Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Trở Lại Địa Đàng

Chương 2

Tác giả: James Rollins

Dạ dày Lorna thắt lại khi chiếc trực thăng bay lên – cô không cử động nhiều như lúc hoảng loạn. Cô nắm chặt tay vịn khi ngồi cạnh phi công. Tiếng gầm của cánh quạt lớn xuyên qua chiếc tai nghe lớn của cô. Cảm giác như đang ở trong một thang máy đi lên. Thang máy gắn động cơ phản lực.

Cô chưa bao giờ là tuýp người thích độ cao, nói chung là ghét đi lại bằng máy bay, và coi đó chỉ là ngồi trên một chiếc trực thăng chuyên dụng điên loạn. Cô chỉ mới bay một lần trên một chiếc trực thăng, trong chuyến đi thực tập ở Nam Phi để tiến hành thống kê số lượng voi châu Phi ở biên giới khu bảo tồn. Lúc đó, cô đã chuẩn bị một vỉ thuốc Xanax trước khi bay. Mặc dù vậy, chân cô vẫn cảm thấy lẩy bẩy vài giờ sau đó.

Và hôm nay cô không hề được báo trước.

Tiến sĩ Metoyer chỉ nói với cô vài thông tin sơ sài khi trực thăng hạ cánh. Ông thậm chí không cho cô thời gian vào trong kiểm tra lại các bình nitơ lỏng. Các nhân viên sẽ theo dõi nó, ông đã hứa vậy, và nói thêm rằng ông sẽ đích thân kiểm tra và báo lại qua điện đàm sau.

Điện đàm…

Họ đang bay vượt xa bất kỳ tín hiệu nào.

Cô mạo hiểm nhìn qua cửa sổ bên hông. Chiếc trực thăng nghiêng đi, cô có cơ hội nhìn thấy toàn cảnh sông Mississippi. Họ đang bay xuôi dòng sông, men theo dòng Big Muddy. Cái tên[1] đặc biệt có khuynh hướng gắn với cơn bão. Con sông có màu nâu sôcôla, phù sa màu mỡ, nước chảy xoáy và kêu ục ục khi gần về phía vịnh Mexico.

Họ đang hướng thẳng đến vùng châu thổ, nơi mà tất cả đất bồi – phù sa, đất sét, cát và đất – đắp vào rồi lại bị cuốn đi khỏi Vịnh, hình thành nên hơn mười hai nghìn cây số vuông đất ngập mặn và đầm lầy. Khu vực này không chỉ quan trọng về mặt môi trường, là mái nhà của một hệ sinh thái rộng lớn và phức tạp có nguồn gốc từ kỷ Jura, nó còn có ý nghĩa thương mại đáng kể. Khu vực này cung cấp cho nước Mỹ một lượng lớn thủy hải sản, và gần 20 phần trăm nguồn dầu của nó.

Nó cũng là một mắt xích yếu trong biên giới quốc gia. Trật tự rối rắm của các đảo, kênh đào và khu đánh cá bị cô lập khiến vùng châu thổ trở thành nơi bọn buôn lậu và buôn ma túy hoạt động. Cục An Ninh Nội Địa đã định rõ mối đe dọa ở mức cao tại khu vực và tăng cường an ninh tại trạm New Orleans của Ban Tuần Tra Biên Giới.

Theo lời của sếp cô thì Ban Tuần Tra Biên Giới đã kiểm tra khu vực ngay sau đêm cơn bão nổi lên. Đó là lúc thuận lợi cho bọn buôn lậu hoạt động dưới sự che đậy của cơn bão, mang vào ma túy, súng, thậm chí cả nô lệ. Sáng sớm nay, một nhóm đã phát hiện một tàu đánh cá mắc cạn trên một hòn đảo hẻo lánh. Sau khi kiểm tra con tàu, họ đã tiến hành một cuộc gọi đến ACRES.

