, vội vàng chen nhau chạy ra cửa. Chạy ra đến ngoài không thấy Trương Vô Kỵ đuổi theo chúng mới đứng lại bàn tán. Một gã nói:
– Gã tiểu tử này chắc có tà pháp.
Một gã khác nói:
– Ta xem không phải tà pháp đâu mà là nội công y ghê gớm lắm, phản kích lại giết người.
Tên thứ ba nói:
– Đúng thế, bọn mình phải tìm cách báo thủ cho các anh em kia.
Ba tên bàn bạc một hồi, một tên bỗng nói:
– Thằng nhãi đó chắc là bị thương nặng lắm, chứ sao không đuổi theo tụi mình ra ngoài đây?
Một tên bèn vui mừng nói:
– Đúng lắm, chắc nó không đi lại được, năm anh em kia dùng quyền đánh y, y mới dùng nội lực phản kích được, bọn mình dùng binh khí chém y đâm y, chẳng lẽ nó có mình đồng da sắt hay sao?
Ba tăng nhân tính toán xong, một tên cầm ngọn giáo, một têm cầm đao, tên kia cầm kiếm đi vào trong nhà. Chỉ thấy căn phòng phía đông lặng như tờ không một tiếng động. Ba gã sư tới đập gãy một cánh cửa sổ nhìn vào thấy thanh niên nọ vẫn ngồi xếp bằng tĩnh tọa, trông ra vẻ thật là mỏi mệt, thân hình lắc lư dường như có thể ngã gục xuống bất cứ lúc nào. Thiếu nữ thì cầm một chiếc khăn tay, chấm những giọt mồ hôi trên trán người con trai. Ba người đưa mắt cho nhau nhưng không ai dám xông vào. Một nhà sư quát lên:
– Thằng nhãi thối tha kia, có giỏi thì ra đây đấu với lão gia ba trăm hiệp xem nào.
Một người khác lại chửi:
– Tiểu tử này có tài cán gì đâu, chỉ có tài dùng yêu pháp hại người. Cái trò đó là trò hạ lưu vô sỉ hạng ba hạng tư, thật là đê tiện.
Ba tên sư không thấy Trương Vô Kỵ trả lời, cũng chẳng xuống giường, nên mỗi lúc một thêm can đảm hơn, lời lẽ chửi bới càng lúc càng dơ bẩn, trong đám đệ tử Phật môn chắc chẳng một ai hơn được ba vị đại hòa thượng này.
Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn nghe ba gã kia mồm năm miệng mười nhưng không thấy gì tức giận, vì hai người không sợ họ quay lại báo thù, mà lại sợ họ bỏ đi mất. Nơi này không xa chùa Thiếu Lâm là bao nhiêu, nếu như tam tăng đi báo cho Thành Côn hay thì mọi việc kể như xong. Vết thương của Trương Vô Kỵ phải hơn mười ngày nữa mới khỏi, không cần phải đích thân Thành Côn đến nơi mà chỉ cần một hai cao thủ hạng nhì, chẳng hạn như Trần Hữu Lượng thì cũng đã không cách gì đối phó nổi. Thành thử họ thấy ba gã ác tăng kia quay lại, trong lòng lại mừng thầm. Trương Vô Kỵ bị liên tiếp năm nhà sư tập kích, Cửu Dương chân khí trong cơ thể đã có chỗ bắt đầu ngưng tụ, tuy chưa có thể phát kình đả thương địch thủ, nhưng trong bụng cũng không còn kinh hoảng như trước nữa.
Đột nhiên nghe bình một tiếng, một nhà sư đã giơ chân đá tung cửa phòng, xông vào, ánh sáng xanh lấp loáng, chiếc tua đỏ rung động, trong tay y cầm một cái giáo dài. Triệu Mẫn kêu lên:
– Chao ôi!
