Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Ỷ Thiên Đồ Long Ký

Chương 75 – Bất thức Trương Lang Thị Trương Lang 1

Tác giả: Kim Dung
Chọn tập

Trương lang nào phải Trương lang,

Người xưa em nhớ chẳng màng người nay.

Có thì có tự mảy may,

Không thì cả thế gian này cũng không.[1]

Sáng hôm sau Trương Vô Kỵ tỉnh dậy nhảy lên trên cây cao nhìn ra thấy dưới chân núi quân địch cờ quạt phất phới, người ngựa chạy qua chạy lại, trong quân tiếng tù và nổi lên đây đó, quả đang điều binh khiển tướng rất là gấp rút. Chàng liền gọi:

– Mẫn muội!

Triệu Mẫn đáp lời:

– Em đây, chuyện gì thế?

Trương Vô Kỵ hơi chần chừ, nói:

– Không có chuyện gì, anh chỉ thuận miệng gọi em đấy thôi.

Chàng vốn dĩ muốn bàn với Triệu Mẫn cách thức đánh bại quân Nguyên vì nàng túc trí đa mưu hẳn sẽ có kế sách hay nhưng nghĩ lại: ?Nàng vốn là quận chúa trong triều đình, bỏ cha bỏ anh đi theo ta, lại bảo nàng tính kế giết chính người Mông Cổ chẳng ép uổng nàng quá lắm hay sao?. Thành thử lời đã đến cửa miệng lại cố nhịn không nói ra. Triệu Mẫn nhìn mặt chàng hiểu ngay tâm sự, thở dài một tiếng nói:

– Vô Kỵ ca ca, mong chàng hiểu được nỗi khổ tâm của em, thiếp chẳng cần nói ra làm gì.

Trương Vô Kỵ quay trở vào phòng, bàng hoàng không biết tính sao, tiện tay lấy ra hai xấp giấy Triệu Mẫn lấy được tối hôm qua, đọc vài chương Cửu Âm Chân Kinh rồi lại quay sang đọc Vũ Mục Di Thư, lướt qua vài đoạn vô tình đọc đến lúc ?Binh Khốn Ngưu Đầu Sơn? trong lòng chợt động, đọc kỹ lại thấy đó Nhạc Phi thuật lại chuyện năm xưa bị quân Kim bao vây thế nào rồi thoát được nguy khốn ra sao, làm thế nào đột xuất kỳ binh, nội ngoại giáp công đi đến toàn thắng, các phương lược đều nói rõ.

Trương Vô Kỵ vỗ bàn kêu lên:

– Đúng là trời giúp mình!

Chàng gập sách lại ngồi suy tính, tình thế trên ngọn Thiếu Thất ngày hôm nay tuy khác hẳn việc Nhạc Phi bị vây tại núi Ngưu Đầu, nhưng cái ý người xưa truyền lại trong phép dụng binh là làm sao xuất kỳ bất ý đánh thắng địch quân. Chàng càng nghĩ càng thêm khâm phục Nhạc Vũ Mục quả là thiên tài, trong khi nguy nan nào có ai nghĩ ra được, lại xem ra dụng binh và võ công cũng cùng một đường, nếu như chưa được cao nhân chỉ điểm, cao thấp khéo vụng thì thật khó mà có thể nghĩ ra được kế này.

Chàng nhúng ngón tay vào nước trà, vẽ lên bàn các địa hình, tuy thấy là làm như thế thật nguy hiểm, không khỏi cầu may nhưng nghĩ bụng lấy ít chống nhiều không thể đường đường chính chính đánh một trận mà thắng được. Tính toán xong xuôi chàng bèn đi qua Đại Hùng Bảo Điện nhờ Không Văn phương trượng chiêu tập quần hùng.

Chỉ giây lát mọi người đã tề tựu đến đầy đủ, Trương Vô Kỵ đứng giữa sảnh nói:

– Hiện nay binh mã Thát tử đã tập trung dưới chân núi, ắt là chẳng bao lâu sẽ tấn công lên. Chúng ta hôm qua tuy thắng được một trận nhỏ, làm nhụt nhuệ khí của quân Nguyên nhưng nếu chúng bất kể sống chết đánh ùa lên thì thật khó mà chống đỡ. Tại hạ bất tài được chúng vị anh hùng cử ra tạm giữ công việc chủ soái. Hôm nay cùng chung kẻ địch mong các vị nghe lệnh tại hạ.

Mọi người cùng hô to:

– Nếu có lệnh gì nhất nhất tuân theo không dám vi phạm.

Trương Vô Kỵ đáp:

– Hay lắm, Ngô kỳ sứ nghe đây!

Chưởng kỳ sứ Nhuệ Kim Kỳ Ngô Kình Thảo hiên ngang bước ra, khom lưng nói:

– Thuộc hạ nghe lệnh.

Y trong bụng nghĩ thầm: ?Giáo chủ ra lệnh, người đầu tiên sai ngay đến ta, thực là vinh dự biết mấy. Bất kể bảo ta làm gì nguy nan đến đâu, ta nhất quyết xả mệnh thi hành?.

Trương Vô Kỵ nói tiếp:

– Ngô huynh tất lãnh các anh em trong kỳ, chấp chưởng quân pháp, bất kể vị nào không tuân theo hiệu lệnh, trường thương đoản phủ trong kỳ sẽ nhắm ngay người đó mà phóng tới. Dẫu người đó là bậc kỳ túc trong bản giáo, trưởng bối trong võ lâm cũng không ngoại lệ.

Ngô Kình Thảo dõng dạc đáp:

– Đắc lệnh!

Y móc trong bọc ra một lá cờ trắng nhỏ, cầm sẵn trên tay. Võ công tiếng tăm Ngô Kình Thảo vốn dĩ không phải là loại hạng nhất trên giang hồ, người ngoài không coi y vào đâu. Thế nhưng từ hôm Ngũ Hành Kỳ đại hiển thần uy trên bãi đất, mọi người ai ai cũng biết rằng lá cờ trắng trong tay y ném tới đâu lập tức nơi đó sẽ có năm trăm mũi tên, năm trăm chiếc giáo, năm trăm cái búa ngắn đồng loạt tấn công tới, dẫu có bản lãnh thông thiên thì chỉ chớp mắt cũng thành một đống thịt nát thành thử trông thấy lá cờ đó phất phới ai cũng rùng mình.

Thì ra Trương Vô Kỵ đọc trong Vũ Mục Di Thư thấy điều đầu tiên có chép: ?Đạo trị quân, trước hết là lệnh lạc phải nghiêm?. Chàng biết giới giang hồ hào sĩ vốn dĩ tự phụ, muốn làm gì là làm tuy ai ai cũng võ công cao cường nhưng tụ lại cũng chỉ là một bầy ô hợp, nếu không có quân lệnh ước thúc để mọi người tuân theo thì không cách nào kháng cự được với quân Mông Cổ thành thử việc đầu tiên phải làm là sai Nhuệ Kim Kỳ giám lệnh chấp pháp.

Trương Vô Kỵ chỉ vào một bức tường ngang ngay trước điện, nói:

– Các vị anh hùng, những ai khinh công cao cường nhảy một cái lên được trên tường kia thì xin biểu diễn.

Trong số quần hùng không ít người lộ vẻ bất mãn, nghĩ thầm: ?Không biết làm trò gì mà lại bảo mình ra nhảy lên hụp xuống, việc chẳng hề liên can đến khẩn cấp cả?? Một số tiền bối cao thủ thì lại nghĩ chàng coi thường mọi người nên không khỏi bực mình.

Trương Tùng Khê vượt mọi người bước ra, nói:

– Tôi có thể nhảy được.

Ông nhảy lên trên tường rồi nhẹ nhàng nhảy qua phía bên kia. Công phu Thê Vân Túng của phái Võ Đương nổi danh thiên hạ, với tài nghệ của Trương Tùng Khê thì nhảy qua bức tường ngang kia thật dễ như thổi tro trong bếp thế nhưng ông không khoe khoang chỉ theo đúng lệnh nhảy qua một cách thật tầm thường.

Kế đó Du Liên Châu, Dương Tiêu, Phạm Dao, Vi Nhất Tiếu, Ân Dã Vương các cao thủ cũng tuân lệnh thi hành. Chỉ thấy quần hùng như bướm vờn hoa, hết người này đến người khác nhảy qua tường, có người thi triển khinh công trên lưng chừng còn biểu diễn những thức ngoạn mục. Sau khi hơn bốn trăm người nhảy rồi những người còn lại không ai ra thử nữa.

Bức tường chắn đó không phải thấp, nếu như khinh công không cao cường không phải dễ dàng nhảy lên được. Trong số người ở đây mỗi người tập luyện một cách, có người chuyên luyện binh khí quyền cước, khinh công chỉ bình bình. Những nhân vật thành danh ai cũng biết người biết ta, không dại gì lộ cái sở đoản trước mặt mọi người.

