“Igor, nói ta nghe pi là gì,” Lorna nói khi cô cúi người xuống lồng chim, ngồi chỗ của Kyle. “Pi là gì nào?”
Những người khác quây phía sau cô. Con vẹt chằm chằm nhìn cô bằng một mắt, rồi cả con mắt còn lại. Theo sau là sự kiên nhẫn chú ý của em trai cô, Igor đứng thẳng lại, không còn ủ rũ. Nhưng nó vẫn có vẻ chậm hiểu trong ánh nhìn đó, không giống như sự hăng hái trước đó.
Carlton đứng ngay khuỷu tay cô. “Lorna, cô làm gì vậy?”
“Kiểm tra một thứ.” Cô vẫy sếp ra phía sau. “Mọi người hãy tản ra.” Khi họ đi khỏi, cô di chuyển đến gần hơn, hạ giọng xuống nhỏ nhẹ, thì thào dỗ dành. “Nào, Igor…”
“Igor,” con chim ngập ngừng bắt chước.
“Ngoan lắm, Igor. Ai là con chim ngoan nào?”
“Igor!” nó quác lên tươi tỉnh và nhảy lò dò trên sào.
“Cậu bé ngoan. Giờ trả lời ta pi là gì. Mi đã làm trước đó rồi mà. Pi.”
Ở máy tính gần đó, Lorna đã mở một trang rộng hết cỡ chứa dãy số của hằng số pi: 3.141592653589793…
Con vẹt gật gật đầu. “Ba…”
“Đúng rồi. Giỏi lắm, Igor.”
“Một… bốn…”
Con vẹt làm lại, nhưng sau đó dãy số bắt đầu dài ra.
“tám… bảy… tròn… tam giác…”
Con vẹt gần như quay đầu ngửa lên, đôi mắt nhắm ti hí, như thể đang cố nhớ ra.
“Lorna?” Carlton nhấn giọng. Ông liếc nhìn đồng hồ đeo tay, mất kiên nhẫn. Cô quay lại. Thay vì thất vọng bởi màn trình diễn tồi của Igor, cô trở nên quả quyết hơn. Dù vậy, cô muốn xác nhận lại giả thuyết của mình. “Zoë, cô có thể giúp tôi chạy xuống mang Bagheera lên không? Và, Paul, anh có thể mang cặp khỉ lên không?”
Hai nhà sinh học thần kinh gật đầu và vội chạy đi khỏi.
Lorna nhìn thẳng Carlton. “Trước đó – cả lúc ở chiếc tàu đánh cá và khi ở bên dưới trụ sở – Igor có thể đọc được dãy số pi dài hàng trăm chữ số. Sau đó, tôi không có thời gian kiểm tra lại việc này, nhưng con chim đã đọc chính xác ít nhất mười hai chữ số.”
“Tôi cũng nhớ điều đó,” Jack nói, củng cố cho cô.
Carlton nhún vai. “Tôi không hiểu. Đó đơn thuần chỉ là bắt chước thôi, không phải sao? Chẳng có gì hơn. Cô đang muốn chứng minh điều gì?”
“Tôi nghĩ còn hơn cả bắt chước. Sếp đã đặt ra câu hỏi tại sao những con thú này dường như đồng bộ sóng não với nhau. Tôi nghĩ chắc mình đã có câu trả lời.”
Cô nhận thấy Jack chăm chú nhìn cô. Cô cố gắng kéo dài sự quan tâm và chú ý của anh. Nhưng nếu cô sai thì sao?
Một lát sau, Zoë và Paul quay trở lại cùng các con thú trong tay. Zoë mang con Bagheera đến, nó như em bé nằm trong chăn. Con báo nhìn họ với cặp mắt xanh sáng. Cặp khỉ bấu chặt lấy áo khoác phòng thí nghiệm của Paul bằng cả tứ chi. Trong khi miệng nở nụ cười ngớ ngẩn, anh nhẹ nhàng nâng niu chúng bằng một tay như một người cha tự hào.
Lorna hỏi Carlton, “Khi bọn thú ở cùng nhau thì mất bao lâu để việc đồng bộ hóa xảy ra?”
“Tôi có thể nói điều đó chỉ tính bằng giây. Nhiều nhất là nửa phút.”
Hài lòng, Lorna quay lại chuồng chim. Chúng ta hãy thử lại lần nữa.
“Igor, pi là gì?”
Dáng con chim lại thẳng lên, hoàn toàn chú ý, cặp mắt sáng hơn, chằm chằm nhìn Lorna.
“Pi là gì?” cô lặp lại.