Nàng vội vàng đưa chiếc dao găm cho Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ lắc đầu không cầm, trong bụng kêu khổ thầm: ?Tay ta không còn một chút kình lực nào, dẫu có binh khí, làm sao chiến đấu được? Cái thân thể máu thịt của ta, làm sao có thể chịu được với binh khí đây??. Chưa kịp suy nghĩ, địch nhân đã xoáy đầu thương, chiếc ngù tung bay, mũi giáo đâm thẳng vào ngực chàng. Mũi thương đó đến thật nhanh nhưng ý nghĩ của Triệu Mẫn còn nhanh hơn, nàng vội vàng thò tay vào bọc Trương Vô Kỵ lấy ra một chiếc thánh hỏa lệnh, nhắm đúng ngay chỗ mâu đâm tới, chặn ngay trên ngực Trương Vô Kỵ, nghe keng một tiếng, mũi giáo trúng ngay vào lệnh bài. Ỷ Thiên kiếm sắc bén là thế mà cũng còn không chặt đứt được thánh hỏa lệnh nên chiếc giáo đâm thì có ăn thua gì. Cái đâm đó khích động Cửu Dương chân khí trong người Trương Vô Kỵ, bật ngược trở lại, chỉ nghe ?A? một tiếng thảm thiết, cán thương đã đâm vào ngực gã tăng nhân.
Nhà sư đó chưa ngã xuống thì gã thứ hai đã múa đơn đao chém xuống đầu Trương Vô Kỵ. Triệu Mẫn sợ một miếng lệnh bài không đủ sức chặn sự sắc bén của đơn đao, hai tay mỗi tay cầm một chiếc thánh hỏa lệnh, đỡ ngay trên đầu Trương Vô Kỵ. Cái đỡ đó quả thật chỉ trong đường tơ kẽ tóc, lại nghe keng một tiếng nữa, đơn đao bật trở về, sống đao đập vỡ trán nhà sư nhưng ngón tay út bên trái của Triệu Mẫn cũng bị đao cắt mất một mẩu, trong cơn nguy cấp nên chưa cảm thấy đau.
Tăng nhân thứ ba cầm kiếm xông vào đến cửa, thấy hai tên đồng bọn đã chết tươi, y hoảng hốt kêu toáng lên xoay mình chạy ra ngoài. Triệu Mẫn kêu lên:
– Đừng để y chạy thoát.
Nàng cầm một chiếc thánh hỏa lệnh theo cửa sổ ném theo, tuy rất chính xác nhưng không có lực nên chưa đến được gã kia thì đã rơi bịch xuống đất. Trương Vô Kỵ ôm lấy nàng kêu lên:
– Ném nữa đi.
Chàng đem hết chân khí ngưng tụ được trên ngực truyền vào sau lưng nàng, chiếc thánh hỏa lệnh bên tay trái của Triệu Mẫn lại nhắm nhà sư ném theo, gã kia chỉ chạy cần chạy thêm hai bước nữa là có thể ẩn sau bức tường nhưng chiếc lệnh bài bay tới thật nhanh, trúng giữa lưng y, máu mồm phun ra gục xuống chết ngay.
Thánh hỏa lệnh vừa rời khỏi tay, Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn cũng hôn mê bất tỉnh, ôm nhau ngã gục xuống khỏi giường. Lúc này trong phòng có sáu người chết, ngoài sân lại thêm hai tử thi, Trương Triệu hai người nằm gục trong vũng máu. Hoang sơn tiểu miếu, lãnh nguyệt thanh phong, chỉ giây lát im lìm không một tiếng động.
Qua một lúc lâu, Triệu Mẫn tỉnh dậy trước, mơ mơ màng màng giơ tay sờ mũi Trương Vô Kỵ, thấy chàng hô hấp tuy yếu nhưng dài và bình ổn. Nàng gắng gượng đứng lên nhưng không có sức đỡ chàng lên giường, đành cố nâng đầu tình lang gác lên một cái xác chết. Nàng ngồi trong đám người chết thở hổn hển. Lại thêm một hồi nữa, Trương Vô Kỵ mở mắt ra, gọi khẽ:
– Mẫn muội, em … em ở đâu?
Triệu Mẫn nở một nụ cười, ánh trăng lạnh chiếu qua khung cửa sổ, hai người nhìn thấy nhau mặt ai cũng đầy vết máu, trông thật ghê rợn, thế nhưng vì chết đi sống lại nên cảm thấy hết sức êm ái ngọt ngào, giang hai tay ôm chặt lấy nhau.