Trương Vô Kỵ thấy trong số hơn bốn trăm người đó, tăng chúng Thiếu Lâm chiếm đến tám chín phần mười, nghĩ thầm: ?Thiếu Lâm là đệ nhất đại môn phái trong võ lâm, quả thực danh bất hư truyền. Chỉ cần luận riêng khinh công thôi hảo thủ đã đông hơn các môn phái khác?. Chàng bèn truyền lệnh:

– Du nhị bá, Trương tứ bá, Ân lục thúc xin ba vị dẫn các vị khinh công khá trên đây, hư trương thanh thế, giả vờ làm người trong chùa rủ nhau đào tẩu, dụ cho chúng đuổi theo, qua đến hậu sơn rồi cứ như thế như thế.

Du Trương Ân tam hiệp của phái Võ Đương cùng lên tiếng nhận lệnh. Trương Vô Kỵ từng nhóm từng nhóm phân phái, ai mai phục, ai đoạn hậu, ai tấn công, ai đánh vào ngang hông sắp xếp thật rõ ràng.

Bọn Dương Tiêu thấy chàng bày kế thật khôn khéo, lại dàn binh ngự địch xem ra có phép tắc đâu ra đấy những ai mưu lược đều không khỏi cảm phục, có biết đâu chàng bắt chước theo Vũ Mục Di Thư chỉ nhân địa hình khác biệt, bộ thuộc không giống nên hơi cải biến chút đỉnh cho thích hợp.

Trương Vô Kỵ điều động xong rồi, sau cùng mới nói:

– Không Văn phương trượng, Không Trí thần tăng hai vị xin cùng các vị trong phái Nga Mi, cứu chữa săn sóc cho những người bị thương.

Chu Chỉ Nhược không có mặt trên núi, phái Nga Mi không người dẫn đầu, Trương Vô Kỵ biết mình có hiềm khích rất sâu với phái Nga Mi không tiện chỉ huy nên nhờ hai vị thần tăng đức cao vọng trọng tất lãnh, chắc hẳn các đệ tử phái Nga Mi không dám phản đối. Lệnh đưa ra quả nhiên nam nữ đệ tử phái Nga Mi lẳng lặng thi hành không nói nửa câu.

Trương Vô Kỵ dõng dạc nói:

– Hôm nay các chí sĩ trung nguyên đồng tâm hiệp lực nhất quyết một phen sống mái với quân Thát tử. Các vị sư phụ của phái Thiếu Lâm lo việc chiêng trống, xin đánh trống gióng chuông cho.

Quần hùng nghe thế đều hoan hô vang dậy, rút đao tuốt kiếm, khí thế bừng bừng. Liệt Hỏa Kỳ đem củi cỏ tích chứa ra xếp thành đống trước cửa chùa, châm lửa đốt lên, chả mấy chốc khói bốc lên thấu trời xanh. Còn Hậu Thổ Kỳ thì đem bùn đất trét lên các nóc chùa sau đó Liệt Hỏa Kỳ mới xếp củi, lấy dầu đổ lên trên mặt bùn, châm lửa lên tuy không cháy các điện nhưng ở dưới chân núi và các nơi xa xa nhìn vào, thấy mấy trăm gian tự viện chỗ nào cũng khói lửa bốc lên ngùn ngụt.

Quân Nguyên dưới chân núi mới đầu thấy chiêng trống vang lừng đã chuẩn bị canh phòng, đến khi lửa bốc lên đều bàn nhau:

– Không xong, bọn man tử nổi lửa đốt chùa, chắc toan đào tẩu.

Du Liên Châu dẫn trên một trăm năm mươi người khinh công trác tuyệt, từ phía bên trái núi Thiếu Thất chạy xuống. Chạy đến lưng chừng núi thì đã nghe quân Nguyên quát tháo reo hò, dàn thành trận đuổi theo. Mọi người chạy tứ tán thành thử quân Nguyên không sao có thể tập trung cung tên mà bắn được. Nhóm thứ hai do Trương Tùng Khê dẫn đầu, nhóm thứ ba do Ân Lê Đình chỉ huy, người nào trên lưng cũng mang một cái bọc to, bên trong nếu không là thanh gỗ thì cũng là quần áo. Quân Nguyên trông thấy lại tưởng bọn họ bỏ chùa chạy thục mạng, tên bắn trúng những bao đó không xuyên qua được. Trong khói lửa mịt mù quân Mông Cổ không biết rõ có bao nhiêu người nên chia ra một vạn quân đuổi theo còn hơn một vạn nữa vẫn đóng tại chỗ đề phòng biến cố.

Trương Vô Kỵ nói với Dương Tiêu:

– Dương tả sứ, tướng chỉ huy Thát tử điều binh khá giỏi, không dùng toàn quân truy kích, thế mới thật phiền.

Dương Tiêu đáp:

– Đúng thế, quả là đáng lo.

Bỗng nghe dưới chân núi tiếng tù và vang động, hai nghìn quân Nguyên hai bên sườn núi đánh lên, đường núi gập ghềnh hiểm trở vậy mà những con ngựa nhỏ bé của người Mông Cổ vẫn chạy như bay, trường mâu thiết giáp, thế quân thật uy mãnh. Đợi cho quân tiên phong Mông Cổ tới sát bên sơn đình ở ngang núi, Trương Vô Kỵ phất tay một cái, người trong Liệt Hỏa Kỳ hai bên liền xông ra, nằm phục dưới đám cỏ. Đến khi quân Nguyên tiến thêm chừng hơn trăm trượng nữa, Tân Nhiên huýt một tiếng còi, dầu thô trong các ống phun liền phụt ra, lửa bùng lên, cháy lem lém ngay vào những con ngựa. Đoàn ngựa đau quá kinh hãi hí vang lên, hơn một nửa lăn xuống dưới núi, lập tức trận thế loạn cả lên.

Quân Nguyên kỷ luật nghiêm minh, tiền đội tuy thua nhưng hậu đội không vì thế mà tan vỡ, lại ra lệnh hơn ba nghìn binh sĩ bỏ ngựa chạy bộ tấn công lên. Liệt Hỏa Kỳ lại phun lửa ra lại đốt cháy mấy trăm người, những người còn lại vẫn tiếp tục ùa tới. Chưởng kỳ sứ Hồng Thủy Kỳ là Đường Dương vẫy chiếc cờ đen, nước độc phun ra, kế đó Hậu Thổ Kỳ ném độc sa xuống đánh cho quân Nguyên tan tác. Tuy cũng có mấy trăm tên quân Mông Cổ lên được trên núi nhưng đều bị Nhuệ Kim, Cự Mộc Kỳ tiêu diệt.

Bỗng nghe dưới chân núi tiếng trống đánh thật gấp gáp, năm nghìn người giương lá chắn lên, dàn hàng ngang như một bức tường sắt từ từ tiến lên. Việc như thế khiến cho lửa nóng, nước độc, cát độc không làm gì được nên Cự Mộc Kỳ vội tiến lên giao chiến, xem ra chỉ phá vỡ được vài lỗ thủng không ăn thua gì.

Không Văn phương trượng thấy sự tình khẩn cấp nói:

– Trương giáo chủ, xin các vị mau rút đi để bảo tồn nguyên khí võ lâm Trung Nguyên. Hôm nay có thua thì mai sau còn có cơ phản công trở lại.

Trong cơn hoảng hốt, bỗng nghe dưới chân núi tiếng chiêng vang dội, một hỏa tiễn bắn vọt lên trời, kế đến tiếng hò hét chém giết bốn bề nổi lên. Dương Tiêu mừng lắm, nói:

– Giáo chủ, viện binh của ta đến rồi.

Từ trên đỉnh núi nhìn xuống không thấy rõ tình hình bên dưới nhưng thấy khói bụi mù mịt, quân reo ngựa hí, hiển nhiên quân cứu viện tới rất đông. Trương Vô Kỵ lớn tiếng ra lệnh:

– Quân cứu viện đến rồi, tất cả cùng xông ra.

Quần hùng trên núi ai nấy rút binh khí ra, xông xuống chém giết. Trương Vô Kỵ lại kêu lên:

– Các vị anh hùng, giết quan trước, giết lính sau.

Tất cả mọi người cùng reo lên:

– Giết quan trước, giết lính sau.

Quân Mông Cổ cứ mười người làm thành một đội, do một thập trưởng cai quản, lên trên có đội trăm người, đội nghìn người, đội vạn người, cứ từng lớp từng lớp, khi ra trận trên truyền xuống dưới chẳng khác thân thể chỉ huy cánh tay, cánh tay chỉ huy bàn tay, bàn tay chỉ huy ngón tay. Trương Vô Kỵ truyền lệnh giết các quan trưởng Mông Cổ, nếu như hai bên đối trận thì phép này khó mà thi hành nhưng hiện nay quân Mông Cổ đang dàn rộng trên sườn núi, quân địch tuy tinh nhuệ thật nhưng quan trưởng võ công làm sao bì được với những nhân vật võ lâm Trung Nguyên, nên chỉ chốc lát mấy tên thiên phu trưởng, bách phu trưởng đã bị giết chết. Một nhánh quân Mông Cổ lập tức loạn cả lên.