Phần lớn nội dung cuộc gọi vẫn còn bí mật, thậm chí đối với Tiến sĩ Metoyer. Ông đã không được thông báo về yêu cầu cụ thể, hoặc tại sao chỉ riêng Lorna được gọi thực hiện chuyến đi này.

Mặc dù có chút lo lắng về chuyến bay, cơn giận âm ỉ đang dậy lên trong cô. Cô phải bỏ lại các dự án quan trọng tại ACRES. Cô đang làm gì trong một chuyến bay vô định? Cơn giận lớn dần, dấy lên bởi nỗi lo của cô. Chuyện quái gì đang diễn ra thế này? Tại sao lại gọi riêng cô? Cô không biết bất kỳ ai ở Ban Hải Quan Và Bảo Vệ Biên Giới cả.

Câu trả lời duy nhất nằm ở cuối chuyến bay này.

Điện đàm gắn trong tai nghe của cô kêu rè rè. Viên phi công chỉ tay về phía đường chân trời. Anh mặc bộ quân phục màu xanh lá với huy hiệu trên vai đánh dấu thuộc lực lượng Không quân của Ban Tuần Tra Biên Giới và đơn vị Hải quân. Anh đã giới thiệu mình rồi, nhưng cô không kịp nhớ tên.

“Tiến sĩ Polk, chúng ta sẽ hạ cánh trong vài phút nữa.”

Cô gật đầu và nhìn về phía trước. Lớp màn xanh lục dày đặc của các đầm nước lầy lội vỡ ra ở bên dưới tạo thành một loạt đảo và bán đảo. Xa ngoài Vịnh, một vạch tối gần đường chân trời tạo nên một hàng rào các đảo lớn hơn giúp bảo vệ các bãi lầy và đầm ven biển nhỏ.

Nhưng họ không bay xa đến vậy.

Cô phát hiện một chiếc tàu trắng sáng bóng neo tại một hòn đảo nhỏ. Cuối cùng cũng đến. Khi họ bay xuống đó, cô chú ý thấy một tàu đánh cá cũ đắm trên bờ biển. Cú đắm đủ mạnh để quật đổ vài cái cây và làm trồi hẳn nửa thân tàu lên hòn đảo. Rõ ràng nó bị xô đẩy, va đập bởi trận bão.

Chiếc trực thăng lao nhanh xuống. Cô bám chặt tay vịn. Cô từng đọc về vô số tai nạn máy bay xảy ra khi cất và hạ cánh. Nhưng cô không muốn nghĩ đến bất kỳ thống kê nào trong đầu vào lúc này.

Vượt qua vài mét nước, họ giảm tốc độ. Cánh quạt quay mạnh làm nước lăn tăn. Sau đó, nhẹ nhàng như con ngỗng đáp xuống mặt ao phẳng lặng, phao nổi của chiếc trực thăng chạm vào mặt nước. Vài thiết bị ngắt mạch và tiếng cánh quạt bắt đầu chậm lại.

“Hãy ngồi yên tại chỗ,” viên phi công nói. “Họ sẽ đưa một chiếc Zodiac ra đón cô.”

Sự ra hiệu phía ngoài cửa sổ của anh làm cô chú đến một chiếc thuyền phao nhỏ bằng cao su được đẩy ra khỏi đảo và hướng thẳng về phía họ. Một lúc sau, một thủy thủ cũng mặc cùng quân phục xanh lá của Ban Tuần Tra đỡ cô ra khỏi trực thăng xuống chiếc Zodiac.

Cô ngồi xuống một băng ghế trên thuyền phao, chưa an tâm hẳn và cảm thấy nóng trong bụng. Cô che mắt khi họ hướng về phía bờ, tìm câu trả lời cho lệnh triệu hồi bí ẩn và đột ngột này.

Buổi sáng đang ấm dần lên khi mặt trời xé toạc những đám mây và ló dạng trên nền trời xanh thẳm. Ngày này hứa hẹn trở thành một dịp tắm hơi của tiểu bang Louisiana. Và cô thích điều đó. Cô hít thật sâu để trấn an mình, cảm nhận mùi nước lợ của lá cây phân rã, mùi ẩm ướt của rêu, và mùi bùn trong nước mặn.

