Sâu năm mét dưới nước, Jack bơi nhanh bên trên rặng đá ngầm vào vùng nước nông của hòn đảo. Các ngón tay của anh bám chặt vào tay nắm của máy kéo dưới nước hiệu Mako dùng cho cá nhân và mở nguồn bơi về phía bờ biển. Anh điều chỉnh tốc độ quay của cánh quạt để giữ cho anh luôn bơi cách đáy khoảng 0,3 mét.
Ở hai bên, Mack và Bruce bơi vượt anh, lướt qua vùng nước nông. Bọn họ đều mặc đồ chống thấm màu đen bằng cao su tổng hợp. Mỗi người kéo theo các túi chống thấm làm bằng vải dầu trong chứa quần áo và vũ khí. Mấy khẩu các bin M4 và súng ngắn bắn hai phát liền loại H&K. Jack cũng gói theo khẩu súng trường Remington 870.
Anh không mong bấy nhiêu vũ khí đủ hỏa lực cho một cuộc tấn công trực diện. Các vũ khí đó là phương sách cuối cùng. Sự thành bại của nhiệm vụ này phụ thuộc vào việc làm lén lút hơn việc dựa vào vũ khí. Ở khía cạnh đó, Jack đã phối hợp với tàu của anh em Thibodeaux. Những người còn lại lẽ ra giờ này phải phát ra tín hiệu lâm nguy, lôi kéo sự chú ý về phía xa của hòn đảo trong khi đội của Jack bí mật lẻn vào cửa sau. Để cẩn trọng hơn, anh đã nghiên cứu các bản đồ vệ tinh và chọn đáp xuống hòn đảo phủ rừng ở phía nam. Trong khi tòa biệt thự ở hòn đảo phía bắc, hòn đảo nhỏ này có vẻ ít bị theo dõi hơn.
Hoặc anh hi vọng thế.
Jack giảm tốc chiếc máy kéo khi đã đến gần bờ. Cách bãi biển khoảng hai mươi mét, anh tắt nguồn cánh quạt và để cho máy kéo rơi xuống lớp cát bên dưới. Anh cẩn thận nổi lên trên mặt nước và thò mặt nạ lên khỏi con sóng dò xét bờ biển. Một đường bờ biển ngắn vây quanh lấy bức tường cây dày đặc của khu rừng, hầu hết là cọ và đước mọc gần vùng nước kèm theo loài thông Caribê và cây óc chó mọc cao hơn. Mặt trời đã hạ xuống phía xa của hòn đảo khiến cánh rừng càng tối tăm.
Anh quan sát một phút liền xem có dấu hiệu di chuyển nào không.
Mọi vật dường như yên lặng.
Mack và Bruce đến chỗ anh, bơi ở hai bên. Anh cởi bình khí nén, dây đai nặng và bộ đồ lặn. Nín thở, anh túm lấy túi đồ của mình rồi ra hiệu cho những người khác đi theo. Hai chân đạp mạnh, anh đẩy mình về phía bờ biển, rồi ở đủ lâu dưới nước. Cuối cùng, anh trồi lên và lao đến bãi biển, cát lạo xạo ngay bụng bên trong bộ đồ ướt của anh.
Trong bảy bước, anh đã ra khỏi nước và tiến vào bóng râm trong rừng. Bruce theo sau, thân hình uyển chuyển của anh ta hầu như không làm nước bắn ra. Anh ta bước lên bãi cát và lăn mình vào bóng cây bên phải, thậm chí không để lại một dấu chân. Mặt khác, Mack đã lao đến bãi biển như một chiếc thủy phi cơ đang đáp xuống. Anh ta ra khỏi vùng nước và lăn mạnh qua bãi cát, chạm đến khu rừng ở bên trái anh.
Một khi đến chỗ nấp, họ giữ yên lặng. Bên ngoài chỗ ẩn náu, các con sóng chậm rãi cuốn đi dấu vết về cuộc đặt chân lên đảo của họ.