Igor chớp mắt nhìn Lorna và bắt đầu đọc lại trong giọng điệu giống con người một cách kì quái. Lần này thì không có do dự. “Ba, một, bốn, một, năm, chín, hai, sáu, năm…”
Kyle ngồi bên máy tính, dõi theo dãy số trên màn hình. Cặp mắt em trai cô tròn to. “Trời ơi, nó đọc đúng.”
Khi Igor tiếp tục đọc dãy số, đôi mắt nó nhắm nghiền – không phải nheo mắt tập trung và có vẻ vui mừng hơn. “… ba, năm, tám, chín, bảy, chín, ba,…”
Mọi người vẫn yên lặng. Sếp Lorna đến gần Kyle và dõi theo dãy số trên màn hình.
Igor đọc liên tục ba phút, đọc vượt qua khỏi dãy cả trăm con số hiển thị trên màn hình.
Lorna nhìn gương mặt Carlton chuyển từ trạng thái hoài nghi sang sửng sốt. Cuối cùng ông bỏ kính ra và lau sạch nó bằng khăn tay. Ông lắc đầu. “Tôi thừa nhận. Trí nhớ của nó thật đáng kinh ngạc.”
“Tôi không chắc đó là trí nhớ,” Lorna nói khi Igor vẫn tiếp tục. “Tôi nghĩ nó chủ động tính toán.”
Nhìn Carlton có vẽ sẵn sàng chế giễu lần nữa – sau đó điều gì đó hé mở trong mắt ông. “Cô đang nghĩ là… việc đồng bộ hóa… đã vượt khỏi mặt thể chất và trở thành tính chức năng.”
Cô mỉm cười và gật đầu.
“Nghĩa là sao?” Kyle hỏi.
Zoë di chuyển lại gần. Cô nhìn xuống con báo con trong vòng tay. “Vậy chúng không chỉ kết nối với nhau để đồng bộ hóa – ”
Chồng cô tiếp tục suy nghĩ của cô. “ – chúng đang giao tiếp với nhau ở cấp độ chức năng.”
Kyle nhún mạnh vai, vẫn không hiểu được. Jack cũng đến gần Lorna, muốn tìm hiểu thêm.
Cô giải thích. “Bộ não thực sự là một máy tính sinh học. Và hầu hết thời gian mạng lưới khổng lồ các nơron thần kinh không hoạt động, một nguồn sức mạnh tính toán chưa được khai thác. Tôi nghĩ là cái đĩa vệ tinh – nằm trong đầu chúng – đang thực hiện chức năng như là mạng máy tính, kết nối khả năng tính toán trong não mỗi con thú. Mỗi con có đủ quyền truy cập vào khai thác nguồn lực ngủ yên đó trong chiếc máy tính sinh học của những con khác. Nói đơn giản, những con thú đang tạo ra một mạng máy tính thô, kết nối không dây.”
“Nhưng làm sao như thế được?” Jack hỏi.
Trước khi ai đó trả lời được, tiếng điện thoại réo lên làm gián đọa cuộc thảo luận. Carlton nhìn vẻ xin lỗi và trả lời điện thoại. Ông lắng nghe một lúc, sau đó nói, “Cảm ơn, Jon. Chúng tôi sẽ xuống ngay.”
Sếp Lorna cúp điện thoại và nhìn Jack.
“Dường như nhà bệnh học của chúng ta đã có câu trả lời cho câu hỏi của anh, đặc vụ Menard.”
* * *
Jack đã từng thấy nhiều xác chết, nhưng có điều gì đó đặc biệt kinh khủng ở khu khám nghiệm tử thi ở ACRES. Căn phòng không có cửa sổ, to bằng một sân bóng rổ. Các khe và ống dẫn đan chằng chịt một khu trên sàn xi măng. Những cái bàn làm bằng thép không gỉ đồ sộ xếp thành hàng ở giữa phòng, được chiếu sáng bằng đèn phẫu thuật. Phía trên đầu là hệ thống ròng rọc để di chuyển xác động vật lớn vào và ra khỏi nơi đó. Không khí bốc mùi chất phoóc-môn ướp xác và mùi xác thối rữa ẩn trong đó.
Nhìn chung, cả gian phòng gợi cảm giác của một tòa nhà giết mổ khổng lồ.
Sự hứa hẹn các câu trả lời ở phòng của nhà bệnh học đã lôi kéo mọi người xuống đây.
Nằm ở một bên, xác chết của con báo cái nằm bệt nguyên vẹn trên bàn, nhưng bọn họ đều tụ lại ở chiếc bàn khác. Ở đó giữ những mảnh cắt vụn của con báo con. Cơ thể nhỏ bé của nó bị phanh ra như một con ếch. Bụng nó đã bị moi ra. Nội tạng nổi trong các lọ dán nhãn: tim, cật, lá lách, phổi. Nhưng cảnh tượng khủng khiếp nhất chính là cái sọ bị khoét của nó: bị cưa rời ra, trống rỗng.