Trong cơn kịch chiến đó, giết được bảy nhà sư đầu tiên Trương Vô Kỵ không tốn chút hơi sức nào, chỉ mượn sức đánh sức, đã không hao hụt mà ngược lại còn có ích, thế nhưng lần cuối cùng dùng sức ném thánh hỏa lệnh giết tên ác tăng, nguyên khí hai người bị mất hết. Lúc này họ không còn sức để cử động, chỉ đành nằm giữa đống người chết chờ cho khí lực phục hồi. Triệu Mẫn băng ngón tay trái bị thương, mơ mơ màng màng cũng ngủ thiếp đi.
Mãi đến giữa trưa hôm sau hai người mới trước sau tỉnh dậy. Trương Vô Kỵ đả tọa vận khí, điều tức đến hơn nửa giờ, tinh thần phần chấn, cố gắng đứng lên thấy bụng đói đến sôi lên lục cục, mò xuống dưới bếp, thấy một nồi cơm đến quá nửa đã thành than, còn một nửa thì khê nồng cháy khét, liền xới lấy một bát lớn đem lên phòng. Triệu Mẫn cười nói:
– Hai đứa mình hôm nay ăn uống càn bậy thế này, chỉ nên trời biết, đất biết, chàng biết thiếp biết, chớ nên để người khác biết nhé.
Hai người nhìn nhau cười, thò tay bốc cơm cháy ăn, thấy mùi vị sao thật ngon lành, xem chừng còn hơn các món sơn hào hải vị. Bát cơm chưa ăn xong, bỗng nghe từ xa có tiếng chân ngựa đạp trên đá núi vọng tới.
Choang một tiếng, chiếc bát cơm cháy rơi xuống đất vỡ tan. Triệu Mẫn và Trương Vô Kỵ hai người bàng hoàng nhìn nhau, tim đập thình thình, nghe tiếng thấy cả thảy hai con ngựa, đến trước miếu liền ngừng lại. Kế đó có bốn tiếng vòng kêu, người nào đó đã gõ cửa, ngừng lại một lát, rồi lại gõ thêm bốn tiếng. Trương Vô Kỵ nói nhỏ:
– Làm sao bây giờ?
Chỉ thấy bên ngoài có tiếng người kêu réo:
– Thượng Quan tam ca, ta là Tần lão ngũ đây!
Triệu Mẫn đáp:
– Bọn họ thể nào cũng phá cửa vào, mình giả vờ chết rồi tùy cơ ứng biến.
Hai người nằm phục trên đám người chết, úp mặt xuống. Vừa mới nằm xong, bỗng nghe bình một tiếng lớn, cửa miếu đã bị phá tung ra, cứ theo thế huých vào cửa thì sức cánh tay của người vừa đến không phải là yếu. Triệu Mẫn bỗng nghĩ ra một kế nói:
– Chàng phục tại bên cửa, chặn đường đi của hai gã này.
Trương Vô Kỵ gật đầu, đến nằm bên ngạch cửa. Bỗng nghe thấy mấy tiếng kêu kinh hoảng, xoẹt xoẹt hai tiếng, hai kẻ tiến vào miếu đã rút binh khí cầm tay, hẳn là họ đã thấy mấy cái xác nơi sân. Một người nói khẽ:
– Cẩn thận, phòng bị địch nhân ám toán.
Lại nghe tiếng một người khác kêu lên:
– Này các bạn, thập thò ẩn náu đâu có phải là kẻ anh hùng. Nếu có giỏi thì ra đây cùng lão tử một trận tử chiến.
Người đó âm thanh oang oang, trung khí sung túc, chắc là đại lực sĩ vừa phá cửa hồi nãy. Y liên tiếp kêu mấy lần, chung quanh không thấy có tiếng trả lời bèn nói:
– Bọn giặc chắc đi xa rồi.
Lại nghe tiếng một người lập cập nói:
– Mình xem xét bốn bề cho kỹ, đừng để trúng ngụy kế của địch nhân.