Bọn Trương Vô Kỵ xông tới lưng chừng núi, thấy dưới núi cờ xí bay tung, lá cờ phía nam trên có một chữ ?Từ?, lá cờ phía bắc có một chữ ?Thường? biết ngay là Từ Đạt và Thường Ngộ Xuân đã tới. Từ Thường hai người vốn ở đất Hoài Tứ, lúc đó may sao lại đang ở Dự Nam vừa nghe Bố Đại hòa thượng Thuyết Bất Đắc truyền tin giáo chủ và quần hùng bị vây trên núi Thiếu Thất liền đem hết bộ thuộc, ngày đêm chạy tới cứu. Khi đó một dải từ Dự Nam cho chí Ngạc Bắc, quân Minh Giáo và quân Nguyên hỗn chiến đã nhiều năm, đất đai hai bên tranh nhau thành thế cài răng lược nên muốn đến là đến được ngay, thật là gần gũi nên chưa đầy hai ngày đã tới rồi. Quân sĩ theo Từ Đạt và Thường Ngộ Xuân đều là những người chinh chiến lâu năm nhiều kinh nghiệm, lại đông hơn nhiều nên liền ép quân Nguyên phải lùi về hướng tây.

Còn một vạn quân Nguyên đuổi theo đám hào sĩ giả vờ bỏ chùa mà chạy mãi đến tận sơn cốc. Du Liên Châu, Trương Tùng Khê, Ân Lê Đình dẫn theo mấy trăm hảo hán khinh công trác tuyệt, vừa đánh vừa chạy vào trong thung lũng. Tên vạn phu trưởng quân Mông Cổ thấy trong sơn cốc ba mặt là vách đá dựng đứng, địa thế hung hiểm nhưng thấy bên địch nhân số chẳng bao nhiêu, dẫu bên trong thung lũng có mai phục chăng nữa thì cũng thừa sức đối phó nên liền xua quân đuổi cho nhanh.

Bọn Du Liên Châu chạy đến dưới chân vách đá, từ trên cao có sẵn mấy chục sợi dây thòng xuống từ bao giờ mọi người vội vàng trèo lên. Tên vạn phu trưởng thấy bị trúng kế vội ra lệnh lùi lại, ngờ đâu ngoài cửa thung lũng đã bị liệt hỏa, độc sa, vũ tiễn, độc thủy bắn tới như mưa, Cự Mộc Kỳ lại từng súc, từng súc gỗ đẩy lăn xuống, chặn mất đường đi rồi.

Ngay khi đó, lộ quân thứ hai của quân Nguyên thua chạy tới nơi thấy đường đi đằng trước đã bị chặn mất rồi liền tứ tán trèo lên các triền núi chung quanh đào tẩu. Trương Vô Kỵ và Từ Đạt trước sau tới nơi đều kêu lên:

– Tiếc quá!

Nếu như đã liên lạc được với nhau từ trước thì cứ để đạo quân thứ hai của Mông Cổ xua luôn vào trong thung lũng thì chỉ một chuyến là xong. Trương Vô Kỵ cũng không ngờ quân Nguyên chỉ chia ra một nửa đuổi theo, cũng không ngờ quân tiếp viện đến nhanh như thế. Dẫu sao thì chỉ huy quân chiến đấu không phải là sở trường của chàng, chiến pháp trong Vũ Mục Di Thư tuy hay thật nhưng vừa học đem ra ứng dụng ngay dù sao cũng còn nhiều chỗ chưa hiểu rõ, nếu như Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân không kịp thời tới nơi thì kiếp số chùa Thiếu Lâm cũng khó tránh khỏi, còn một vạn quân Nguyên bị chặn trong sơn cốc cũng sẽ được lộ quân kia cứu thoát.

Từ Đạt liền sai quân vần đá chặn thêm ở cửa thung lũng, các đội cung tiễn trèo lên những mỏm đá, từ cao bắn xuống. Quân Nguyên lâm vào tuyệt địa, không có cách gì chống trả chỉ còn nước trốn sau những tảng đá. Chẳng mấy chốc Thường Ngộ Xuân cũng đem binh tới nơi, hội kiến với Trương Vô Kỵ, lâu ngày xa nhau nay gặp lại hai người hết sức vui mừng. Thường Ngộ Xuân oang oang nói:

– Mau giỡ đá ra, mình xông vào giết sạch bọn Thát tử.

Từ Đạt cười:

– Trong sơn cốc không gạo không nước, chỉ bảy tám ngày, Thát tử cũng chết khát, chết đói việc gì phải để các cách em mất công ra tay?

Thường Ngộ Xuân cũng cười:

– Thế nhưng tự tay mình giết vẫn thích hơn.

Y tuổi tác tuy hơi lớn hơn Từ Đạt nhưng bình thời vẫn phục Từ Đạt mưu trí, lại thấy Trương Vô Kỵ phụ họa với Từ Đạt nên không bàn thêm gì nữa.

Từ Thường hai người chinh chiến lâu năm nên lệnh lạc gì cũng đều chu đáo đâu ra đấy. Trương Vô Kỵ biết mình kém xa nên mời Từ Thường hai người chỉ huy, tìm kiếm giết sạch những quân Nguyên bỏ chạy.

Đêm hôm đó tiếng reo hò vang động chân núi Thiếu Thất, nghĩa quân Minh Giáo cùng anh hùng tứ xứ ăn mừng chiến thắng. Quần hùng mấy hôm liền ở trong chùa Thiếu Lâm ăn toàn đồ chay, mồm miệng thấy nhạt thếch, nay được rượu thịt no nê, ai nấy ăn đến căng cả bụng.

Trong tiệc Trương Vô Kỵ hỏi lại Thường Ngộ Xuân thân thể độ này thế nào, có theo những toa thuốc chàng cắt mà chữa trị không. Thường Ngộ Xuân cười ha hả nói:

– Giáo chủ chớ có lo lắng, lão Thường này khỏe như trâu, mỗi bữa ăn ba cân thịt, sáu chén cơm, đi đánh trận ba ngày ba đêm liền không ngủ cũng chẳng hề hấn gì.

Nói như thế ý bảo chẳng cần phải thuốc thang cho thêm phiền. Trương Vô Kỵ nghĩ đến lời Hồ Thanh Ngưu năm xưa nói, khẩn khoản khuyên ông ta nên uống thuốc, giữ gìn sức khỏe. Thường Ngộ Xuân chỉ ậm ừ vâng dạ nhưng trong bụng chẳng coi vào đâu.

Từ Đạt rót đầy một chén rượu bưng đến trước mặt Trương Vô Kỵ, nói:

– Chúc mừng giáo chủ, xin cạn chén rượu này.

Trương Vô Kỵ cầm lấy uống cạn, Từ Đạt nói tiếp:

– Thuộc hạ vẫn thường khâm phục giáo chủ can đảm hơn người, võ công tuyệt luân ngờ đâu dùng binh lại thần diệu đến thế, thực là phúc của bản giáo, là cái may của dân đen.

Trương Vô Kỵ cười ha hả nói:

– Từ đại ca, đại ca chẳng nên khen ngợi tôi làm gì. Chiến thắng hôm nay, trước là Từ Thường hai vị đại ca đến thật thần tốc, thứ đến nhờ lời dậy bảo để lại của Nhạc Vũ Mục, tiểu đệ hoàn toàn chẳng có chút công lao nào.

Từ Đạt ngạc nhiên hỏi:

– Di giáo của Nhạc Vũ Mục là sao? Xin giáo chủ giảng rõ cho.

Trương Vô Kỵ móc trong túi ra một cuộn giấy mỏng màu vàng, chính là Vũ Mục Di Thư dấu trong thanh đao Đồ Long, lật đến tiết Binh Khốn Ngưu Đầu Sơn[2] đưa cho Từ Đạt coi. Từ Đạt hai tay cầm lấy, đọc kỹ một lượt, không khỏi vừa kinh hoàng, vừa bội phục, thở dài nói:

– Vũ Mục dụng binh như thần, người đời sau thật không sao theo kịp. Nếu như Nhạc Vũ Mục còn sống đến hôm nay, tất lãnh hào kiệt trung nguyên, lo gì không đuổi được quân Thát tử trở về sa mạc phía bắc.

Nói xong cung kính giao lại di thư. Trương Vô Kỵ không cầm nói:

– Võ lâm chí tôn, Bảo đao Đồ Long, Hiệu lệnh thiên hạ, Mạc cảm bất tòng. Nghĩa thực sự của mười sáu chữ đó đến nay ta mới hiểu. Gọi là ?võ lâm chí tôn? không phải là bản thân thanh đao mà là ở di thư dấu trong thanh đao này. Nếu dùng binh pháp này đối phó với địch đánh thể nào cũng đánh đâu được đó nên mới gọi là ?hiệu lệnh thiên hạ, mạc cảm bất tòng?. Còn như chỉ riêng một thanh đao mà thôi thì làm thế nào mà hiệu lệnh được thiên hạ? Từ đại ca, bộ binh thư này ta tặng cho đại ca đó, mong đại ca nối chí Nhạc Vũ Mục, đường mây thẳng tiến, thu phục giang sơn.