Jack rùng mình khi anh đợi. Bây giờ khi anh không còn di chuyển, đầu anh lại bắt đầu nhức. Mùi của rừng tràn đầy vào đầu anh: lá cây mục ẩm mốc, cát ướt, vài mùi hoa làm gia vị. Đôi mắt hơi sốt của anh nóng ran lên, thậm chí khiến cho những bóng râm dường như quá chói lóa. Tất cả giác quan của anh căng ra bên ngoài, cảnh giác xem cuộc đổ bộ lên đảo có bị phát hiện không.
Nhưng không có hồi báo động nào. Không có tiếng la cất lên.
Hài lòng, anh ra hiệu cho hai người kia chuẩn bị sẵn sàng. Họ cởi bộ đồ ướt ra và mặc vào bộ quân phục nhiệm vụ thô ráp màu xanh đen. Các vũ khí được lấy ra và điện đàm được gắn vào tai và cổ họng.
Một khi trang bị xong, Jack nhấc một khẩu súng và vác nó như vác cái rìu đi hướng về phía dải cầu đất chia tách hai hòn đảo. Chiếc cầu nằm không xa tòa biệt thự. Việc dùng phía rừng cây của hòn đảo này gần như cho phép họ lẻn vào đến ngưỡng cửa tòa biệt thự.
Ở đó, họ sẽ cần có thông tin. Anh đã lên kế hoạch phục kích một trong số lính gác bên ngoài, để tra khảo hắn bằng việc đe dọa làm tổn hại lên thân thể – lời đe dọa được thực thi nếu hắn không chịu hợp tác. Jack không có thời gian để tìm hiểu tỉ mỉ. Anh định tìm hiểu xem Lorna có ở đó không, và nếu vậy thì cô bị giam giữ ở nơi nào.
Jack lại cảm thấy nỗi sợ trào lên buốt đến tận xương. Tầm nhìn của anh thu hẹp lại khi anh hướng vào khu rừng cây rậm rạp. Hai người kia di chuyển yên lặng ở hai bên.
Bất kể Lorna ở đâu, anh sẽ tìm thấy cô.
* * *
Lorna đứng trước một cánh cửa đóng. Nó có dòng chữ Chỉ Dành Cho Người Có Phận Sự. Malik quét thẻ nhận dạng của hắn. Bennett đứng phía sau cô. Đi cùng họ là tên lính được giao giám sát Lorna, tên có đầu đỏ Connor, hắn vẫn giữ vẻ cau có khó chịu như mọi khi.
Tên lính dừng ở cửa khi khóa mở ra và Lorna cùng hai người kia bước vào một căn phòng đợi bình thường. Cánh cửa thứ hai dẫn vào căn phòng kế tiếp, nhưng nó không thể mở ra cho đến khi cánh cửa thứ nhất đóng lại.
Như một nút không khí.
Malik quay qua Lorna. “Thứ cô sắp xem dường như có vẻ tàn nhẫn khi lần đầu nhìn thấy – nhưng điều đó rất cần thiết.”
“Để duy trì sự thuần khiết của chúng,” Bennett nói thêm.
Malik khẽ nhún vai. “Hoặc nói cách khác, để làm giảm các biến số. Việc ngăn bất cứ khả năng tiếp xúc đến trí não của các con thú có ý nghĩa làm giảm sự loạn trí biểu hiện ở thế hệ đầu tiên của các mẫu vật. Như vậy, để tôi cho cô xem thế hệ thứ hai trong nghiên cứu của chúng tôi.”
Đột nhiên Lorna nao núng khi bước vào ngưỡng cửa, cô lo sợ phải khám phá ra điều kinh khủng khác ẩn bên trong đó. Malik mở cửa – và Lorna đã sốc khi nghe tiếng cười của trẻ con, kèm theo đó là tiếng vỗ của những bàn tay nhỏ xíu. Âm nhạc cũng du dương. Đó là bài hát nền của chương trình Phố Vừng.