Gã Tần lão ngũ kia nói:
– Thọ lão đệ, ngươi tra xét bên phía đông, ta tra xét bên phía tây.
Gã họ Thọ kia dường như trong bụng sợ hãi nói:
– Chỉ sợ bên địch đông người, mình nên ở chung một chỗ cho khỏi lẻ loi.
Tần lão ngũ chưa kịp quyết định, gã họ Thọ đột nhiêu ?Ồ? lên một tiếng, chỉ vào căn phòng phía đông nói:
– Trong kia … trong kia có người chết kìa.
Hai người chạy đến bên cửa, chỉ thấy trong căn phòng nhỏ, bảy tám người nằm chết ngang dọc. Tần lão ngũ nói:
– Tất cả … tất cả tám anh em trong miếu này sao chết cả. Không biết ai là người hạ độc thủ?
Tên họ Thọ nói:
– Tần ngũ ca, mình nên cấp tốc trở về chùa, bẩm … bẩm … lại cho sư phụ hay.
Tần lão ngũ trầm ngâm rồi nói:
– Sư phụ dặn dò chúng ta, phải mau mau đưa thiếp đi mời để kịp mở Đồ Sư Anh Hùng Hội vào dịp Tết Đoan Ngọ, nếu như làm lỡ việc thì tội không phải là nhỏ.
Trương Vô Kỵ nghe thấy mấy tiếng Đồ Sư Anh Hùng Hội, hơi suy nghĩ, không khỏi vừa kinh hoàng, vừa mừng rỡ, lại băn khoăn, giận dữ, trăm mối trong lòng nghĩ thầm: ?Sư phụ y sai gửi thiếp mời, mở cái gì Đồ Sư Anh Hùng Hội là để chiêu tập anh hùng thiên hạ, trước mặt mọi người giết nghĩa phụ ta. Xem ra như thế, trước kỳ Tết Đoan Ngọ này, tính mạng nghĩa phụ không sao cả. Ta không bảo vệ cho nghĩa phụ được chu toàn, để lão nhân gia rơi vào tay kẻ gian để chịu chiết nhục, thật còn gì bất hiếu bất nghĩa cho bằng?.
Chàng càng nghĩ càng tức, hận không thể lập tức giết chết hai kẻ gian này, nhưng lại sợ bọn chúng bỏ chạy, mà mình thì không có sức đuổi theo, đành phải đợi cho chúng tiến vào phòng, chặn lối đi, cứ y như cũ dùng Cửu Dương chân khí phản kích giết kẻ địch. Ngờ đâu hai người nọ thấy trong phòng đầy xác chết, không muốn bước vào, chỉ đứng ngoài xa bàn bạc.
Gã họ Thọ nói:
– Chuyện lớn như thế này phải sớm bẩm lại với sư phụ là hơn.
Tần lão ngũ đáp:
– Thế cũng được, hai đứa mình chia ra làm, ta đi gửi thiếp, ngươi về chùa bẩm lại cho sư phụ.
Gã họ Thọ lại sợ đi đường gặp cường địch, trù trừ chưa trả lời. Tần lão ngũ bực mình nói:
– Thế thì để cho ngươi chọn, nếu ngươi thích đi đưa thiếp thì cứ việc đi.
Gã họ Thọ lại trầm ngâm, sau nghĩ lại thấy về chùa xem chừng an toàn hơn nên nói:
– Thôi cứ như Tần ngũ ca sắp đặt, để đệ về chùa bẩm báo cũng được.
Hai người lập tức quay ra. Triệu Mẫn liền cử động, rên lên mấy tiếng. Tần Thọ hai người kinh hãi, quay đầu lại, thấy Triệu Mẫn đang nhúc nhích, nhìn kỹ lại hóa ra là một cô gái. Tần lão ngũ lạ lùng hỏi:
– Cô gái này là ai thế nhỉ?