Từ Đạt giật mình kinh hãi, vội nói:

– Thuộc hạ có tài đức gì mà dám nhận món quà hậu hĩ như thế của giáo chủ?

Trương Vô Kỵ nói:

– Từ đại ca chớ có từ chối. Ta vì trăm họ mà giao binh thư này lại cho đại ca.

Từ Đạt tay run run cầm lấy binh thư. Trương Vô Kỵ nói tiếp:

– Trong võ lâm truyền ngôn còn hai câu nữa: ?Ỷ Thiên bất xuất, thùy dữ tranh phong??. Nay kiếm Ỷ Thiên gãy làm hai rồi nhưng về sau thể nào cũng nối lại được. Bên trong kiếm có dấu một bộ võ công bí cập thật là ghê gớm, ta cũng hiểu được chân ý của hai câu này là binh thư để đuổi quân Thát tử thế nhưng nếu có người nào sau này chấp chưởng đại quyền nhưng rồi tác oai tác phúc, lấy bạo ngược thay bạo ngược, bách tính lại chịu lầm than thì thể nào cũng có một vị anh hùng tay cầm kiếm Ỷ Thiên đến lấy đầu bạo chúa. Kẻ thống lãnh bách vạn hùng binh quyền khuynh thiên hạ nhưng chưa chắc đã chống đỡ nổi một cái đánh của kiếm Ỷ Thiên, câu đó mong đại ca ghi nhớ.

Từ Đạt mồ hôi lạnh chảy ròng ròng trên lưng không dám từ chối nữa nói:

– Thuộc hạ cẩn tuân lệnh chỉ của giáo chủ.

Y cầm Vũ Mục Di Thư để trên bàn, cung kính lạy bốn lạy rồi bái tạ Trương Vô Kỵ đã ban tặng cho quyển sách. Quả nhiên từ đó Từ Đạt dụng binh như thần, liên tiếp đánh bại quân Nguyên, sau cùng thống lãnh quân đội đánh lên phương bắc, đuổi được người Mông Cổ ra ngoài biên ải, uy chấn vùng mạc bắc lập nên công nghiệp hiển hách một thời.

Từ đó anh hùng Trung Nguyên đều nức lòng qui phục Minh Giáo, hiệu lệnh của Trương Vô Kỵ đến đâu không ai không theo. Mấy trăm năm qua Minh Giáo bị người đời chê trách, coi như yêu ma dâm tà, kể từ đại biến long trời lở đất này trở nên thủ lãnh quần hùng, trung hưng được cơ nghiệp của con cháu Hán tộc. Tuy về sau Chu Nguyên Chương thay lòng đổi dạ, thi hành gian mưu lên ngôi hoàng đế nhưng những người phò tá y đều là người trong Minh Giáo cho nên quốc hiệu không thể không xưng là nhà Minh. Minh triều từ Hồng Võ nguyên niên Mậu Thân cho tới Sùng Trinh năm thứ mười tám Giáp Thân[3], tổng cộng hai trăm bảy mươi bảy năm cũng nhờ Minh Giáo mà có.

*

*??????? *

Quần hùng vui say đến tận sáng, ai nấy túy lúy mới thôi. Đến quá trưa, mọi người lục tục cáo từ hai vị thần tăng Không Văn, Không Trí. Trương Vô Kỵ thấy đệ tử phái Nga Mi tả tơi tan tác, trong lòng thương hại, thấy Tống Thanh Thư vẫn còn nằm trên cáng, không biết sống chết ra sao, đến gần nói với Tĩnh Tuệ:

– Để tôi xem thương thế Tống đại ca thế nào!

Tĩnh Tuệ lạnh lùng đáp:

– Rõ khéo mèo khóc chuột, đừng có giả nhân giả nghĩa.

Chu Điên đứng gần ngay đó, nhịn không nổi chửi lại ngay:

– Giáo chủ ta chỉ vì chút tình cũ với chưởng môn các ngươi cho nên mới trị thương cho họ Tống kia, chứ cái thứ khi sư phản phụ này, ai cũng chỉ muốn đem giết quách cho xong. Con mụ ác ni cô kia còn lèm bèm cái gì?

Tĩnh Tuệ muốn cãi lại vài câu nhưng thấy Chu Điên mặt mày hung ác, thần sắc bặm trợn, chỉ sợ y không biết phải quấy ra tay đánh mình thì thiệt vào thân, nên cố nén lòng, cười khẩy nói:

– Phái Nga Mi ta đời này truyền đời khác, chưởng môn nhân đều là phận nữ nhi băng thanh ngọc khiết. Chu chưởng môn nếu không phải là hoàng hoa khuê nữ giữ mình như ngọc thì làm chưởng môn bản phái làm sao được? Hừ, Tống Thanh Thư tên gian tặc đó ở trong bản phái chỉ làm ô danh cho Chu chưởng môn. Lý sư điệt, Long sư điệt, mau đem gã này trả lại cho phái Võ Đương.

Hai tên đệ tử Nga Mi liền đáp lời, khiêng cái cáng đến trước mặt Du Liên Châu, bỏ đó rồi đi về.

Ai nấy ngạc nhiên khôn xiết, Du Liên Châu nói:

– Cái … cái gì? Y không phải là trượng phu của chưởng môn các ngươi sao?

Tĩnh Tuệ hậm hực đáp:

– Hừ, chưởng môn chúng ta có coi cái gã này vào đâu? Chưởng môn bực mình chuyện Trương Vô Kỵ thay lòng đổi dạ, đang hôn lễ bỏ đi làm nhục bản phái trước mặt anh hùng thiên hạ nên giả vờ gọi tên tiểu tử này là chồng. Nếu biết … nếu biết … hừ hừ, nếu sớm biết thế, chưởng môn chúng ta việc gì phải chịu cái tiếng xấu làm chi? Xem ra … xem ra …

Trương Vô Kỵ đứng bên nghe mà sững sờ, nhịn không nổi tiến lên hỏi:

– Sư thái nói Tống phu nhân … nàng … nàng thực ra không phải Tống phu nhân sao?

Tĩnh Tuệ quay đầu sang chỗ khác, hậm hực nói:

– Ta không thèm nói chuyện với ngươi.

Ngay lúc đó, Tống Thanh Thư nằm trên cáng khẽ động đậy, rên lên mấy tiếng:

– Giết … giết được Trương Vô Kỵ chưa?

Tĩnh Tuệ cười nhạt:

– Thôi đừng mơ ngủ. Chết đến nơi rồi còn ham chuyện viển vông.

Ân Lê Đình thấy Tĩnh Tuệ giận bừng bừng, nói năng không rõ ràng nên hỏi nhỏ một nữ đệ tử của phái Nga Mi là Bối Cẩm Nghi:

– Bối sư muội, đầu đuôi ra thế nào?

Bối Cẩm Nghi năm xưa giao tình rất thân với Kỷ Hiểu Phù, nghe ông ta hỏi, trầm ngâm giây lát rồi nói:

– Tĩnh Tuệ sư tỉ, Ân lục hiệp không phải người ngoài, tiểu muội nói cho ông ta nghe có được không?

Tĩnh Tuệ đáp:

– Cái gì mà người ngoài với chẳng người trong? Không phải người ngoài cũng nói, người ngoài lại càng nên nói. Chu chưởng môn của chúng ta thanh bạch, không có liên hệ gì đến tên gian đồ họ Tống kia. Các ngươi thấy rõ thủ cung sa[4] trên cánh tay chưởng môn rồi, chuyện này cần phải cho đồng đạo võ lâm khắp thiên hạ biết, để khỏi làm tổn hại đến qui củ của phái Nga Mi chúng ta hơn trăm năm nay …

Ân Lê Đình nghĩ thầm: ?Vị Tĩnh Tuệ sư thái này đầu óc xem ra không được minh bạch cho lắm, nói năng chẳng có đầu có đuôi gì cả?. Ông quay sang nói với Bối Cẩm Nghi:

– Bối sư muội, nếu đã như thế vậy nói cho rõ ràng. Tống sư điệt của ta vì sao lại gia nhập quí phái, có can hệ thế nào với quí chưởng môn để cho tiểu huynh mai này bẩm lại với sư phụ. Việc này có quan hệ hai phái Nga Mi và Võ Đương, nếu không tổn thương hòa khí hai phái thì thật hay.

Bối Cẩm Nghi thở dài nói:

– Cứ như võ công, nhân phẩm của vị Tống thiếu hiệp này, trong võ lâm quả thật hiếm có, nhưng cũng chỉ vì si tình mà rơi vào nghiệp chướng. Dường như chưởng môn nhân có hẹn, đợi đến khi giết được Trương Vô Kỵ rồi, rửa được cái nhục bỏ ngày cưới mà đi thì sẽ thành hôn với y. Vì thế y cam tâm đầu nhập bản phái, để được chưởng môn dạy cho võ công kỳ diệu. Hôm trước ngay giữa anh hùng đại hội, chưởng môn đột nhiên tự xưng mình Tống phu nhân, là vợ của Tống thiếu hiệp, mọi người trong bản phái đều thật ngạc nhiên. Hôm đó chưởng môn uy chấn quần hùng, nhiếp phục các môn phái …

Chu Điên liền chen vào:

– Đó là giáo chủ chúng ta cố ý nhường đấy thôi có gì mà khoe khoang.