Sự bất thường của tiếng cười trong tòa nhà đầy những khổ hạnh này làm răng cô nghiến chặt. Nỗi sợ càng mãnh liệt trong cô.
“Đi theo tôi,” Malik nói và dẫn cô vào trong.
Bị Bennett kéo vào, Lorna không có lựa chọn ngoài việc đi theo.
Malik tiếp tục cuộc nói chuyện của hắn, nghe có vẻ hơi căng thẳng, thậm chí có lẽ là bối rối. “Mặc dù chúng bị cách ly ở đây, chúng tôi đối đãi chúng rất tốt.”
Lorna bước vào nơi giống một phòng học bình thường của bất kì trường mẫu giáo nào. Một bảng đen che phủ một bức tường. Những chiếc ghế đủ màu sắc có đệm bằng hạt nhựa nằm rải rác trên sàn. Những bức vẽ bằng bút màu được trang trí trên một tấm ván, và ở một góc, một ti vi plasma hiện lên một con rối đầy lông lá đang trò chuyện với Chim Lớn[13].
Nhưng chính những đứa trẻ trong phòng mới khiến Lorna hoàn toàn chú ý. Hàng tá trẻ em ngồi trên ghế hoặc nằm ườn trên thảm, chúng chăm chú nhìn màn hình ti vi. Chúng có vẻ ở cùng độ tuổi, hoặc ít nhất là lớn ngang nhau. Chúng không cao hơn thắt lưng của cô, nhưng đây không phải là những em bé mới chập chững. Các đặc điểm phát triển đầy đủ cho thấy độ trưởng thành vượt xa kích cỡ của chúng. Và lớp lông tơ ở hai bên má và tay chân cho thấy rõ ràng chúng có liên hệ đến các sinh vật ở hòn đảo bên kia. Nhưng thay vì trần truồng, những đứa trẻ mặc quần áo chui màu xanh dương.
“Chúng bao nhiêu tuổi?” Lorna thì thào, nghẹn lại vì sốc.
“Từ mười sáu tháng đến hai tuổi,” Malik trả lời.
Khi cô bước vào sâu trong phòng, một đứa trẻ nhìn về phía cô, rồi tất cả những đứa khác quay qua nhìn thẳng cô. Điều đó nhắc cô nhớ đến sự đồng bộ mà cô quan sát qua camera. Như một đàn chim đột ngột giật mình bay đi hay một đàn cá hợp thành một khối đoàn kết.
Cô nhớ lại thuật ngữ của Malik: trí thông minh bầy đàn.
Có phải đó là nguồn gốc của kiểu hành vi này? Cô biết rằng tính bầy đàn vẫn còn nhiều bí ẩn. Một số nhà khoa học thắc mắc rằng liệu có hay không sự liên kết từ điện trường giữa những con chim trong cùng bầy hay những con cá cùng đàn khiến chúng hoạt động đồng nhất một cách hoàn hảo. Nhưng quan điểm chung mới nhất dường như đề cập rằng mỗi cá thể phản ứng lại các tín hiệu siêu nhỏ từ các cá thể lân cận và phản ứng theo một mô hình được định trước.
Quan sát kiểu hành vi ở đây, Lorna tự hỏi liệu có hay không sự kết hợp cả hai kiểu.
Cuối cùng, những gương mặt đó quay lại nhìn màn hình khi bài hát mới bắt đầu vang lên từ ti vi.
“Chúng rất ngây thơ,” Bennett nói. “Được giữ cách ly ở đây khỏi sự lệch lạc, chúng chỉ làm thân giữa các cá thể đồng loại.”
Malik gật đầu. “Chúng tôi đang theo dõi chỉ số IQ của chúng bằng các bài kiểm tra khả năng diễn đạt bằng lời và xem có dấu hiệu gây hấn nào không. Đến nay, chỉ số IQ của chúng tăng lên mỗi tuần. Và chúng không biểu hiện sự hung dữ. Nhưng có thể còn quá sớm để nhận xét. Sự hung hăng thực sự chỉ biểu lộ sau khi dậy thì cùng những con khác. Dù vậy, chúng tôi đang rất hi vọng.”