Với cô, đó là mùi của nhà mình.

Gia đình cô đã từng sống tại tiểu bang Louisiana từ thế kỷ mười chín. Giống như tất cả các gia đình khác ở New Orleans, quá khứ của cô đã ăn sâu vào tâm trí như chỉ tay. Tên tuổi của ông bà và những câu chuyện quen thuộc như thể họ chỉ mới mất ngày hôm qua.

Suốt chiến tranh năm 1812, ông cụ cố của cô chỉ mới mười bảy tuổi khi ông từ bỏ quân đội Anh trong trận chiến ở New Orleans và lập gia đình tại một thành phố mới phát triển ở biên giới. Ông gặp, cưới cô con gái của gia đình Trepagnier và nhanh chóng tạo lập một gia sản nhỏ bằng nghề trồng mía và chàm trên khu đất rộng gần nửa cây số vuông vốn là của hồi môn. Nhiều năm trôi qua, gia sản đó tiếp tục nảy nở, và dòng họ Polk là một trong những người đầu tiên xây dựng thung lũng sồi ở quận Garden bang New Orleans. Sau khi bán khu đất, gia đình họ định cư hẳn ở khu vực này. Trải qua các thế hệ, biệt thự Polk được kính trọng xem như là nơi gặp gỡ của các tướng lĩnh quân đội, học giả luật và vô số những người nghiên cứu khoa học, thư tín.

Tòa biệt thự kiểu Ý vẫn còn đó, nhưng cũng như thành phố, gia tộc Polk đã bắt đầu suy yếu ở thế kỷ thứ hai mươi. Chỉ có Lorna và em trai cô vẫn mang tên của gia đình. Cha cô đã chết vì ung thư phổi khi Lorna còn là nhỏ; mẹ cô cũng qua đời một năm trước đây, để lại tòa biệt thự tồi tàn và nợ nần chồng chất.

Nhưng truyền thống học hành quý báu vẫn tiếp tục. Cô vào chuyên ngành y và khoa học. Em trai cô, nhỏ hơn một tuổi, là kỹ sư dầu khí làm việc cho nhà nước. Tạm thời hai chị em độc thân, cùng ở chung căn biệt thự gia đình để lại.

Tiếng cát ướt cạ vào cao su kéo cô quay trở về hiện tại.

Hòn đảo nhỏ, nằm thành chuỗi dày đặc tạo nên các đầm lầy ven biển, được bao bọc bởi rừng cây bách bện chặt vào nhau bởi loài rêu Tây Ban Nha. Trông có vẻ không thể đi xuyên sang bờ kia của biển.

Nhưng đó không phải là nơi cô đang tới.

“Lối này,” người lái chiếc Zodiac nói. Anh lịch sự đưa tay đỡ cô bước ra khỏi thuyền, nhưng cô phớt lờ anh và tự mình trèo ra. “Ban FOS đang đợi cô.”

“FOS?”

“Ban giám sát hoạt động khu vực.”

Cô không hiểu cơ cấu chỉ huy của Ban Tuần Tra Biên Giới, nhưng nghe có vẻ như đó là người phụ trách điều tra. Có lẽ chính là người đã gọi cô đi khỏi ACRES. Muốn tìm câu trả lời, cô đi theo đến chỗ chiếc tàu đánh cá mắc cạn. Sống và lớn lên dọc bờ sông, cô hiểu biết về tàu thuyền. Chiếc tàu đánh cá là một chiếc cỡ nhỏ dài mười hai mét. Mạn tàu vỡ toác do va đập, nhưng ở phía lối lên, các thanh sào dài vẫn chọc thẳng lên trời. Những chiếc lưới bắt tôm vẫn cột chặt vào những thanh sào.

Một nhóm người, tất cả đều mặc quân phục của Ban Tuần tra, tập hợp trên bãi biển dọc theo con tàu. Vài người đội mũ phớt màu nâu, số khác đội mũ bóng chày xanh lá. Cô cũng chú ý các bao súng ở bên hông. Một người mang khẩu Remington vất vưởng trên vai.

Chuyện gì thế này?

Họ giữ im lặng khi cô đến gần. Vài cặp mắt đảo lên xuống vẻ ngoài của cô, trông hơi ấn tượng. Cô giữ gương mặt nguyên ở trạng thái nghiêm nghị, nhưng cảm thấy má nóng bừng. Cô đáp trả những ham muốn thô tục bằng cách lướt qua tất cả.

Rõ ràng là một câu lạc bộ toàn thanh niên ở đây.

Đám nhân viên dạt ra dành đường cho một người đàn ông cao ráo cũng mặc chiếc quần màu xanh sẫm và áo sơ mi dài tay, xắn lên tới khuỷu. Anh ta luồn tay qua mái tóc đen đẫm mồ hôi, chỉnh lại chiếc mũ bóng chày đen. Đôi mắt xanh xám thăm dò cô từ đầu đến chân. Không giống những người khác, cô không cảm thấy mùi dung tục nào trong thái độ của anh ta, chỉ là đánh giá cao cô.

Nên cô thấy vui khi mũi nón của anh che đôi mắt ấy.

Anh tiến lại gần hơn thu hẹp khoảng cách giữa họ. Anh cao trên một mét tám, vai rộng, người săn chắc chứ không quá cơ bắp. Cung cách thuộc dạng người biết lãnh đạo mà không cần ra vẻ thống trị. Tự tin, kèm theo một nét hoang dã toát lên ở anh.

Anh chìa bàn tay to lớn ra khi bước đến trước cô.

“Tiến sĩ Polk, cảm ơn cô vì đã đến.”

Cô bắt tay và chú ý đến một vệt sẹo dài trên cánh tay anh, từ khuỷu tay đến cổ tay. Liếc nhìn lên, cô bắt gặp ánh mắt của anh. Nước da màu ô liu rám nắng, nhìn sạm hơn bởi râu tóc lởm chởm ở cằm và quai hàm. Tai cô nhận ra chất giọng Pháp nhẹ của người Cajun ở anh.

Vậy anh ta là người bản xứ. Thật ra, có một chút bức bối quen thuộc ở anh – và nó thôi thúc cô. Cô cần một câu trả lời vì sao mình được đưa đến đây.

Thay vào đó, một câu hỏi khác bật ra.

“Jack?”

Môi anh căng mọng nhưng hoàn toàn nam tính, chuyển thành một đường thẳng khi anh đáp lại bằng cái gật đầu trống không. Ký ức về anh đột ngột thay đổi. Cơn giận trôi tuột khỏi cô, thay vào đó là cảm giác lạnh lẽo và không thoải mái. Đã hơn mười năm kể từ khi cô nhìn thấy anh lần cuối. Cô lúc đó chỉ là học sinh năm hai ở trung học; anh là học sinh năm cuối.

Mặc dù cô không thật sự hiểu rõ về anh lúc đó – thời trung học, hai năm là một khoảng cách xã hội khó vượt qua – những khó khăn gắn kết họ lại với nhau. Mối liên kết mà cô đã muốn kéo dài mãi trong quá khứ.

Từ biểu hiện thoáng qua như mây mù trên khuôn mặt anh, có thể anh cũng mong như vậy. Dù thế nào đi nữa, đây không phải là lúc khơi lại những vết thương lòng.

“Tiến sĩ Polk,” anh nói giọng kiên quyết. Âm vực trở nên trầm hơn, khàn hơn. “Tôi gọi cô đến đây vì… vì tôi không biết ai khác có đủ chuyên môn để chỉ dẫn về thứ mà chúng tôi tìm thấy.”