Y đi vào phòng. Gã họ Thọ tuy nhát gan nhưng thấy đó chỉ là một cô gái, lại đang bị thương nặng sắp chết nên không sợ hãi, cũng theo sau. Tần lão ngũ giơ tay nắm lấy vai Triệu Mẫn, Trương Vô Kỵ liền ho lên một tiếng, ngồi dậy xếp bằng vận khí, mắt nửa thức nửa ngủ. Tần, Thọ thấy chàng đột nhiên ngồi dậy, trên mặt đầy vết máu, trông thật ghê rợn nên hai đứa cùng kinh hoảng. Gã họ Thọ kêu lên:
– Hỏng rồi, đây là quỉ nhập tràng. Con quỉ … quỉ … này âm hồn không tan, Tần ngũ ca nên … nên cẩn thận.
Nói rồi y vội vàng nhảy lên giường. Tần lão ngũ quát lên:
– Quỉ nhập tràng tác quái à! Họ Tần này đâu có sợ ngươi.
Y vung đao chém thẳng xuống đầu Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ trong tay đã cầm sẵn hai miếng thánh hỏa lệnh, lập tức giơ lên đỡ trên đầu, nghe keng một tiếng, lưỡi đao đã chém trúng thánh hỏa lệnh, bật ngược trở lại, trúng đầu Tần lão ngũ vỡ nát, chết ngay lập tức.
Tên họ Thọ tay cầm một thanh quỉ đầu đao, run bần bật, cũng muốn chém vào mình Trương Vô Kỵ nhưng nào có dám? Trương Vô Kỵ chỉ chờ y chém xuống là sẽ dùng Cửu Dương chân khí phản kích lại. Triệu Mẫn thấy người này hồi lâu không động đậy, nóng ruột: ?Tên quỉ nhát gan này hồn vía lên mây, không dám động thủ, nếu như y quẳng đao bỏ chạy thì mình đâu có làm gì được y?. Chỉ thấy hai hàm răng y đánh vào nhau lốp cốp, đột nhiên nghe xoảng một tiếng, thanh quỉ đầu đao đã rơi xuống đất. Trương Vô Kỵ nói:
– Ngươi có giỏi thì chém ta một đao, đấm ta một đấm xem nào.
Người kia đáp:
– Tiểu … tiểu nhân không phải … không dám cùng lão gia động thủ.
Trương Vô Kỵ nói:
– Thế thì ngươi đá ta một cái xem nào.
Người kia nói:
– Cái đó … cái đó tiểu … tiểu nhân lại càng không dám.
Trương Vô Kỵ giận nói:
– Nếu như ngươi bị thịt như thế thì chết càng thảm thiết hơn, mau chém ta mấy đao đi nào. Nếu ta thấy thủ kình ngươi không đến nỗi tệ, không chừng tha mạng cho ngươi đó.
Người kia vội đáp:
– Dạ, dạ.
Y cúi xuống nhặt thanh đao lên nhưng liếc mắt thấy Tần lão ngũ đầu nát ngướu, nghĩ thầm con quỉ nhập tràng này pháp lực cao cường, chi bằng cố sức van xin may ra y tha mạng cho, vội vàng quì xuống, khấu đầu nói:
– Lão gia tha mạng cho! Người chết oan, không … không liên quan gì đến tiểu nhân, người đừng bắt … tiểu nhân … đòi mạng.
Triệu Mẫn thấy y tưởng Trương Vô Kỵ đã chết rồi, trong bụng tức lắm, hừ một tiếng nói:
– Trong võ lâm sao lại có hạng người chó chết vô tích sự đến như ngươi là sao?
Người kia đáp:
– Vâng, vâng! Tiểu nhân vô tích sự, vô tích sự, quả đúng là đồ chó chết, đồ chó chết.
Y không dám ra tay, Trương Vô Kỵ cũng đành chịu không thể làm gì được, đột nhiên nghĩ ra một cách quát lên:
– Lại đây.
Gã kia vội đáp:
– Vâng.
Y tiến lên mấy bước, rồi lại quì xuống. Trương Vô Kỵ giơ hai tay ra, giơ hai ngón tay cái ấn vào hai mắt y, thét lớn:
– Ta móc hai mắt ngươi trước đã.
Người kia sợ hãi quá, không nghĩ ngợi gì thêm, vội vàng giơ lên gạt tay Trương Vô Kỵ ra. Trương Vô Kỵ chỉ đợi y đẩy tay mình, lập tức mượn ngay sức của y, vòng xuống điểm luôn vào hai huyệt Thần Phong và Bộ Lang dưới vú y.