“Các người định làm gì với chúng?” Lorna hỏi, cô sợ câu trả lời.
“Do chúng trưởng thành khá nhanh, chúng tôi sẽ thu thập trứng từ những con cái lớn hơn trong sáu tháng nữa. Chúng sẽ gần đạt được độ trưởng thành lúc đó.”
Lorna thấy lạnh, cô trầm ngâm về sự bạo hành quá mức lên những sinh vật bé nhỏ này.
“Từ những quả trứng đó, chúng tôi sẽ nỗ lực phá hủy phần hoạt động của đoạn ADN rác có vẻ đã gây nên sự lại giống này, cố gắng thai nghén cho ra thế hệ kế tiếp.” Malik xoa hai tay của hắn như thể trông mong tiếp tục. “Chúng tôi đã đến quá gần với một đột phá có thể làm thay đổi cả thế giới.”
Bennett gật đầu. “Đó là lý do chúng tôi có thể dùng sự giúp sức của cô.”
Malik tán thành. “Chuyên môn của cô về việc gây giống động vật quý hiếm và quản lý nguồn nguyên liệu gen hoàn toàn phù hợp để hỗ trợ chúng tôi trong giai đoạn cuối cùng của nghiên cứu.”
Ẩn ý đã rõ: Đó là lời đề nghị mà cô không thể từ chối. Không thể nếu cô muốn được sống. Nhưng cô có thể đồng ý bằng cách nào? Đây không phải là những con thú quý hiếm sắp tuyệt chủng. Thật ra, chúng chẳng phải là thú.
Một trong số những đứa trẻ, một bé gái, đang thơ thẩn ngồi ghế và giơ hai tay theo một cử chỉ chung. Lorna cúi xuống và nhấc cô bé lên. Đứa trẻ nặng hơn cô tưởng vì xương đặc hơn, nhưng cô bé giơ bàn tay nhỏ xíu lên và bắt đầu mút. Cái đầu nhỏ của cô bé tựa vào vai Lorna trong khi đôi mắt long lanh dõi theo bài học chữ cái trên ti vi.
(…được mang đến cho bạn bởi chữ cái W…)
Lorna có thể cảm thấy đứa trẻ tỏ ra thư giãn. Sự run nhẹ trong cơ thể nhỏ bé đó mất đi theo mỗi nhịp thở. Lorna cảm giác được sự mất mát của những đứa trẻ này, đó là do thiếu thốn của sự tiếp xúc nồng ấm. Đầu cô nảy lên một câu hỏi.
Cô liếc nhìn Malik. “Chuyện gì xảy ra với mẹ của đứa trẻ này? Với tất cả cha mẹ của chúng?”
Malik tìm cách làm dịu cô. “Cô đã thấy chúng. Chúng được nuôi giữ ở khu sinh quyển. Khi đưa chúng đến hòn đảo kia, chúng tôi đã tách những con non nhất ở lại đây. Chúng tôi đã lồng dây đồng vào tường khi xây phòng chăm sóc này để ngăn cách mạng lưới thần kinh của nhóm này với hàng loạt phòng khác, để cách ly chúng khỏi bị nhiễm độc khi não chúng vẫn còn bị ảnh hưởng.”
Lorna nhớ lại sự thô bạo cô nhìn thấy qua đoạn băng về một trong những con hominid tấn công một lính gác. Qua sự chọn lựa của chính Malik, đây không phải là những con thú câm. Mặc dù chúng không có khả năng nói chuyện, rõ ràng chúng rất thông minh qua việc giao tiếp với nhau theo những cách mà không ai có thể hiểu được hoàn toàn.
Cô bắt đầu nghi ngờ lý do của vụ tấn công đó, của sự tàn bạo đó.
Cô đang giữ nó trong vòng tay mình.
Bản năng làm mẹ thể hiện mạnh mẽ ở hầu hết động vật. Trong kiểu sống tập thể, bản năng đó sẽ được nhân lên. Sự mất mát của mỗi đứa trẻ sẽ được cảm nhận bởi cả nhóm. Sự ngược đãi như vậy có thể khiến chúng rơi vào tình trạng điên loạn. Kết hợp điều đó với trí thông minh được tăng cường – lớn lên mỗi tuần, theo lời của Malik – sự nguy hiểm biểu hiện bởi tất cả sinh vật ở khu sinh quyển sẽ càng dữ dội.
Không lạ gì khi các biện pháp an ninh quá nghiêm ngặt.
Thiên đường giúp đỡ bất cứ ai đặt chân đến đó.
* * *
Năm phút sau khi đặt chân lên bãi biển, Jack dẫn đội của anh đi xuyên qua bụi cây thông. Anh đã nhanh chóng tìm đến chỗ đất cao hơn, nhưng tiếp tục đi song song bãi biển khi anh đi vòng về phía dải cầu đất. Trong đầu, anh định vị vị trí của mình bằng cách quan sát mặt trời, góc và hướng của bóng râm.
Dù vậy, anh muốn đến được chỗ có góc nhìn tốt hơn trên hòn đảo.
Dò thấy một phiến đá lớn nằm lộ thiên có thể phù hợp với yêu cầu, anh giơ một nắm tay lên.
Mack và Bruce nấp vào bóng râm ở hai bên đeo chặt súng trường trên vai. Jack leo lên tảng đá mòn. Mặt trời phản chiếu trên bề mặt của nó. Lần đầu tiên, anh có một góc nhìn tốt dọc theo hòn đảo, tất cả các lối vào vịnh ở phía tây. Anh nhận thấy một đốm trắng ngoài đó. Nó tỏa lên khói đen trên nền mặt trời đang lặn xuống. Anh hi vọng Randy và anh em Thibodeaux có đủ bình chứa khói để duy trì kế sách của họ.
Lập tức anh chuyển sự chú ý của mình ngay vào cảnh quan bên dưới. Anh nhìn thấy dải cát nhô ra nối hòn đảo này với hòn đảo kia. Ánh sáng phản chiếu từ dây thép làm anh chú ý. Nó trông giống một hàng rào ngăn cách chiếc cầu. Thứ đó không được thể hiện trên bất cứ bản đồ vệ tinh nào của anh, nhưng các bản đồ đó đã cũ và không chi tiết.
Anh chau mày nhìn lớp rào nhưng anh biết mình không có sự trợ giúp nào. Anh sẽ đối diện thách thức đó khi đến nơi. Dù vậy, sự hiện diện của nó làm anh khó chịu.
Tại sao lại xây dựng một hàng rào giữa hai hòn đảo?
Thất vọng, anh bước lại mép của tảng đá định nhảy xuống—khi đó có tiếng cạch cạch nổ súng chen ngang, âm thanh to bất thường. Từ chỗ đứng, anh nhìn thấy đàn chim bồ câu bay ra khỏi khu rừng, bay được nửa đường từ chỗ anh đứng đến cây cầu.
Anh nấp xuống chờ cho tán cây rơi tơi tả xung quanh vì nghĩ rằng mình đã bị lộ. Nhưng một lúc sau, tiếng súng nổ biến thành những tiếng la hét chết chóc. Chúng phát ra rất rõ qua không trung.
Rồi tiếng thét mất đi kèm theo dấu hiệu kết thúc. Sự tĩnh lặng tiếp nối, như thể khu rừng đang ngừng thở.
Jack trượt xuống khỏi tảng đá và trở vào bóng râm, cố giữ im lặng thật sự. Một cơn lạnh lan tỏa. Anh nhớ lại hàng rào ngăn cách. Thứ gì đó khác cùng chia sẻ hòn đảo nhỏ này với họ.
Anh không biết đó có thể là gì, nhưng anh biết một điều chắc chắn.
Anh đã đặt chân lên sai phía của hàng rào đó.