Bộ não được đặt lên một khay dụng cụ đặt ở đầu bàn. Bề ngoài xám xịt của cơ quan đó sáng lấp lánh vì còn ẩm, được chiếu sáng dưới ánh đèn halogen.
Jack nhận thấy Lorna chăm chú nhìn vào thi thể bị khoét ra. Bạo lực và những mất mát vô bổ của các sinh mạng rõ ràng khiến cô khó chịu, nhưng nhà bệnh học đã lôi kéo sự chú ý của cô.
Tiến sĩ Jon Greer vẫy mọi người lại gần bằng một cái kẹp tay. “Tôi nghĩ mọi người nên tự mình nhìn tận mắt.”
Jack thấy không cần thiết phải cảm ơn sự quan tâm đó, nhưng anh vẫn yên lặng.
Dùng kẹp tay và lưỡi dao mổ, nhà bệnh học tách lớp đầu tiên của não ra và để lộ lớp óc bên trong. Mô nhìn giống như các phần còn lại, ngoại trừ bốn vật thể nhỏ xíu như bốn viên kim cương đen phản chiếu ánh sáng. Chỗ lõm xuống trên thớ thịt đánh dấu cái thứ năm.
“Tôi đã tách một cái trong cơ quan này và làm một vài xét nghiệm nhanh. Tôi sẽ chỉ mọi người xem.”
Anh di chuyển sang bàn bên cạnh. Trên khay nhựa đặt một trong số những viên kim cương đen đó, chỉ có cái này bị chia nhỏ thành bốn mảnh. Greer dùng nhíp để cặp một mảnh lên. Anh di chuyển nó qua một nhúm những thứ trông như hạt tiêu đen bị nghiền nát vụn.
“Mạt sắt,” nhà bệnh học giải thích.
Khi mảnh vụn đi ngang qua chỗ mạt sắt, vài mẩu kim loại nhỏ bay lên bám vào nó.
Greer nhìn những người khác. “Tôi tin rằng thứ mà chúng ta đang nghiên cứu – thứ được đặt vào những bộ não này – là tập hợp dày đặc của các tinh thể mang từ tính.”
“Từ tính?” Jack hỏi. Không ai nhìn có vẻ thực sự ngạc nhiên.
Em trai Lorna chỉ đơn thuần trông nhợt nhạt và giống như cậu đang muốn ở đâu đó thay vì ở đây. “Như nam châm?”
“Một dạng như vậy,” Lorna nói.
Zoë giải thích. “Tất cả mô não, bao gồm cả chúng ta, đều có các tinh thể từ tính đặt tự nhiên bên trong. Sự tích lũy tinh thể có thể được tìm thấy ở vỏ não, trên thùy não và thậm chí ở các màng bao quanh não.”
Lorna gật đầu. “Mức độ từ tính bên trong não loài chim thậm chí còn cao hơn cả. Người ta cho rằng các tinh thể mang từ tính này là một trong những phương thức giúp loài chim định hướng dựa trên từ trường của trái đất khi di cư. Đó là cách chúng đến đúng nơi cần đến hàng năm mà không bị lạc. Nó cũng được tìm thấy trong loài ong, cá, vi khuẩn và các sinh vật khác định hướng bằng la bàn cơ thể.”
“Vậy tại sao chúng ta có thứ đó trong não?”Jack hỏi.
Lorna nhún vai. “Không ai biết cả.”
“Nhưng có nhiều giả thuyết,” Zoë xen vào. “Các nghiên cứu mới nhất bảo rằng từ trường sinh học có thể là nền tảng của sự sống trên hành tinh này. Cơ chế từ tính là cầu nối thực sự giữa năng lượng và vật thể sống. Ví dụ, ma trận áp điện có thể được tìm thấy trong các prôtêin, enzyme, thậm chí cả ADN. Nền tảng lập nên sự sống.”
Lorna giơ một tay cắt ngang cô. “Được rồi, giờ cô khiến tôi khó hiểu.”
“Dù là như vậy,” Greer chen ngang, “chúng ta chưa bao giờ thấy mức từ tính cao như vậy ở động vật nào. Không phải kiểu đối xứng chính xác như vậy và cả kiểu kết dính này. Tôi mạn phép kiểm tra phần bên trong dưới kính hiển vi giải phẫu. Cấu trúc này được tạo thành bởi các tinh thể nhỏ hơn và nhỏ hơn nữa, có thể chia thành các phần giống nhau nhỏ xíu.”
“Giống như các chiết hình,” Kyle nói.
“Chính xác,” Greer nói.
Jack tiếp tục điệp khúc gãi đầu. Chiết hình là gì?
Nhà bệnh học tiếp tục nói. “Nhưng các mảnh từ bên trong đó hay các điểm nút chỉ là một nửa vấn đề.” Anh dẫn họ trở lại chỗ bộ não đang trưng bày. Anh dùng đầu nhíp vẽ thành đường từ một mảnh từ sang các mảnh khác. “Mỗi điểm nút được kết nối bởi một mạng tinh thể siêu nhỏ, từng cái một, hình thành nên một dãy liên kết lẫn nhau. Và bọc trong mạng lưới này chính là các bó nơron dày đặc.”
“Đúng như ta nghĩ,” Tiến sĩ Carlton Metoyer nói.
Mọi người quay qua nhìn vị giám đốc của ACRES.
Carlton giải thích. “Người ta chứng minh rằng kích thích của từ trường lên não bộ giúp phát triển các nơron và thiết lập các kết nối thần kinh mới. Nếu mạng từ trường này hình thành trong suốt quá trình phát triển của phôi thai, các kích thích ở mức độ thấp và liên tục sẽ tạo ra các khu tập trung nơron cục bộ.”
Jack nhớ lại cuộc thảo luận trước đó. “Và điều đó khiến các con thú thông minh hơn?”
“Tùy từng con… đến mức độ nào đó. Nhưng điều đó củng cố thêm giả thuyết của Tiến sĩ Polk về sự liên hệ lẫn nhau bằng sóng não. Càng có nhiều nơron, các kích thích điện bên trong càng nhiều. Nếu tôi phải mạo hiểm phán đoán, tôi sẽ nói sự truyền tín hiệu khai mào cho hoạt động đồng bộ là do điện từ . Một điện từ yếu tạo ra chia sẽ giữa các con thú.
Lorna lắc đầu, không hài lòng với tất cả. “Vẫn còn nhiều điều mà chúng ta cần biết thêm.”
“Vậy tôi sẽ để mọi người trở về công việc nghiên cứu của mình,” Greer nói, “nhưng vẫn còn một thứ nữa.”
“Gì vậy?” Carlton hỏi.
Nhà bệnh học di chuyển sang đầu bên kia bàn. Một cái khay khác đặt ở đó. Một vật thể nhỏ xíu nằm bên trong. Rõ ràng là vật nhân tạo. Một cái nang nhựa cỡ bằng hạt đậu. Xuyên qua bề mặt trong suốt của nó là các thiết bị điện tử cực nhỏ. “Tôi nghĩ mọi người muốn xem một trong số những con chíp vi xử lý cấy bên trong các con thú.”
Lorna nhăn mày. “Vi xử lý?”
Rõ ràng đây là lần đầu cô nghe về chúng.
Greer quay qua cô. “Quét MRI cho thấy mỗi con thú có những con vi xử lý cấy bên dưới da. Chúng tôi đã nghĩ đó là chíp nhận dạng dùng để đánh dấu từng con thú, như người ta làm với chó mèo. Nhưng tôi đã so sánh cái đó với thẻ đeo sử dụng trên những con thú ở đây. Cậu bé này được làm tinh xảo hơn nhiều. Nó chứa toàn vi mạch điện tử.”
“Tôi có thể xem qua không?” Jack hỏi.
Nhà bệnh học cầm lên và đưa Jack. Anh quan sát nó gần hơn. Mặc dù anh không thể nói gì nhiều nếu chưa nghiên cứu kĩ hơn, chiếc rađa bên trong anh phát cảnh báo. Từ sự tinh tế đến cấp độ thu nhỏ, trông nó giống một thiết bị quân đội.
Có lẽ là một bộ thu phát sóng… hoặc là một thiết bị định vị GPS…
Ngay khi anh nghĩ đến nó, đèn đột nhiên phụt tắt. Căn phòng không cửa sổ trở nên tối như hũ nút. Mọi người nín thở, chờ máy phát điện dự phòng hoạt động.
Cuối cùng, Carlton bật ngón tay cáu kỉnh,“Tôi nghĩ chúng ta phải sửa cái máy phát điện dở chứng này.”
Jack căng thẳng. Hệ thống cảnh báo bên trong anh phát từ tiếng u ban nãy thành tiếng còi xe cảnh báo. Anh nhớ lại phán đoán vài giây trước.
Thiết bị theo dõi…
Anh mường tượng lại vụ nổ ở tàu đánh cá. Ai đó đã cố ý che đậy dấu vết. Nhưng không phải mọi dấu vết đều bị tẩy xóa. Một số tín hiệu dẫn họ đến đây.
Sự chắc chắn trỗi lên trong anh. “Không phải do cúp điện,” Jack lạnh người nói trong bóng tối. “Chúng ta đang bị tấn công.”