Người kia toàn thân tê tái, ngã lăn quay ra, lớn tiếng van xin:
– Lão gia tha mạng cho, lão gia tha mạng cho. Thì ra lão gia không phải quỉ nhập tràng, thế thì hay quá, càng … càng nên tha mạng cho tiểu nhân.
Lúc này y nằm gục ngay trước Trương Vô Kỵ nên nhìn rõ đối phương là người còn sống. Triệu Mẫn biết rằng Trương Vô Kỵ vừa mới mượn sức điểm huyệt, nhưng lực mượn được rất là yếu, chỉ khiến cho y tạm thời bị tê chân tay nhưng vẫn còn hành động được, chưa đến nửa giờ sau, các huyệt đạo bị phong sẽ được giải khai, khi đó sẽ lại càng phiền nhiễu. Nàng còn nhiều điều muốn tra vấn y cho minh bạch nên không muốn giết y ngay nên nói:
– Ngươi đã bị vị gia đài này điểm trúng tử huyệt, ngươi thử hít một hơi xem xương sườn bên trái có ngâm ngẩm đau không?
Người y làm theo hít một cái, quả nhiên thấy mấy rẻ xương sườn bên trái hơi đau, thực ra đó chỉ là hiện tượng khí huyết bị bế tắc mà sinh ra nhưng y đâu có biết nên vội hốt hoảng van xin. Triệu Mẫn nói:
– Muốn tha mạng cho ngươi ư? Thế thì phải dùng kim châm giải các tử huyệt mới được. Quả thật là mất công quá đỗi.
Gã kia lập tức rập đầu nói:
– Dù sao chăng nữa thì cô nương cũng xin ra tay giúp cho một phen. Cô nương cứu mạng cho tiểu nhân, dù có phải làm trâu làm ngựa, cô nương sai bảo gì cũng được.
Triệu Mẫn cười thầm trong bụng nói:
– Nhân vật giang hồ như ngươi, thật ta mới thấy lần đầu. Thôi được rồi, ngươi đi kiếm một cục gạch đem về đây cho ta.
Người kia vội vàng đáp:
– Vâng, vâng.
Y tập tễnh đi ra ngoài kiếm một cục gạch. Trương Vô Kỵ hỏi nhỏ:
– Em lấy cục gạch làm gì thế?
Triệu Mẫn mỉm cười:
– Cứ chờ xem sẽ thấy nàng tiên này làm phép lạ.
Gã kia kiếm được một cục gạch cung kính đem vào phòng. Triệu Mẫn rút trên đầu ra một cành kim thoa, để mũi châm đúng ngay huyệt Khuyết Bồn trên đầu vai y rồi bảo:
– Ta dùng kim châm giải khai kinh mạch nửa người trên cho ngươi trước cho khí của tử huyệt khỏi bốc lên óc thì hết cách chữa. Nhưng không biết vị gia đài kia có bằng lòng tha chết cho ngươi không?
Gã đưa mắt nhìn Trương Vô Kỵ đầy vẻ van lơn cầu khẩn. Trương Vô Kỵ liền gật đầu. Gã kia mừng quá nói:
– Vị đại gia kia bằng lòng rồi, xin cô nương mau mau ra tay giúp cho.
Triệu Mẫn nói:
– Ồ, ngươi có sợ đau không?
Người kia nói:
– Tiểu nhân chỉ sợ chết chứ đâu có sợ đau.
Triệu Mẫn nói:
– Thế thì được! Ngươi cầm hòn gạch đập vào đuôi kim thoa.
Người kia nghĩ kim thoa đâm vào vai cũng chỉ là bị thương ngoài thịt da, nên không nhăn nhó gì, cầm viên gạch lên đập xuống. Viên gạch đập xuống, chiếc trâm liền cắm vào huyệt Khuyết Bồn, y không cảm thấy đau mà lại thấy khoan khoái, đối với Triệu Mẫn càng thêm tin tưởng, luôn mồm cảm ơn rối rít. Triệu Mẫn lại bảo y rút kim ra, để vào các huyện Hồn Môn, Phách Hộ, Thiên Trụ, Khố Phòng … bảy nơi huyệt đạo châm vào. Trương Vô Kỵ mỉm cười nói:
– Được rồi! Được rồi!