Cô quay lưng lại, bước đi với vẻ chuyên nghiệp. Đó có lẽ là cách tốt nhất. Cô nuốt nước bọt và nhìn chằm chằm về phía con tàu, vui vì có cớ để nhìn đi chỗ khác. “Anh đã tìm thấy gì?”

“Tốt nhất là cô nên tự mình nhìn thấy nó.”

Anh quay lại và dẫn đường đến con tàu. Một chiếc thang dây dẫn lên boong tàu. Anh leo lên trước một cách dễ dàng. Cô thấy rõ sức khỏe của đôi chân và lưng anh. Ngay khi anh biến mất sau mép tàu, một người lính của anh thả thang xuống thấp hơn để cô leo lên dễ dàng.

Ở phía trên, Jack giúp đỡ cô lên boong. Hai người đàn ông khác đứng canh gác một cách cửa dẫn đến những khoang thấp hơn. Một trong số họ đưa cho Jack một cây đèn pin.

“Thưa sếp, chúng tôi đã thắp một cái đèn xách tay dẫn đường xuống khoang, nhưng dưới đó vẫn tối om.”

Jack bật đèn pin của mình và vẫy cô đi theo. “Cẩn thận với vệt máu trên những bậc thang.”

Ánh đèn của anh làm lộ ra các vệt máu dọc theo lối đi. Giống như có cái gì đó bị kéo xuống khoang.

Cô đột nhiên không muốn đi xuống đó nữa.

“Chúng tôi không tìm thấy thi thể nào”, Jack nói như thể cảm nhận được sự khó chịu của cô. Hoặc anh đang kể chi tiết vụ việc.

Cô đi theo anh xuống những bậc thang và dọc theo lối đi hẹp.

“Họ nhốt chúng trong lồng ở khoang chính.”

Cô không bận tâm cái gì bị nhốt. Cô đã ngửi thấy mùi quen thuộc của cũi chó, không lầm vào đâu được. Cô nghe tiếng động vật di chuyển, tiếng sột soạt, tiếng rên la, tiếng kêu của một con chim.

Cô bắt đầu hiểu tại sao cô được triệu tập đến. Buôn lậu động vật quý hiếm là nghề kiếm tiền tỉ, chỉ xếp sau buôn lậu ma túy và vũ khí. Và thật không may, nước Mỹ là một trong những nguồn tiêu thụ hàng đầu các hàng hóa nhập lậu, chiếm khoảng 30 phần trăm doanh thu.

Tuần trước cô đã đọc về vụ khám xét một đường dây buôn bán bất hợp pháp các loại hổ quý hiếm. Trong vụ đó, cặp vợ chồng từ Missouri đã không mang lũ hổ về bán làm kiểng, mà bán nội tạng. Chúng buôn lậu hổ, rồi giết chúng. Da của báo, hổ, và sư tử bán được trên hai mươi ngàn đôla. Nhưng như thế vẫn chưa đủ. Ở các cửa hàng tiêu thụ, họ bán tất cả các bộ phận: dương vật của hổ được nghiền thành thuốc kích dục, xương thì làm thuốc chữa viêm khớp. Không có bộ phận nào bị bỏ phí. Túi mật, gan, thận, thậm chí ngay cả răng. Cuối cùng, lũ mèo lớn khi chết có giá trị hơn lúc còn sống.

Cô thấy cơn tức trào lên khi theo Jack xuống khoang chính.

Một chiếc đèn trên cao chiếu sáng chỗ áp mái. Chuồng thép không gỉ chạy dọc theo hai bên khoang; những thanh rào phía sau vẫn ở trong bóng tối. Cô há hốc khi biết quy mô của hoạt động buôn lậu, nhất định đây là lý do tại sao cô lại cần thiết ở đây vào lúc này, vì cô là bác sĩ thú y chuyên nghiên cứu về động vật quý hiếm.

Jack quay lại và chiếu đèn pin vào cái chuồng gần nhất.

Cô nhìn vào bên trong – biết rằng mình đã đoán sai mọi thứ.

Bình luận
720
× sticky