Bối Cẩm Nghi không thèm để ý đến y, nói tiếp:

– Tuy đệ tử bản phái ai nấy hết sức cao hứng nhưng đến tối hôm đó, mọi người mới hỏi ba chữ Tống phu nhân đó là như thế nào mà ra. Chưởng môn nhân mới lộ cánh tay trái ra, thản nhiên nói: ?Mọi người hãy nhìn đây?. Chúng tôi ai ai cũng thấy rõ, trên cánh tay điểm thủ cung sa vẫn đỏ chon chót như xưa, quả nhiên vẫn là một xử nữ giữ mình trong trắng. Chưởng môn nhân nói rằng: ?Ta tự xưng Tống phu nhân, chẳng qua chỉ là cái kế quyền nghi nhất thời, cốt để chọc tức tiểu tử Trương Vô Kỵ, khiến cho y tâm thần bất định, khi tỉ võ mới thừa cơ mà thắng được y. Tên tiểu tử đó võ công trác tuyệt, ta xem ra không sao bằng y được. Nếu so với anh danh của bản phái thì cái tiếng của ta nào có sá gì??.

Mấy câu đó nàng ta nói oang oang, cố ý để mọi người chung quanh ai cũng nghe rõ, rồi tiếp:

– Nam nữ đệ tử bản phái, nếu không xuất gia tu đạo, vốn không cấm lấy vợ lấy chồng, có điều từ sáng phái Quách tổ sư cho tới nay, những võ công tối cao thâm thì chỉ truyền cho con gái đồng trinh giữ mình như ngọc. Mỗi nữ đệ tử khi bái sư, sư phụ đều điểm một chấm thủ cung sa trên cánh tay. Hàng năm vào ngày giỗ Quách tổ sư, tiên sư đều kiểm soát, năm đó Kỷ sư tỉ … vì chuyện đó …

Nàng ta nói tới đây ậm ậm ừ ừ không nói tiếp nữa. Bọn Ân Lê Đình ai cũng hiểu rằng Bối Cẩm Nghi muốn nói tới việc Kỷ Hiểu Phù bị thất thân với Dương Tiêu nên thủ cung sa biến mất mới bị Diệt Tuyệt sư thái phát giác. Ân Lê Đình cùng Dương Bất Hối thành hôn rồi, vợ chồng ái tình nồng thắm nhưng lúc này nghĩ đến chuyện Kỷ Hiểu Phù trong lòng không khỏi bồi hồi, nhịn không nổi đưa mắt liếc Dương Tiêu một cái, thấy ông ta mắt rưng rưng quay đầu sang chỗ khác.

Bối Cẩm Nghi nói tiếp:

– Ân lục hiệp, chưởng môn chúng tôi có ý muốn chọc tức Minh Giáo Trương giáo chủ, khéo thay vị Tống thiếu hiệp kia lại si mê chưởng môn theo đuổi không rời khiến xẩy ra bao nhiêu chuyện. Đợi đến khi nào Tống thiếu hiệp khỏi bệnh, xin Ân lục hiệp lựa lời bẩm lại với Trương chân nhân và Tống đại hiệp vài câu để cho quí phái và chúng tôi khỏi gây hiềm khích.

Ân Lê Đình gật đầu nói:

– Hẳn là như thế. Gã sư điệt của tôi phạm thượng phản nghịch, có chết cũng đáng, quả là một điều xấu hổ cho tệ phái, tôi chỉ mong nó chết cho xong.

Ông vốn yếu lòng, nghĩ đến Tống Thanh Thư giết chết Mạc Thanh Cốc trong bụng càng thêm thống hận. Còn đang nói chuyện, bỗng nghe từ xa vẳng tới một tiếng thét lanh lảnh, dường như giọng Chu Chỉ Nhược sợ hãi xem ra đang gặp chuyện gì hết sức nguy hiểm. Mọi người nghe thấy thế không khỏi nổi gai ốc, đang lúc trời trong mây tạnh, trước mặt sau lưng đầy người nhưng nghe tiếng kêu đó tưởng chừng ác quỉ xuất hiện không bằng. Mọi người không hẹn mà cùng quay sang nhìn về phía có tiếng kêu. Trương Vô Kỵ, Tĩnh Tuệ, Bối Cẩm Nghi cả bọn vội chạy về hướng đó.

Trương Vô Kỵ sợ Chu Chỉ Nhược gặp phải địch nhân nào ghê gớm nên ra sức thật nhanh, chỉ nhô lên hụp xuống mấy cái đã vượt qua được rừng cây, thấy một bóng xanh đang ra chạy chính là Chu Chỉ Nhược. Chàng vội vàng chặn nàng lại hỏi:

– Chỉ Nhược, chuyện gì thế?

Chu Chỉ Nhược mặt hết sức kinh khiếp, kêu lên:

– Ma, ma, có ma đuổi em!

Nàng nhảy vào ôm chặt lấy Trương Vô Kỵ nhưng người vẫn còn run bần bật. Trương Vô Kỵ thấy nàng sợ đến mất hết hồn vía, nhẹ nhàng vỗ vỗ lên vai, an ủi:

– Đừng sợ! Đừng sợ! Làm gì có ma. Em nhìn thấy gì thế?

Chàng thấy áo nàng bị gai cứa rách tả tơi, trên mặt cũng có mấy đường xước rướm máu, một nửa tay áo bên trái bị rách, để hở cánh tay trắng như ngọc, trên da có một điểm đỏ chót như san hô, bóng như hồng ngọc, chính là dấu thủ cung sa của người xử nữ.

Trương Vô Kỵ tinh thông y dược biết rằng con gái điểm thủ cung sa rồi, nếu chưa thất thân hay lập gia thất thì sẽ suốt đời không phai. Lúc nãy chàng nghe Tĩnh Tuệ và Bối Cẩm Nghi nói vẫn còn bán tín bán nghi, bây giờ chính mắt trông thấy nên không còn ngờ gì nữa, nhất thời trong đầu qua lại bao nhiêu ý nghĩ: ?Nàng bảo nàng lấy Tống Thanh Thư gì gì đó chỉ toàn là chuyện giả, thế nhưng tại sao nàng lại muốn đánh lừa ta? Sao nàng lại muốn chọc cho ta bực tức? Chẳng lẽ nàng tham cái danh vị ?đương thế võ công đệ nhất? thực hay sao? Hay là muốn thử xem mình đối với nàng như thế nào??. Chàng lại nghĩ thêm: ?Trương Vô Kỵ ơi là Trương Vô Kỵ, Chu cô nương là người đã giết biểu muội của ngươi, nàng còn là con gái cũng thế, mà nàng có đi lấy người khác thì cũng thế, có còn liên hệ gì đến ngươi nữa đâu??. Thế nhưng chàng thấy Chu Chỉ Nhược sợ đến khiếp vía, không nỡ đẩy nàng ra.

Chu Chỉ Nhược nằm gục trong lòng Trương Vô Kỵ, cảm thấy bộ ngực ấm áp rắn chắc của chàng, mũi ngửi thấy mùi đàn ông nồng nàn dần dần trấn tĩnh lại hỏi:

– Vô Kỵ ca ca, có phải chàng đấy chăng?

Trương Vô Kỵ đáp:

– Chính anh đây. Em cảm thấy thế nào? Có gì mà sợ đến như thế?

Chu Chỉ Nhược lại đột nhiên kinh hoảng, òa lên một tiếng, nước mắt trào ra, gục vào vai chàng khóc thút thít không ngừng. Lúc đó Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu, Tĩnh Tuệ, Ân Lê Đình tất cả đã chạy đến, thấy cảnh tượng đó, người nọ đưa mắt nhìn người kia, ai nấy rón rén quay trở lại. Mọi người vẫn chưa quên được mối thù ngày nào với Triệu Mẫn, lại nghĩ thầm dẫu sao Triệu Mẫn cũng là con nhà quyền quí người Mông Cổ, nếu như Trương Vô Kỵ lấy nàng làm vợ e rằng sẽ trở ngại cho công cuộc phục hưng đại nghiệp.

Chu Chỉ Nhược khóc một hồi đột nhiên nói:

– Vô Kỵ ca ca, có ai đuổi theo không?

Trương Vô Kỵ đáp:

– Không có ai cả! Thế ai đuổi em vậy? Có phải Huyền Minh nhị lão chăng?

Chu Chỉ Nhược đáp:

– Không, không phải đâu! Anh có nhìn rõ chưa, không có ai thật … không, không phải người … không có gì đuổi theo chứ?

Trương Vô Kỵ mỉm cười nói:

– Giữa thanh thiên bạch nhật không lẽ lại còn nhìn không rõ.

Giọng chàng trở nên dịu dàng:

– Chỉ Nhược, chắc mấy ngày liền em sử lực quá độ nên mệt mỏi thành ra váng đầu hoa mắt nhìn lầm chứ gì?

Chu Chỉ Nhược đáp:

– Không phải đâu, nhất định không phải. Em thấy nó ba lần, liên tiếp ba lần mà!

Giọng nàng run run dường như cơn khiếp sợ vẫn chưa hết hẳn. Trương Vô Kỵ hỏi:

– Em ba lần thấy cái gì?

Chu Chỉ Nhược vịn vào vai chàng, lẩy bẩy đứng lên, quay lại nhìn khắp lượt. Nàng xem ra phải thu hết can đảm nhìn xong vội quay lại ngay, nhìn Trương Vô Kỵ thấy sắc mặt chàng đầy vẻ quan hoài trìu mến, trong lòng chua xót, bao nhiêu sức lực trong người mất hết, lại khuỵu xuống nói:

– Vô Kỵ ca ca, em … mọi việc … em đều lừa dối chàng. Kiếm Ỷ Thiên và đao Đồ Long chính em lấy cắp … Ân … Ân … cô nương cũng do tay em giết …, Tạ đại hiệp chính tay em điểm huyệt, em … em cũng chẳng lấy Tống Thanh Thư. Trong tim em chỉ … trước sau lúc nào cũng chỉ có một hình bóng chàng thôi.

Trương Vô Kỵ thở dài nói:

– Những việc đó anh đều biết cả rồi. Có điều … có điều sao em lại làm khổ em như thế?

Chu Chỉ Nhược khóc nói:

– Chàng chưa biết sư phụ em ở trên tháp chùa Vạn An đã nói với em những gì. Sư phụ nói cho em nghe bí mật trong đao Đồ Long và kiếm Ỷ Thiên, bắt em phải thề lấy được đao kiếm này làm rạng rỡ cho phái Nga Mi. Sư phụ bắt em phải thề độc giả vờ yêu anh nhưng không được thực lòng …

Trương Vô Kỵ nhẹ nhàng vuốt ve cánh tay nàng, nghĩ đến năm xưa chính mắt trông thấy Diệt Tuyệt sư thái đánh chết Kỷ Hiểu Phù, rồi nghe bà ta trên sa mạc thề quyết tiêu diệt Minh Giáo, tay cầm kiếm Ỷ Thiên loạn sát giáo chúng trong Nhuệ Kim Kỳ, sau này nơi tháp chùa Vạn An thà chịu chết chứ không nhờ mình giúp đỡ mới thấy bà ta oán hận Minh Giáo biết chừng nào. Chu Chỉ Nhược kế thừa y bát, nhận di mệnh của sư phụ nên bao nhiêu hành vi tàn ác độc địa kia cũng đều do Diệt Tuyệt sư thái trối trăn cả. Chàng vốn tính tình dễ tha thứ người khác, xưa nay không ghi nhớ hận thù, nghĩ lại năm xưa trên dòng Hán Thủy nàng đút cơm cho mình ăn, trên Quang Minh Đính ác đấu với vợ chồng Hà Thái Xung và Hoa Sơn nhị lão, nếu không có nàng đứng bên chỉ điểm không chừng mình đã chết tại đương trường; nghĩ cho sâu xa, những hành vi giảo trá tàn ác của nàng cũng chỉ vì mối thâm tình với mình, lúc này nàng thật yếu đuối đáng thương, nằm gục trong lòng không khỏi ngậm ngùi, bèn dịu dàng nói:

– Chỉ Nhược, em thấy cái gì mà lại sợ hãi đến vậy?

Chu Chỉ Nhược đứng bật dậy nói:

– Em không nói. Cái hồn ma đó quấn quít em, bản thân em làm nhiều điều tàn ác cho nên nó mới báo oán. Em nói thật cho chàng hay … chắc em … chắc em không sống được bao lâu nữa đâu …

Nói xong nàng ôm mặt chạy vụt về phía núi. Trương Vô Kỵ chẳng hiểu đầu đuôi, nghĩ thầm: ?Cái gì mà lại hồn ma báo oán, theo đuổi quấn quít nàng? Không lẽ bang chúng Cái Bang trả thù, làm ma làm quỉ dọa nàng hay sao??. Chàng lững thững đi theo thấy nàng chạy vào trong đám đệ tử phái Nga Mi, Bối Cẩm Nghi đem một chiếc áo khoác đắp lên cho nàng. Chu Chỉ Nhược nói nhỏ mấy câu gì đó, mọi người khom lưng nghe lệnh.

Khi đó trên núi Thiếu Thất quần hùng một số đông đang chuẩn bị về, Không Văn, Không Trí hai người đang chào từ giã. Dương Tiêu, Phạm Dao cả bọn cũng đến tụ tập chung quanh Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ nói:

– Thôi mình cũng sắp sửa về đi thôi.

Chàng thấy Chu Chỉ Nhược đến trước mặt Không Văn nói nhỏ mấy câu gì đó, sắc mặt nhà sư đại biến, sững sờ một hồi, rồi cương quyết lắc đầu dường như không tin. Chu Chỉ Nhược lại nói mấy câu, đột nhiên quì xuống, chắp hai tay, lẩm bẩm nói gì đó. Không Văn thần sắc trang nghiêm, miệng tụng nam mô. Chu Điên nói:

– Giáo chủ, giáo chủ phải ngăn lại ngay mới được, không thì không xong.

Trương Vô Kỵ nói:

– Ngăn cái gì?

Chu Điên nói:

– Chu cô nương định xuất gia làm hòa thượng, cô ta … cô ta vào cửa không rồi thì thật hỏng hết.

Dương Tiêu cười khẩy nói:

– Nếu Chu cô nương muốn xuất gia thì chỉ có thể làm ni cô chứ sao lại làm hòa thượng được? Có lẽ nào lại bái nhà sư chùa Thiếu Lâm làm thầy?

Chu Điên lấy tay cốc lên đầu mìn một cái nói:

– Đúng lắm, đúng lắm! Ta quả là hồ đồ. Thế Chu cô nương cầu khẩn Không Văn đại sư cái gì thế này? Một người là chưởng môn phái Thiếu Lâm, một người là chưởng môn phái Nga Mi, việc gì phải quì?

Lại thấy Chu Chỉ Nhược đứng thẳng lên, trên mặt tỏ ra thoải mái hơn. Trương Vô Kỵ thở dài:

– Thôi chuyện của người khác, mình chẳng nên xen vào làm gì.

Chàng quay lại nói:

– Mẫn muội, thôi mình cũng đi cho xong.

Ngờ đâu chàng nhìn quanh không thấy bóng dáng Triệu Mẫn đâu cả. Trong mấy hôm nay, Triệu Mẫn lúc nào cũng ở bên cạnh chàng như hình với bóng, Trương Vô Kỵ chột dạ, hỏi:

– Triệu cô nương đâu?

Trong bụng kêu thầm: ?Hỏng rồi, chắc là lúc Chỉ Nhược nằm trong lòng ta, Mẫn muội trông thấy, tưởng mình chưa quên tình xưa nghĩa cũ nên bỏ ta mà đi chăng??. Chàng vội vàng chen vào đám đông tìm kiếm. Chưởng kỳ sứ Liệt Hỏa Kỳ Tân Nhiên nói:

– Khải bẩm giáo chủ, thuộc hạ trông thấy Triệu cô nương xuống núi rồi.

Trương Vô Kỵ lòng đau như cắt: ?Mẫn muội bỏ hết mọi thứ để theo ta, cùng nhau trải qua bao nhiêu hoạn nạn, tạ phụ nàng sao đành??. Chàng bèn quay sang nói với Dương Tiêu:

– Dương huynh, việc ở đây nhờ ông thay mặt giải quyết, tôi phải đi trước một chút.

Chàng quay sang Không Văn, Không Trí cáo từ, rồi chào Du Liên Châu, Trương Tùng Khê, Ân Lê Đình mọi người, sau cùng nói với Chu Chỉ Nhược:

– Chỉ Nhược, em cố bảo trọng, mình sẽ gặp lại sau.

Chu Chỉ Nhược cúi đầu không trả lời, chỉ nhè nhẹ gật đầu, từ khóe mắt mấy giọt lệ long lanh rơi xuống.

* * *

Trương Vô Kỵ thi triển khinh công chạy như bay xuống chân núi. Suốt mấy dặm đâu đâu cũng thấy anh hùng hào khách từ chùa Thiếu Lâm trên đường về, chàng không muốn chào hỏi ai, nên lẻn theo ngang hông họ mà chạy nhưng trước sau vẫn không thấy bòng dáng Triệu Mẫn đâu. Chàng chạy một mạch đến ba chục dặm, trời đã về chiều, người đi trên đường mỗi lúc một vắng, bỗng nghĩ ra: ?Mẫn muội mưu kế sâu xa, nếu quả như nàng muốn tránh mặt ta hẳn không theo đường lớn mà đi. Nếu không cước trình ta nhanh như vậy hẳn đã phải gặp rồi. Không lẽ nàng trốn trong núi Thiếu Thất, đợi ta đi qua rồi mới đi ngược trở lại?? Chàng bụng nóng như lửa đốt, chẳng quản đói khát, lại chạy trở vào trong các ngọn núi, thỉnh thoảng lại nhảy lên ngọn cây hay gò đống, nhìn dáo dác chung quanh. Trong núi tịch mịch chỉ thấy những đàn quạ bay về tổ.

Chàng vòng trở lại núi Thiếu Thất rồi vẫn không thấy bóng dáng Triệu Mẫn đâu bụng nhủ thầm: ?Dù gì chăng nữa, ta đối với em cũng chẳng thay lòng đổi dạ, dẫu phải đến chân trời góc biển cũng phải tìm cho ra được nàng mới thôi?. Bụng đã quyết như thế, lòng cũng thấy bình tĩnh lại, thấy nơi thung lũng phía đông bắc có hai cây hòe lớn đứng song song bèn nhảy lên ngọn cây, kiếm một cành đâm ngang, nằm xuống. Chàng qua một ngày trải bao nhiêu chuyện, người mỏi mệt nên đặt mình chẳng mấy chốc đã thiu thiu ngủ.

Chàng ngủ đến nửa đêm, bỗng nghe tiếng bước chân ai đó ở cách chừng vài mươi trượng nên lập tức tỉnh dậy. Khi đó vầng trăng đã ngả về hướng tây, dưới ánh sáng thấy một bóng người đang di hành trên sườn núi cực nhanh nhẹn chạy về hướng nam. Người đó dáng thon thả, thắt đáy lưng ong là một thiếu nữ thân hình mảnh dẻ. Chàng mừng rỡ, đang toan mở miệng kêu lên ?Mẫn muội? nhưng lập tức biết là mình nhìn lầm, người con gái đó so với Triệu Mẫn hơi cao hơn một tí, thân pháp khinh công lại khác hẳn, bước chân nhẹ nhàng hơn Triệu Mẫn nhưng dáng phiêu hốt xem chừng chưa bằng Chu Chỉ Nhược.

Lòng hiếu kỳ của chàng nổi lên: ?Cô gái này canh khuya dặm trường, không hiểu có chuyện gì thế??. Chuyện này vốn dĩ chẳng liên quan gì đến chàng, cũng chẳng muốn đi rình mò chuyện con gái nhà người ta nhưng bỗng nghĩ đến: ?Biết đâu từ cô gái này mình kiếm được Mẫn muội không chừng. Nếu như nàng ta không liên quan gì đến Mẫn muội thì ta cứ len lén bỏ đi là xong, cũng chẳng có gì đáng ngại. Mình không nên bỏ lỡ bất cứ dịp nào?. Chàng tính thế bèn đánh đu vào cành cây nhẹ nhàng nhảy xuống.

Trương Vô Kỵ sợ bị thiếu nữ kia phát giác nên không dám đến gần, nghĩ thầm canh khuya mình lẻn đi theo một người con gái không quen biết, chẳng khỏi bị nghi là có tính khinh bạc, thấy cô ta mặc một bộ đồ đen, chính là đang đi đến phía chùa Thiếu Lâm. Chàng tự hỏi: ?Nếu như nàng ta không có liên quan gì đến Mẫn muội thì cũng có chuyện gì với phái Thiếu Lâm. Nếu như cô ta có ý không tốt với nhà chùa thì việc này ta phải ra tay mới được?. Chàng dừng bước lắng nghe, bốn bề không thấy có ai, biết cô gái này không có ai tương trợ.

Đi được chừng thời gian ăn một bữa cơm, người con gái không hề ngoái cổ lại. Trương Vô Kỵ thấy sau lưng nàng có chiều quen thuộc, dường như trước đây đã từng nhìn qua nghĩ thầm: ?Là Võ Thanh Anh cô nương chăng? Hay là một nữ đệ tử nào của phái Nga Mi??. Đi thêm mấy dặm nữa, chùa Thiếu Lâm đã ở ngay trước mặt, thiếu nữ kia chuyển qua sườn núi đến bên hông chùa. Nàng đi chậm lại, lấp ló trốn sau những tàn cây, khe đá, hiển nhiên sợ người ta nhìn thấy tung tích.

Bỗng nghe từ đại điện trong chùa truyền ra mấy tiếng khánh, kế đến là tiếng tụng kinh bằng tiếng phạn của khoảng mấy trăm nhà sư. Trương Vô Kỵ lấy làm lạ: ?Sao nửa đêm khuya khoắt các nhà sư lại tụng kinh, mà sao đông người đến thế, không lẽ có một đàn tràng nào thật lớn chăng??.

Thiếu nữ kia càng di chuyển kỹ lưỡng hơn, tiến lên vài chục trượng đã đến bên đại điện. Bỗng nghe có bước chân nhẹ nhàng, thiếu nữ vội nằm phục xuống đám cỏ, kế đến có bốn nhà sư Thiếu Lâm tay cầm giới đao thiền trượng đi tuần đến. Cô gái đợi cho những nhà sư đi qua mới nhỏm dậy, nhảy một cái đã đến bên cửa sổ của đại điện. Cái nhảy đó thân hình nhẹ nhàng như bay, quả là khinh công của một cao thủ bậc nhất trong võ lâm.

Trương Vô Kỵ thấy cô ta không mang binh khí, chỉ có một thân một mình, xem ra không phải là người đến sinh sự, muốn xem cho kỹ là người nào, mình có từng quen biết hay không nên khom người xuống rón rén đi qua phía sau lưng tới góc tây bắc của đại điện. Chàng tự biết lúc này hết sức khó ăn khó nói, ví thử những nhà sư Thiếu Lâm phát giác được, với địa vị thân phận như mình, đêm hôm đến chùa dòm dỏ nếu như không thông cảm thì thật là mất mặt cho nên càng thêm cẩn thận, từng bước đi từng hành động nhẹ nhàng như mèo vờn chuột.

Lúc đó trong đại điện tiếng tụng kinh lại nổi lên, chàng ghé mắt qua khe cửa nhìn vào, thấy trong đó có tới mấy trăm tăng nhân, từng hàng từng hàng ngồi trên bồ đoàn, ai nấy khoác hoàng bào, bên ngoài lại thêm đại hồng kim tuyến cà sa, có người tay cầm pháp khí, có người chắp tay cúi đầu tụng niệm, chính là một buổi lễ cầu cho vong hồn được siêu thăng tịnh độ. Chàng lúc ấy hiểu ra: ?Kỳ anh hùng đại hội này có biết bao nhiêu người chết, khi quân Nguyên đánh lên, hai bên tử thương lại càng nhiều. Tăng lữ trong chùa ngày đêm cầu siêu cho người tử nạn, nguyện cho những người đó vãng sinh cực lạc?. Chàng thấy Không Văn đại sư đứng ngay trước nơi bàn thờ đích thân chủ tế, nhưng đứng phía bên phải lại là một thiếu nữ.

Trương Vô Kỵ vừa nhìn thấy, hơi lạ lùng. Người con gái đó chính là Chu Chỉ Nhược, tuy chỉ nhìn ngang nhưng thấy rõ thần sắc nàng bất định, đôi lông mày hơi nhíu lại, dường như có chiều lo lắng, nghĩ thầm: ?Đúng rồi, ban ngày Chỉ Nhược quì trước mặt Không Văn đại sư, chính là cầu xin ông lập đàn tràng, có lẽ nàng sám hối những gì đã làm, dưới tay giết chết nhiều người vô tội?. Chàng nhìn kỹ trên bàn thấy ngay chính giữa là một bài vị trên viết bảy chữ ?Nữ hiệp Ân Ly chi linh vị?.

Trương Vô Kỵ đau lòng, nghĩ đến biểu muội cuộc đời khổ sở, đối với mình thật một mối thâm tình, không khỏi bùi ngùi chảy nước mắt. Trong tiếng chuông tiếng mõ, Chu Chỉ Nhược sì sụp lạy, miệng mấp máy, cúi đầu khấn nguyện. Trương Vô Kỵ vận thần công tập trung tinh thần nghe ngóng dường như:

– Ân cô nương … ở trên trời linh thiêng, xin được an nghỉ … đừng hiện về phá tôi…

Chàng vịn vào tường trong đầu rộn lên bao ý nghĩ: ?Biểu muội chết vì tay nàng, cố nhiên tội nghiệp thật, thế nhưng trong lòng Chỉ Nhược nỗi ray rứt chắc gì đã ít hơn cô em họ của mình?. Trong đầu chàng bỗng nhớ lại năm xưa trên Quang Minh Đính nghe giáo chúng Minh Giáo hát mấy câu:

Khi sống có gì vui,

Thì chết có gì khổ?

Thương thay cho con người,

Lo buồn sao lắm vậy.

Thương thay cho con người,

Lo buồn sao lắm vậy.

Chu Chỉ Nhược từ từ đứng lên, hơi nghiêng người, quay đầu sang phía đông, đột nhiên mặt hoảng hốt:

– Ngươi … ngươi … ngươi … lại đến kìa.

Giọng nàng rú lên át hẳn tiếng chuông tiếng khánh trong điện. Trương Vô Kỵ theo hướng mắt nàng nhìn theo, thấy khung giấy dán trên cửa đã bị rách từ bao giờ, nơi vết thủng hiện lên một khuôn mặt con gái, mặt đầy vết sẹo ngang dọc khiến chàng run bần bật, nhịn không nổi phải kêu lên một tiếng.

Thiếu nữ đó trên mặt loang lổ, tuy không còn nổi u từng cục như xưa nhưng rõ ràng chính là người đã chết Ân Ly. Chàng toan tiến lên gọi nhưng chân như dính xuống đất, người chết sững không cách nào cử động được. Chỉ thấy khuôn mặt đó biến ngay mất, trong điện nghe bình một tiếng, Chu Chỉ Nhược đã ngã lăn ra.

Trương Vô Kỵ lúc đó không muốn để cho phái Thiếu Lâm hiềm nghi, lớn tiếng kêu lên:

– Châu Nhi! Châu Nhi! Em đấy ư?

Thế nhưng không nghe tiếng trả lời. Chàng hơi định thần, phi thân theo đường cũ đuổi theo, chỉ thấy trăng lạnh treo lơ lửng, những cây là cây, người con gái áo đen kia không biết đi nơi nào. Chàng vốn không tin ma quỉ nhưng gặp phải cảnh thế này không khỏi toát mồ hôi lạnh, người nổi da gà, đứng lại lẩm bẩm:

– Đúng nàng rồi! Đúng nàng rồi! Thảo nào sau lưng thấy quen quá, hóa ra là Châu Nhi. Chắc hồn nàng biết được cao tăng Thiếu Lâm tụng kinh siêu độ cho mình nên mới đến nghe kinh chăng? Hay là nàng chết oan chết uổng nên hồn không tan đi được?

Những nhà sư Thiếu Lâm nghe tiếng động đã có mấy người chạy ra xem chuyện gì, thấy Trương Vô Kỵ không khỏi ngạc nhiên. Một tăng nhân lớn tuổi tiến lên hành lễ nói:

– Không biết Trương giáo chủ đêm khuya giáng lâm nên chưa kịp ra đón, xin thứ tội cho.

Trương Vô Kỵ cũng chắp tay chào nói:

– Không dám.

Chàng tiến vào trong điện, thấy Chu Chỉ Nhược hai mắt nhắm nghiền, mặt xanh mét không còn chút máu vẫn chưa tỉnh lại. Chàng lại gần, dùng sức day nhân trung nàng mấy cái lại xoa bóp ở sau lưng.

Chu Chỉ Nhược từ từ tỉnh lại, vừa trông thấy Trương Vô Kỵ liền sà ngay vào lòng ôm chặt lấy chàng, kêu lên:

– Có ma! Có ma!

Trương Vô Kỵ đáp:

– Việc này quả cũng lạ thật, cô đừng sợ. Chung quanh đây có rất nhiều cao tăng, thể nào cũng giải được mối oan nghiệt này.

Chu Chỉ Nhược trước nay đoan trang ổn trọng, lúc này vì quá sợ nên trước mặt mọi người mà vẫn cứ níu chặt lấy chàng, nghe nói thế mặt đỏ lên vội vàng buông Trương Vô Kỵ ra, đứng lên nhưng người vẫn còn run rẩy không thôi, nắm chặt tay chàng không chịu rời.

Trương Vô Kỵ tiến lại chào Không Văn, kể lại chuyện có kẻ ở bên ngoài coi trộm. Không Văn và quần tăng tuy không ai thấy nhưng vết rách trên giấy dán cửa sổ vẫn còn đó. Chu Chỉ Nhược nói:

– Vô Kỵ ca … Trương giáo chủ, tôi thấy rồi, đúng là cô ta.

Trương Vô Kỵ gật đầu, Chu Chỉ Nhược run rẩy hỏi:

– Thế anh … anh … thấy ai?

Trương Vô Kỵ đáp:

– Thấy Ân cô nương, cô em họ tôi Ân Ly.

Chu Chỉ Nhược kêu khẽ lên một tiếng, lại ngất đi. Lần này Trương Vô Kỵ đang nắm tay nàng nên Chu Chỉ Nhược không ngã, thành thử vừa xỉu là tỉnh lại ngay. Trương Vô Kỵ nói:

– Tôi trông thấy biểu muội, nhưng cô ta là … người chứ không phải là ma.

Chu Chỉ Nhược run run hỏi:

– Cô ta không phải ma sao?

Trương Vô Kỵ đáp:

– Tôi theo cô ta tới chùa Thiếu Lâm, thấy cô ta đi đứng bình thường, nhất định không thể là ma được.

Mấy câu đó chẳng qua chỉ để an ủi Chu Chỉ Nhược chứ trong bụng chàng, Trương Vô Kỵ cũng không dám chắc. Chu Chỉ Nhược hỏi thêm:

– Có thực anh thấy cô ta đi đứng bình thường, không phải là ma chứ?

Trương Vô Kỵ nhớ lại quãng đường đuổi theo thiếu nữ áo đen kia đến đây, lại thấy nàng náu mình sau cửa sổ nhìn vào, nhất cử nhất động đều đúng là một cô nương biết võ công, không có gì khác lạ bèn quay sang hỏi Không Văn đại sư:

– Phương trượng, tại hạ có một điều không rõ, mong được thỉnh giáo. Người chết đi rồi, có thật còn hồn ma hay chăng?

Không Văn trầm ngâm một hồi nói:

– Chuyện cõi u minh, quả thực khó nói.

Trương Vô Kỵ hỏi tiếp:

– Thế thì vì cớ gì phương trượng lại thành kính tụng niệm để siêu độ cho các u hồn?

Không Văn nói:

– Thiện tai! Thiện tai! U hồn không thể siêu độ được, người chết đi rồi nhưng nghiệp vẫn còn, thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo. Nhà Phật lập đàn tràng tụng niệm là để cho người sống được an tâm, siêu độ là để người còn sống được siêu độ.

Trương Vô Kỵ bấy giờ mới hiểu, chắp tay nói:

– Đa tạ phương trượng chỉ điểm. Tại hạ canh khuya đến làm rộn, quả thật không an, mong đại sư thứ tội cho.

Không Văn mỉm cười:

– Giáo chủ là đại ân nhân của tệ phái, mấy lần ra tay cứu giúp phái Thiếu Lâm khỏi tai nạn, sao còn khách sáo thế.

Trương Vô Kỵ liền cùng các nhà sư cáo từ rồi quay sang nói với Chu Chỉ Nhược:

– Thôi mình đi chứ.

Chu Chỉ Nhược hơi có vẻ ngần ngừ không dám ra khỏi Phật điện. Trương Vô Kỵ không tiện ép uổng, chắp tay nói:

– Nếu như thế thì mình từ biệt nơi đây.

Nói xong chàng xoay mình đi ra cửa điện. Chu Chỉ Nhược nhìn sau lưng chàng, đột nhiên gọi:

– Vô Kỵ ca ca, anh có còn gặp em nữa không? Để em … em đi với anh vậy.

Nàng chạy đến bên chàng, hai người sánh vai đi ra khỏi chùa Thiếu Lâm một quãng xa, Chu Chỉ Nhược liền nép mình vào Trương Vô Kỵ cầm tay chàng. Trương Vô Kỵ biết nàng vẫn còn sợ, cũng nắm chặt bàn tay mềm mại, ngửi thấy bên mình mùi thơm ngây ngất, trong lòng bỗng thấy phiêu phiêu.

Hai người yên lặng một lúc lâu, bỗng nhiên Chu Chỉ Nhược thở dài một tiếng nói:

– Vô Kỵ ca ca, ngày nào hai đứa mình lần đầu gặp nhau nơi sông Hán Thủy, em được Trương chân nhân cứu thoát, nếu biết sau này phải chịu biết bao nhiêu khổ sở thì giá như chết ngay lúc đó, có phải thoải mái hơn không.

Trương Vô Kỵ không trả lời, nghĩ đến câu hát của giáo đồ Minh Giáo, buột miệng ngâm nga:

Sinh diệc hà hoan?

Tử diệc hà khổ?

Lân ngã thế nhân,

Ưu hoạn thực đa.

(Khi sống có gì vui,

Thì chết có gì khổ?

Thương thay cho con người,

Lo buồn sao lắm vậy)

Chu Chỉ Nhược nghe khúc ca chàng đọc, bàn tay nắm lấy chàng hơi run run. Nàng hạ giọng nói nhỏ:

– Trương chân nhân đưa em lên núi Nga Mi là để cho em được sung sướng, thế nhưng nếu như lão nhân gia giữ em ở lại núi Võ Đương, cho em gia nhập môn hạ phái Võ Đương thì mọi sự hôm nay đã khác hẳn. Ôi! Ân sư đối với em có gì không tốt đâu? Có điều … có điều sư phụ bắt em phải lập độc thệ, ép em phải hận thù Minh Giáo, ép em phải hận chàng, hại chàng, nhưng trong lòng em … quả thực …

Chọn tập
Bình luận
× sticky