Chàng đứng lên, nghĩ thầm người này nếu những huyệt đạo này đã bị châm vào, nếu như đào tẩu khỏi miếu, cố sức chạy cho nhanh, những huyệt bị điểm sẽ lập tức phát tác khiến y lăn ra chết ngay.
Triệu Mẫn nói:
– Ngươi đi kiếm hai chậu nước cho chúng ta rửa mặt rồi đi nấu cơm. Nếu ngươi muốn thì cứ việc bỏ thuốc độc vào cơm canh, thế là cả ba người mình cùng chết.
Người kia vội nói:
– Tiểu nhân đâu dám, tiểu nhân đâu dám.
Thế là tự nhiên Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn có được một người đầy tớ chăm lo săn sóc cho mình. Triệu Mẫn hỏi tên họ mới hay y họ Thọ, tên Nam Sơn, lại có cái ngoại hiệu Vạn Thọ Vô Cương, là cái tên bạn bè giang hồ chế riễu đặt cho chỉ vì y đụng chuyện là rụt đầu rụt cổ nên sẽ không bao giờ bị người ta giết cả. Y theo một đám lục lâm hảo hán xin làm môn hạ Viên Chân, nhưng Viên Chân thấy tư chất y kém cỏi quá, tính tình lại nhút nhát, chỉ sai y làm những việc vặt chưa từng truyền thụ y chút võ công nào. Thọ Nam Sơn bị điểm tám nơi huyệt đạo nhưng sức lực không mất, bị Triệu Mẫn sai hết việc nọ đến việc kia, thực là chăm chỉ ngoan ngoãn. Y đem chín cái xác ra vườn sau đào huyệt chôn cất, xách nước rửa sạch các vết máu trong miếu. Khéo làm sao Thọ Nam Sơn tuy võ công chẳng đâu vào đâu nhưng tài nấu nướng thì thuộc loại hạng nhất, nấu mấy món ăn, Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn ăn khen lấy khen để.
Sau khi mọi việc đã đâu vào đấy, Trương Triệu hai người mới tra hỏi tình hình Đồ Sư Anh Hùng Hội ra thế nào. Thọ Nam Sơn không dám dấu diếm, nhưng vì mọi người coi y chẳng vào đâu nên nhiều việc không cho y hay. Y chỉ biết Không Văn đại sư, phương trượng chùa Thiếu Lâm ủy thác cho Viên Chân chủ trì đại hội, Không Văn và Không Trí đứng tên gửi thiếp mời anh hùng hảo hán các môn phái, các bang hội đến Tết Đoan Ngọ tới chùa Thiếu Lâm có việc quan trọng cần thương lượng.
Trương Vô Kỵ cầm các anh hùng thiếp lên coi, thấy người được mời là Phù Trần Tử, Cổ Tùng Tử, Qui Tạng Tử … các kiếm khách phái Điểm Thương thành danh đã lâu nhưng ẩn cư nơi Điền Nam[3], xưa nay không lai vãng với nhân sĩ võ lâm Trung Nguyên. Đến nay ngay cả phái Điểm Thương mà chùa Thiếu Lâm cũng mời đủ biết kỳ đại hội này khách khứa rất đông, cực kỳ qui mô. Phái Thiếu Lâm là lãnh tụ võ lâm, lại chính Không Văn, Không Trí ra mặt đứng tên mời, hẳn người nhận được thiếp dù có việc gì quan trọng đến đâu cũng phải gác qua một bên để đi phó hội.
Trương Vô Kỵ thấy trên tấm thiệp mời chỉ có vài chữ viết là: ?Kính mời đến tiết Đoan Dương tụ hội tại chùa Thiếu Lâm, để cùng anh hùng thiên hạ uống chén rượu mừng? nhưng không thấy hai chữ ?Đồ Sư? liền hỏi: