Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Tay súng cuối cùng

Chương 4

Tác giả: David Baldacci

Vẫn mặc nguyên bộ quần áo bệnh nhân màu xanh của bệnh viện. Web xách túi đồ cá nhân của mình và ngước nhìn bầu trời đầy nắng rực rỡ tràn ngập cửa sổ buồng bệnh. Những lớp gạc quanh bàn tay bị thương của anh thật vướng víu và khó chịu; anh có cảm giác như đang mang một chiếc găng tay quyền Anh ngoại cỡ.

Anh đang chuẩn bị bước tới mở cửa để ra ngoài thì cánh cửa tự bật mở; ít nhất đó cũng là điều Web nghĩ cho đến khi có một người đàn ông xuất hiện.

“Cậu làm gì ở đây, Romano?” Web thốt lên ngạc nhiên.

Người đàn ông không nhận ra ngay Web. Anh ta chỉ cao khoảng lm80, vóc người lực lưỡng. Anh chàng tóc đen xoăn tít này mặc một chiếc áo khoác da cũ kỹ, quần jeans, và đội một chiếc mũ lưỡi trai của đội bóng chày Yankees trên đầu. Tấm phù hiệu FBI được cài ở thắt lưng; báng một khẩu súng ngắn thò ra khỏi bao kẹp ở nách.

Romano nhìn Web từ đầu xuống chân, ánh mắt anh ta dừng lại ở bàn tay bị thương của Web. Anh ta chỉ vào vết thương. “Đấy à? Vết thương khốn kiếp của cậu đấy à?” Web nhìn tay mình rồi nhìn lại Romano. “Chẳng lẽ cậu sẽ hạnh phúc hơn nếu vết đạn này nằm ở đầu tớ sao?”

Paul Romano cũng là một thành viên đội đột kích Hotel. Anh chàng là một trong những người mạnh mẽ, liều lĩnh nhất và bao giờ bạn cũng biết mình đang ở một nơi nguy hiểm không hứa hẹn điều gì tốt lành nếu thấy anh ta có mặt. Romano và Web chưa bao giờ thực sự thân thiết mà theo Web thì chủ yếu là vì Web đã bị thương nhiều hơn anh ta, và Romano rất lấy làm cay cú với ý nghĩ rằng Web anh hùng và dũng cảm hơn anh ta.

“Tôi chỉ hỏi cậu một lần thôi, Web, và tôi muốn hỏi toạc móng heo. Cậu mà nói dối thì biết tay tôi đấy.”

Web cúi xuống nhìn Romano và bước lại gần anh ta thêm một chút chỉ để nhấn mạnh thêm sự chênh lệch chiều cao giữa hai người. Anh biết chắc làm như thế càng khiến Romano tức tối thêm. “Được rồi. Paulie – cậu mang kẹo và hoa cho mình đấy à?”

“Hãy nói thật với tôi xem nào Web.” Anh ta ngập ngừng một lát tôi nói tiếp, “Anh đã bỏ chạy à?”

“Ừ, Paulie ạ, mấy khẩu súng đó bắn rát rạt luôn.”

“Tôi biết rồi. Ý tôi muốn nói là trước đó kia. Khi đội Charlie ngã xuống ấy. Anh không lao lên cùng với họ. Tại sao?”

Web cảm thấy mặt nóng ran và anh căm ghét bản thân vì điều đó. Thường thì chẳng mấy khi Romano làm anh bận tâm. Nhưng sự thật là Web không biết phải trả lời anh ta như thế nào.

“Có chuyện gì đó đã xảy ra trong đầu tớ! Paulie ạ. Tớ cũng không biết chính xác là điều gì nữa. Nhưng tớ chẳng liên quan gì đến vụ phục kích này hết, trong trường hợp cậu đã phát điên và đang nghi ngờ tớ.”

Romano lắc đầu. “Tôi không nghĩ cậu đã trở thành kẻ phản bội, Web ạ, nhưng cậu đã trở nên hèn nhát.”

“Nếu như cậu đến chỉ để nói với tớ chuyện đó thì biến mẹ cậu đi cho rảnh.”

Romano lại nhìn anh từ đầu đến chân và với ánh mắt khinh bỉ của anh ta. Web lại thấy mình như không còn là người nữa. Không thèm nói một lời, Romano quay người bỏ đi. Có lẽ Web sẽ hài lòng hơn nếu trước khi đi anh ta bỏ lại một câu xúc phạm gì đó còn hơn là im lặng như vậy.

Web đứng chờ thêm vài phút cho anh ta đi hẳn rồi ra mở cửa.

“Anh đang làm gì vậy?” người gác cửa ngạc nhiên hỏi.

“Bác sĩ cho tôi ra viện rồi mà, chưa ai bảo anh à?”

“Chẳng ai nói gì với tôi cả.”

Web chìa bàn tay băng kín mít của mình lên. “Chính phủ sẽ không trả tiền thêm một đêm nữa cho một bàn tay bị trầy xước qua loa thế này đâu. Và tất nhiên là tôi chẳng việc mẹ gì mà bỏ tiền túi ra làm gì.”

Web không biết người dùng gác, nhưng có vẻ như anh ta là loại người biết thông cảm với một đề nghị hợp tình hợp lý.

Không đợi anh ta trả lời. Web cứ thế bước đi. Anh biết người lính gác không có lý do gì mà ngăn trở mình. Tất cả những gì anh ta có thể làm là liên lạc với cấp trên để báo cáo về động thái này. Gì chứ việc ấy thì chẳng cần nhắc chắc anh ta cũng đang thực hiện rồi.

Web ra khỏi bệnh viện qua một lối đi ở bên, anh tìm một chiếc bốt điện thoại công cộng, gọi cho một người bạn, và một giờ sau anh đã ở trong trang trại cũ kỹ của mình ở một khu ngoại ô yên tĩnh của Woodbridge, Virginia. Anh thay đồ jeans, đi giày, mặc một chiếc áo len chui cổ màu xanh hải quân, tháo bỏ những chiếc gạc và thay bằng một lớp băng mỏng. Anh không muốn nhận sự thương hại của bất kỳ ai, nhất là khi sáu người bạn thân nhất của anh giờ đang nằm trong nhà xác.

Anh kiểm tra tin nhắn. Không có gì nghiêm trọng, nhưng anh biết điều đó sẽ thay đổi sớm thôi. Anh mở một chiếc hộp trên mặt lò sưởi lấy ra khẩu chín ly dự phòng và đút vào trong bao súng ở thắt lưng. Mặc dù về mặt kỹ thuật mà nói thì đêm qua anh không bắn ai. Nhưng đây vẫn là một vấn đề của SRB – Shooting Review Board – tức Ban Kiểm Tra Súng; vì trong thực tế là anh đã sử dụng vũ khí của mình. Họ đã tịch thu toàn bộ súng của Web, như thế khác nào chặt tay anh đi. Sau đó họ còn khuyên bảo anh về những quyền lợi của mình và đã lấy lời khai. Tất cả chỉ là thủ tục, là quy định của ngành, nhưng vẫn khiến anh có cảm giác mình đang bị coi là một tên tội phạm. Kệ xác họ, anh sẽ không đi đâu hết nếu không có đồ lận lưng. Nếu như bản chất anh đã là người hoang tưởng thì vụ thảm sát của sáu người đồng đội đêm qua càng biến anh thành một người loạn tinh thần, thậm chí chỉ cần nhìn trẻ con và đàn bà cũng thấy giật mình, cảnh giác.

Anh ra giữa, khởi động chiếc Ford Mach One đời 1978 màu đen chì và lái ra ngoài.

Web có hai chiếc xe: chiếc Mach này và một chiếc Suburban cổ lỗ sĩ nhưng nồi đồng cối đá, đã từng đưa anh và cả đội Charlie của mình đi xem những trận bóng bầu dục của đội Redskin, tới những bãi biển của Virginia và Maryland, đi bia bọt đâu đó và biết bao lần cắm trại hay dã ngoại dọc bờ biển Đông. Mỗi người trong nhóm đều có chỗ ngồi mặc định trong chiếc Suburban, căn cứ vào khả năng và tuổi tác, đúng theo cách phân chia thứ bậc trong ngành của Web. Họ đã có biết bao kỳ niệm đẹp với chiếc xe to bự đó. Giờ thì Web tự hỏi anh sẽ bán chiếc Suburban với giá thế nào cho phù hợp, vì anh không thể nào có tâm trạng ngồi vào nó được nữa.

Anh lái xe theo đường cao tốc liên bang số 95, hướng về phía bắc và cố luồn lách qua chặng đường nhọc nhằn là giao lộ Springfield. Giao điểm này có lẽ là tác phẩm của một kỹ sư cầu đường trong cơn phê thuốc. Giờ đây nó đang được nâng cấp toàn bộ, dự kiến sẽ hoàn thành trong khoảng mười năm nữa. Người nào mà vô phúc lái xe hàng ngày qua giao lộ này thì có nước là khóc đến méo mặt khi tốc độ dịch chuyển của giao thông vào buổi sáng được tính bằng cm. Web đi qua Cầu Phố 14, xuyên qua khu Tây Bắc của thành phố nơi có những công trình kỷ niệm và thắng cảnh thu hút khách du lịch chính, và cuối cùng là một khu ổ chuột nhếch nhác của thành phố.

Web là một đặc vụ FBI, nhưng trong thâm tâm anh không bao giờ nghĩ vậy. Đầu tiên và trên hết anh là một lính đặc nhiệm của đội Giải cứu con tin (HRT: Hostage Rescue Team), lực lượng phản ứng nhanh tinh nhuệ nhất của Cục. Anh không bao giờ phải mặc complet đi làm, cũng hiếm khi giao du với những đặc vụ khác ngoài HRT. Anh không xuất hiện tại hiện trường vụ án sau khi súng đã ngừng nhả đạn. Bao giờ anh cũng phải có mặt từ lúc xuất phát, tăng tốc, áp sát mục tiêu, nổ súng khống chế và nhiều khi còn phải giết người. Chỉ có tất cả 50 lính đặc nhiệm HRT cả thảy, vì quá trình chọn lọc và đào thải của công việc này vô cùng khắc nghiệt. Tuổi nghề trung bình ở HRT là năm năm. Web đã vượt quá quy định chung đó và sắp kỷ niệm tám năm công tác ở đội. Dường như đạo này HRT được huy động thường xuyên hơn, và phải có mặt ở các điểm nóng ở khắp nơi trên thế giới. Luật bất thành văn của HRT là phải có mặt ở hiện trường sau tối đa là bốn tiếng xuất phát từ Căn cứ Không quân Andrew. Có điều là tấm rèm sân khấu đã khép lại, vai diễn của Web trong vở này đã xong. Giờ thì anh chỉ còn bơ vơ một mình.

Web chưa bao giờ nghĩ rằng anh sẽ là người cuối cùng còn sống sót trong bất kỳ trường hợp nào. Điều đó có vẻ không phù hợp với bản chất của anh. Cả đội đều đã nói đùa về chuyện này, thậm chí còn đánh cuộc xem ai sẽ là người chết trước trong một đêm không trăng tối thui. Lúc nào Web cũng là người đứng đầu trong danh sách, bởi vì anh luôn là người đầu tiên đương đầu với mọi hiểm nguy. Giờ thì điều đó đang giày vò Web, anh vẫn không hiểu điều gì đã ngăn cản anh không nằm trong chiếc quan tài thứ bảy. Và tệ hơn cả cảm giác cắn rứt là nỗi nhục nhã.

Anh quặt chiếc Mach tấp vào lề đường và bước xuống xe chỗ có dải băng cấm đánh dấu hiện trường. Anh xuất trình chứng minh thư của mình cho những người lính gác, họ không giấu được vẻ sững sờ khi nhìn thấy anh. Web cúi đầu lặng lẽ bước nhanh vào con hẻm trước khi một biển phóng viên đông nghịt kịp vây chặt lấy anh. Sau khi vụ thảm sát xảy ra các đài truyền hình đã đóng quân tại khu vực này và truyền tin trực tiếp bằng những chiếc xe chuyên dụng có ăng ten vệ tinh cao vút. Web cũng đã nghe qua vài bài phản ánh khi còn trong bệnh viện. Thực ra giới truyền thông cũng chỉ nhai đi nhai lại với những sự kiện cũ rích, sứ dụng mấy hình ảnh và sơ đồ vô thưởng vô phạt với giọng điệu chắc như đinh đóng cột kiểu như “Đó là tất cả những gì chúng tôi biết tại thời điểm này. Nhưng hãy theo dõi sát sao chương trình, cam đoan là chúng tôi sẽ sớm có thêm thông tin giá trị, dù có phải dựa hoàn toàn vào sự phỏng đoán của mình. Hẹn gặp lại các bạn, phóng viên Sue phản ánh từ hiện trường”.

Web lặng lẽ đi về cuối hẻm.

Cơn bão đêm qua đã tan sâu vào Đại Tây Dương. Không khí sau bão trở nên mát mẻ hơn đôi chút. Vốn được xây dựng trên một đầm lầy, thủ đô Washington ứng phó với với điều kiện nóng ẩm tốt hơn là với giá lạnh và bão tuyết. Mỗi khi tuyết rơi thì đừng có mơ đến chuyện nhìn thấy một con đường nào được dọn tuyết chu đáo.

Đến giữa con hẻm thì anh gặp Bates. “Cậu làm cái quái gì ở đây vậy?” anh ta thốt lên.

“Anh đã nói là anh muốn tôi trình bày lại những gì đã xảy ra, vậy tôi đang ở đây thôi.” Bates liếc nhìn tay Web. “Bắt tay vào thôi, Perce. Mỗi phút đều giá trị.”

Xuất phát từ chính điểm chiếc Chevy Suburban đã thả họ xuống, Web bắt đầu đi lại hành trình của đội mình. Với mỗi bước chân tiến gần về phía mục tiêu, Web càng cảm thấy cơn giận dữ và tủi hổ của mình lớn dần lên. Những thi thể đã được dọn đi; nhưng vết máu thì không. Ngay cả trận mưa rào xối xả cũng không thể rửa sạch những vết máu đặc quánh. Trong tâm tưởng, Web hình dung lại tất cả những hành động mà anh đã thực hiện, những cảm xúc mà anh đã trải qua.

Một nhóm kỹ thuật viên đang tháo dỡ những ụ súng máy bị phá hủy, chốc chốc họ lại nhặt ra những mẩu hoặc mảnh vỡ nhỏ có thể dùng làm bằng chứng điều tra. Những người khác đang sục sạo khắp trên sân, người thì quỳ gối xuống sàn bê tông săm soi, người thì lom khom tìm kiếm nhặt nhạnh đủ thứ, hy vọng tìm ra được câu trả lời từ những vật linh tinh rải rác khắp sân. Web nhìn họ làm việc với ánh mắt hoài nghi. Gần như chắc chắn một trăm phần trăm là trên những mảnh vỡ và thân súng bị phá hủy còn lại kia sẽ chẳng có dấu vân tay nào hết. Kẻ đã sắp đặt vụ phục kích kỳ công đến dường này thì chắc hẳn phải là kẻ cực kỳ ranh ma và thận trọng.

Anh lặng lẽ bước qua những vũng máu như thể đang rón rén luồn lách giữa những ngôi mộ của đồng đội, mà thực ra cũng có khác gì đâu?

“Những ô cửa sổ này đã được sơn đen kịt để không ai có thể nhìn thấy những khẩu súng được bố trí trong này cho đến khi chúng bắt đầu nhả đạn. Không thể nhìn thấy ánh nắng phản xạ trên nòng súng, không gì sất”, Bates nhận xét.

“Thật vui khi biết chúng ta bị chơi bởi những tay chuyên nghiệp” Web cay đắng trả lời.

“Cậu làm ăn được đấy.” Bates chỉ vào một khẩu súng máy đã nát vụn.

“Khẩu SR75 nào cũng làm được như vậy thôi.”

“Đây là những khẩu súng máy loại mini, quân dụng, kiểu Gatling sáu nòng, gắn trên giá ba chân, chân đế súng được bắt vít xuống sàn nhà để cố định vị trí. Có cả hộp tiếp đạn và băng truyền đạn gắn kèm đây với 4000 viên mỗi khẩu. Tốc độ bắn được điều chỉnh cố định ở mức 400 phát/phút, mặc dù tốc độ bắn tối đa là 8000 phát/phút.”

“Bốn trăm là quá đủ rồi. Và có tám khẩu cả thảy. Có nghĩa là trong vòng sáu mươi giây có đến 3200 viên nã vào anh rồi. Tôi biết vậy vì có một viên nẩy ra cách tôi có vài phân.”

“Với tốc độ bắn chậm như vậy thì những khẩu súng này có thể bắn được lâu hơn.”

“Đúng thế.”

“Súng hoạt động bằng điện, còn đạn mà chúng sử dụng là đạn xuyên giáp.”

Web lắc đầu chán nản. “Các anh đã tìm thấy thiết bị khởi động chưa?”

Bates dẫn anh qua một tường gạch ở phía bên kia con hẻm mà Web vừa đi xuống. Đó là một tòa nhà đứng vuông góc với tòa nhà chung cư là mục tiêu ban đầu và chính là nơi đặt một nửa số súng máy đã hủy diệt đội Charlie, trừ Web. Ngay giữa ban ngày, cũng phải căng mắt mới nhìn rõ khu vực tối tăm này.

Web quỳ gối xuống và nhận ra cái mà anh nhìn thấy trước mặt là một thiết bị lade. Trên bức tường đã được đục sâu một ô để đặt đầu phóng lade và bộ phát điện. Ô gạch này được đục khá sâu nên sau khi đặt vào hầu như không thể nhìn thấy bộ phát điện được nữa. Những đội viên đội bắn tỉa không thể nào xác định được thiết bị này từ vị trí phục kích của mình, ngay cả khi họ chủ động tìm kiếm nó chăng nữa, hoặc nếu họ đã nhận được tin tình báo đề cập đến một thiết bị kiểu này. Đường chiếu của tia lade là ngang đầu gối và rõ ràng là tia sáng này đã chiếu qua khoảng sân sau khi được kích hoạt.

“Tia sáng bị gián đoạn, và thế là bộ phát điện tự động kích hoạt súng nổ, hết một băng đạn lại ngưng vài giây cho đến khi bắn hết sạch. Anh bàng hoàng nhìn xung quanh. “Thế chẳng may có chó hoặc mèo hoặc ai đó vô tình đi qua đây và chặn mất tia lade trước khi chúng ta đến thì sao?”

Vẻ mặt của Bates cho thấy anh ta cũng đã cân nhắc khả năng này rồi. “Tôi nghĩ người quanh đây thì kiểu gì cũng được cảnh báo kín đáo là tránh xa. Nhưng chó và mèo thì lại là chuyện khác. Do vậy tôi nghi là bộ phát tia lade kia được kích hoạt từ xa.”

Web đứng dậy. “Vậy là chúng đợi đến khi chúng ta gần vào đến nơi mới kích hoạt tia lade. Có nghĩa là kẻ đó phải ở gần đây.”

“Hừm, hắn nghe thấy các cậu đến, hoặc hắn được thông báo về điều đó. Hắn chờ cho đến khi các cậu rẽ qua ngõ phố rồi nhấn nút điều khiển từ xa trước khi cao chạy xa bay.”

“Chúng tôi không nhìn thấy mống nào trong sân cả, và kính nhìn đêm tầm nhiệt của tôi cũng không phát hiện ra nguồn nhiệt 37,5 độ C nào hết.”

“Có thể là chúng trốn trong tòa nhà mục tiêu, hay trong bất kỳ tòa nhà chết tiệt nào xung quanh đây. Chúng chỉ việc thò thiết bị điều khiển ra khỏi cửa sổ, nhấn nút và úm ba la biến.”

“Vậy mà đội bắn tỉa và đội Hotel không nhìn thấy gì?”

Bates lắc đầu. “Đội Hotel khẳng định họ chẳng trông thấy gì cho đến khi thằng bé mang mẩu giấy của cậu lại.”

Nghe nhắc đến đội Hotel, Web lại nhớ dấn Paul Romano và càng thêm chán nản. Có lẽ giờ này Romano đang ở Quantico 1 và bô bô với mọi người rằng Web đã lấy cớ là bị động kinh để bao biện cho sự hèn nhát của mình khiến cả đội thiệt mạng.

“Thế còn Whiskey? X quang? Họ phải nhìn thấy gì đó chứ,” Web nói, ám chỉ những tay súng bắn tỉa bố trí trên mái nhà.

“Họ nhìn thấy gì đó, nhưng hiện tại tôi không muốn nói đến chuyện này.”

Bản năng của Web cho anh biết là không nên đề cập thêm. Những tay bắn tỉa còn nói gì được nữa? Rằng họ nhìn thấy Web đã chùn tay để cả đội lao lên tấn công, rằng anh đã nằm úp mặt xuống đất khi cả đội bị quét rụng như lá? “Thế còn DEA 2? Họ ở cùng với đội Hotel mà. Ngoài ra họ còn có cả một đội dự phòng nữa.” Web và Bates nhìn nhau hồi lâu trong lặng lẽ, và cuối cùng Bates lắc đầu.

Xưa nay FBI và DEA vẫn luôn hục hặc. Theo suy nghĩ của Web thì DEA cũng giống như một cậu em trai nghịch ngợm thích đá chân anh mình cho đến khi ông anh tức quá ra tay thì cậu em lại bỏ chạy và kêu la ầm ĩ.

“Mẹ kiếp, tôi nghĩ chúng ta sẽ phải chấp nhận thực tế đó cho đến khi có gì mới mẻ,” Web cay đắng nhận xét.

“Có lẽ vậy. Lúc đó các cậu có ai mang khí tài nhìn đêm không?”

Ngay lập tức Web hiểu lôgic của câu hỏi này.

Nếu đeo kính hồng ngoại nhìn đêm thì tất nhiên họ sẽ phát hiện ra tia lade kia, vì nó sẽ hiện ra rõ mồn một như một tia sáng đỏ quạch trong màn đêm.

“Không. Tôi chỉ đeo kính của mình sau khi những khẩu súng kia bắt đầu nã đạn rồi, nhưng bình thường thì các đội viên đột kích cũng có mang kính nhìn đêm luôn bao giờ đâu. Lúc đeo thì nhìn rất sáng, nhưng khi cần bỏ ra để bắn thì gần như ai cũng bị lóa mắt trong giây lát. Hơn nữa ngay cả các xạ thủ bắn tỉa có lẽ cũng chẳng mang kính trong quá trình tấn công; vì những chiếc kính này làm rối loạn khả năng ước lượng khoảng cách của mắt.”

Bates hất đầu về phía những tòa nhà xập xệ đã được sử dụng để bố trí các ụ súng máy. “Kỹ thuật viên đã kiểm tra súng. Mỗi ụ đều có một hộp liên kết tín hiệu. Nhiều khả năng là có một khoảng trống vài giây sau khi đội Charlie khởi động công tắc lade và thời điểm những khẩu súng phát hỏa để bảo đảm là cả đội đã lọt hẳn vào vùng kiểm soát. Cả khoảng sân và các đường bắn đều rất rộng cho việc đó.”

Web chợt cảm thấy choang váng đến nỗi phải chống tay vào tường.Dường như anh đang sống lại cảm giác tê liệt mà anh phải trả qua khi cuộc tấn công định mệnh kia bắt đầu.

“Lẽ ra cậu phải nghỉ ngơi cho khỏe hẳn lại đã,” Bates vừa nói vừa luồn một tay vào dưới nách Web để đỡ anh.

“Tôi từng bị nhiều vết xước lớn hơn thế này nhiều.”

“Tôi có nói về vết thương ở tay cậu đâu.”

“Đầu tôi cũng vẫn ổn, cám ơn anh đã quan tâm,” Web càu nhàu, rồi gắng bình tĩnh lại. “Ngay lúc này tôi chỉ muốn hành động, chứ không phải suy nghĩ gì hết.”

Cả nửa giờ sau đó, Web tiếp tục xác định lại những vị trí và đặc điểm của từng người mà cả đội đã đi qua tối hôm đó, cùng tất cả những gì anh có thể nhớ được kể từ lúc đội Charlie tấn công đến khi viên đạn cuối cùng được bắn ra trong sân.

“Liệu cậu có nghĩ trong bọn chúng có kẻ liên quan đến bọn trong mục tiêu không?” Bates hỏi. Anh ta đang nói tới nhóm buôn lẻ ma túy mà Web và cả đội đã gặp trong hẻm.

“Ở đây thì tất cả đều có thể,” Web trả lời. “Rõ ràng là đã có rò rỉ thông tin. Và có thể là từ bất kỳ khâu nào.”

“Đúng là có rất nhiều khả năng,” Bates trầm ngâm. “Hãy thử xem xét nhé.”

Web nhún vai. “Đây không phải là một tình huống ba số tám.” Anh nói. Web muốn nói tin nhắn gồm ba con số tám thường xuất hiện trên các máy nhắn tin của các thành viên trong đội HRT mỗi khi họ được lệnh triệu tập khẩn cấp đến Quantico. “Theo kế hoạch đêm qua đã được chọn làm ngày tấn công, vì vậy cứ đúng lịch là mọi người tập trung ờ HRT để nhận vũ khí, trang bị, phân công nhiệm vụ cho từng đội rồi triển khai lên những chiếc Suburban như mọi khi. Chúng tôi còn kiểm tra và nhận lệnh ban đầu tại Điểm Chim Ó trước khi tiếp tục lái đến điểm dàn trận cuối cùng. Chúng tôi còn có cả một công tố viên của Tòa án Tối cao Hoa Kỳ trong trường hợp cần có lệnh bắt khẩn cấp. Các tay súng bắn tỉa cũng đã vào vị trí dọc hai bên con hẻm. Họ đến từ sớm, đóng giả làm một đội công nhân xây dựng cần sửa lại mái nhà. Các đội đột kích cũng đã hiệp đồng nhiệm vụ dưới đất với cảnh sát địa phương như mọi khi. Sau khi rời khỏi vị trí ém quân cuối cùng, Teddy Riner đã thông báo về TOC và nhận được toàn quyền hành động vì đây là trường hợp tác chiến trong điều kiện tiếp ứng khó khăn. Chúng tôi muốn được phép tùy nghi nổ súng. Chúng tôi biết rằng nếu tấn công chính diện và để lộ mình ra trước khoảng sân là quá liều lĩnh, nhưng cơ bản chúng tôi tin rằng bọn chúng bị bất ngờ. Hơn nữa căn cứ vào vị trí cụ thể của tòa nhà thì cũng chẳng có lựa chọn nào khác cả. Chúng tôi được phép tiếp cận vào khu vực khủng hoảng và tại đó chúng tôi bắt đầu thực hiện theo mệnh lệnh đếm ngược của TOC. Chúng tôi chỉ có một điểm đột kích chủ yếu từ bên ngoài. Kế hoạch tấn công là cả đội sẽ tản ra sau khi vào bên trong và tấn công theo hai cánh, trong khi Hotel và DEA sẽ bọc hậu, ngoài ra còn có một đội dự bị và hỏa lực yểm trợ của đội bắn tỉa nữa. Nhanh chóng và dứt khoát, đúng như mọi khi.”

Hai người ngồi trên hai thùng rác. Bates thổi phù miếng bã kẹo vào trong thùng, rút ra bao thuốc và mời Web. Anh từ chối.

“Cảnh sát địa phương biết mục tiêu này đúng không?” Bates hỏi.

Web gật đầu, “Họ biết rõ khu vực này. Vì vậy họ đã có mặt, phong tỏa từ xa, và ngăn không cho người ngoài tiếp cận vào, đề phòng đồng bọn của mục tiêu đánh động, bao giờ cũng là những nhiệm vụ như thế.”

“Theo cậu thì bọn trong mục tiêu có bao nhiêu thời gian để chuẩn bị trong trường hợp thông tin bị rò rỉ từ cảnh sát địa phương.”

“Một giờ.”

“Hừm, không ai có thể sắp đặt cái bẫy khủng khiếp như thế này trong vòng có một giờ được.”

“Ai là tay trong của chúng ta trong vụ này?”

“Nhớ là anh phải giữ kín cái tên này cho đến khi xuống mồ nhé.” Bates ngừng lại một lát, có lẽ là để nhấn mạnh thêm mệnh lệnh của mình rồi nói.

“Tên anh ta là Randall Cove. Một tay sừng sỏ thực sự. Làm việc với mục tiêu ở cấp độ rất sâu. Tôi muốn nói là sâu đến tận đáy ấy. Người Mỹ gốc Phi, to khỏe như một chiếc xe tải và rất dày dạn chinh chiến. đánh đấm. Anh ta đã làm hàng triệu vụ như thế này rồi.”

“Vậy anh ta khai như thế nào?”

“Tôi chưa hỏi anh ta.”

“Sao không?”

“Không sao liên lạc được với anh ta.” Bates ngừng lại một lát rồi nói thêm, “Cậu có biết chắc liệu Cove có nắm được thời điểm tấn công không?”

Cầu hỏi làm Web bất ngờ. “Đầu bên anh phải biết rõ hơn tôi chứ. Tôi nói cho anh biết là chúng tôi hoàn toàn không nhận được chỉ thị nào về việc có đặc vụ chìm hay bất kỳ người cung cấp tin nào sẽ có mặt ở mục tiêu. Nếu họ cũng có mặt ở đó, chúng tôi hẳn đã được thông báo trước khi tấn công. Qua đó chúng tôi có thể biết họ là ai, hình dáng thế nào và chúng tôi sẽ bảo đảm đưa họ ra ngoài an toàn giống như những con tin khác, để mục tiêu thật sự không thể biết trước và thủ tiêu họ.”

“Các cậu biết những gì về mục tiêu tấn công lần này?”

“Rằng đây là những tay trùm tài chính của giới buôn ma túy, có cả những tay kế toán của chúng. An ninh cực kỳ nghiêm ngặt. Họ muốn tóm được những tay nắm tay hòm chìa khóa này như là những nhân chứng tiềm năng và chúng tôi phải coi đó là những con tin cần bảo vệ. Nhanh chóng bảo vệ và đưa họ ra ngoài an toàn trước khi bất kỳ ai kịp nhận ra chúng tôi đang làm gì và phải làm thật nhanh để không ai chạy thoát. Kế hoạch tấn công của chúng tôi đã được thông qua; chúng tôi nắm được sơ đồ mục tiêu và đã xây dựng hẳn cả một tòa nhà giống hệt như vậy tại Quantico. Tập dượt không biết bao nhiêu lần cho đến khi chúng tôi biết rõ từng centimét vuông trong tòa nhà. Thông qua cả quy tắc tham chiến không có gì khác thường, nai nịt gọn gàng, lên những chiếc Suburban. Chấm hết.”

“Như vậy là các cậu thì quan sát bằng mắt thường, còn đội bắn tỉa dùng thiết bị,” Bates nói, vì bao giờ các tay súng bắn tỉa cũng theo dõi mục tiêu qua ống nhòm. “Có gì khác thường không?”

“Chẳng có gì đặc biệt, nếu không chúng tôi đã được chỉ thị trước.” Ngoài vấn đề con tin và nhân chứng ra thì đây chỉ là một vụ đột kích chống tội phạm ma túy thông thường. Mẹ kiếp, chúng tôi đã thực hiện hàng ngàn vụ thế này rồi.”

“Nếu chỉ là một vụ tấn công tội phạm ma túy, họ đã không cử đội các cậu,Web ạ. WFO lẽ ra đã có thể dùng đội SWAT 3 là được rồi.”

“À, chúng tôi nhận được chỉ thị rằng việc tiếp ứng lần này sẽ rất khó khăn, và thực tế thì đúng như vậy. Chúng tôi cũng biết là mục tiêu lân này sẽ rất khó xơi, nhất là khả năng chúng được trang bị những vũ khí đặc biệt mà SWAT không tự tin là họ sẽ xử lý ổn thỏa. Và nhất là lại dính dáng đến những nhân chứng tiềm năng nữa. Chừng đó cũng đủ để để họ huy động đến chúng tôi rồi. Nhưng có lẽ không ai trong chúng tôi ngờ rằng có đến tám ụ súng máy đã chờ sẵn.”

“Rõ ràng là không thể tệ hơn thế. Chúng ta đã bị chúng xiếc một vố cực đau. Ngoài những khẩu súng này ra thì cả khu nhà vắng hoe. Phải gọi đúng là phục kích. Hoàn toàn không có bọn kế toán hay dân sổ sách nào hết, không hồ sơ tài liệu, không gì sất.”

Web mân mê những vết đạn găm sâu vào tường gạch. Nhiều phát đạn xuyên sâu đến nỗi lộ cả phần lõi bê tông bên dưới – chắc chắn là chúng đã dùng đạn xuyên giáp, không còn gì phải nghi ngờ nữa. Ít nhất cũng có điều an ủi là các đồng đội của anh đã chết ngay lập tức không kịp cảm thấy đau đớn. “Chắc đội bắn tỉa phải nhìn thấy gì đó chứ.” Web vẫn hy vọng họ sẽ nhìn thấy điều đã khiến anh cứng đờ người. Nhưng làm gì có chuyện đó.

“Tôi vẫn chưa hỏi họ được kỹ lưỡng cho lắm,” Bates nói nhanh, và một lần nữa Web quyết định không hỏi thêm nữa.

“Thằng bé đâu rồi? Web hỏi, anh băn khoăn một lúc rồi mới nhớ ra, “Tên nó là Kevin.”

Bates cũng hơi ngần ngừ một lát, “Biến mất rồi.”

Web ngẩn người, “Tại sao? Nó chỉ là một thằng nhóc.”

“Tôi có nói là nó tự trốn đi đâu.”

“Chúng ta đã xác định được danh tính nó chưa?”

“Kevin Westbrook. Mười tuổi. Nó có người thân và gia đình ở khu này, nhưng đều là người từ bang khác tới. Có một thằng anh trai, tên đường phố là Big F, chữ F 4 nghĩa là gì thì cậu biết rồi đấy. Đó là một tay trùm băng đảng đường phố, to như một cây cổ thụ, khôn ngoan như một tay có bằng thạc sĩ ở Harvard. Chuyên buôn bán thuốc lắc, cần sa Jamaica, loại hảo hạng, mặc dù chúng ta chưa bao giờ có đủ bằng chứng để bắt hắn. Có thể coi khu vực này là lãnh địa của hắn.”

Web duỗi thẳng các ngón của bàn tay bị thương. Giải băng mỏng có vẻ không hề giúp làm giảm cơn đau, nhưng anh chợt thấy hổ thẹn khi nghĩ vậy. “Có vẻ như là sự trùng hợp khá thú vị khi cậu em của tay trùm khu vực này lại ngồi chơi trong con hẻm khi chúng tôi đi vào.” Ngay cả khi đang nói về thằng bé, Web vẫn cảm thấy một điều gì đó đang thay đổi trong cơ thể dường như linh hồn anh vừa thoát ra ngoài và đang trôi lềnh bềnh. Đã có lúc anh chợt nghĩ mình sắp ngất đến nơi. Web bắt đầu tự hỏi không biết anh cần một bác sĩ hay một pháp sư đây.

“À, cái đó thì cũng không biết vì thằng bé sống ở đây mà. Và như chứng ta đã xác minh thì gia đình thằng bé cũng không yên ả lắm đâu. Có lẽ nó chỉ muốn ở ngoài đường bất kỳ lúc nào có thể.”

“Thằng anh trai nó cũng mất tăm rồi à?” Web hỏi khi bắt đầu cảm thấy bớt choáng váng hơn.

“Hắn sống lang bạt, không có địa chỉ cố định. Một khi cậu làm cái công việc như của hắn thì cũng thế thôi, nay đây mai đó. Chúng ta không hề có bằng chứng nào để có thể bắt hắn vì bất kỳ cớ gì, nhưng tất nhiên là tôi đã cho người lùng tìm hắn rồi.” Anh ta chăm chú nhìn Web. “Cậu chắc là vẫn ổn chứ?”

Web vẫy tay ra hiệu mình không sao. “Làm thế quái nào mà các anh để mất dấu thằng bé?”

“Lúc này thì tôi chưa biết. Chúng ta sẽ biết rõ hơn sau khi kiểm tra kỹ khu vực này. Chắc chắn phải có ai đó nhìn thấy số vũ khí này được đưa vào đây, nhất là khi lắp đặt các ụ súng máy. Sự xuất hiện của những khẩu súng đó thế nào cũng gây tò mò, cho dù là ở một khu vực phức tạp như ở đây.”

“Anh thực sự tin là người dân ở đây sẽ chịu nói chuyện với cảnh sát sao?”

“Chúng ta đành phải cố thử thôi, Web ạ. Chỉ cần một đôi mắt nào đó nhìn thấy thôi mà.”

Hai người im lặng một hồi lâu. Cuối cùng Bates ngước lên, nét mặt lộ vẻ khó xử: “Web, thực sự thì chuyện gì đã xảy ra?”

“Sao anh không hỏi thẳng toẹt ra? Rằng tại sao không phải là bảy anh em cùng sống cùng chết chứ gì?”

“Thì đúng là tôi đang hỏi thế đấy.”

Web đăm đăm nhìn qua khoảng sân, ánh mắt anh như dán chặt vào nơi anh đã ngã sấp mặt. “Tôi vọt ra con hẻm chậm hơn một chút. Lúc đó dường như tôi cứng đờ người bất động. Tôi cứ tưởng mình bị đột quỵ cơ. Rồi sau đó tôi ngã sấp mặt ngay trước khi súng nổ. Tôi không hiểu tại sao nữa.”

Đầu óc Web bỗng trở nên rỗng tuếch và tất cả đột nhiên ùa trở lại như một chiếc ti vi bị mất tín hiệu sau tiếng sét nổ sát bên cạnh. “Tất cả chợt qua đi trong giây lát, Perce. Tất cả chỉ mất có một giây. Thật không đúng lúc chút nào.” Anh chăm chú nhìn Bates để xem anh ta phản ứng ra sao. Đôi mắt nheo lại của anh ta cho Web biết tất cà những gì anh cần biết.

“Mẹ kiếp, không sao. Chính tôi cũng còn không im nữa là” Web cay đắng nói. Bates lặng im, và Web quyết định đi thẳng vào lý do khác khiến anh đến đây. “Lá cờ đâu rồi?” Anh hỏi. Bates tỏ ra ngạc nhiên. “Lá cờ của HRT ấy. Tôi đến để mang nó về Quantico.”

Theo truyền thống, trong mỗi điệp vụ của mình, thành viên cấp cao nhất của đội bao giờ cũng quấn trong người lá cờ HRT. Sau khi nhiệm vụ hoàn thành, lá cờ sẽ được chính người này chuyển về cho người chỉ huy HRT. Và bây giờ thành viên đó chính là Web.

“Theo tôi,” Bates nói.

Một chiếc xe của FBI đỗ ngay cạnh lề đường. Bates mở một cánh cửa sau, chui vào trong và kéo ra một lá cờ được gấp gọn gàng theo kiểu quân sự. Anh ta đưa nó cho Web.

Web chìa hai tay đỡ lấy lá cờ, chăm chú nhìn màu cờ hồi lâu, hình ảnh mỗi người đồng đội lần lượt hiện ra trong tâm trí anh.

“Có vài lỗ thủng trên lá cờ,” Bates nhận xét.

“Chúng tôi ai chẳng có,” Web lạnh lùng nói.

Vẫn mặc nguyên bộ quần áo bệnh nhân màu xanh của bệnh viện. Web xách túi đồ cá nhân của mình và ngước nhìn bầu trời đầy nắng rực rỡ tràn ngập cửa sổ buồng bệnh. Những lớp gạc quanh bàn tay bị thương của anh thật vướng víu và khó chịu; anh có cảm giác như đang mang một chiếc găng tay quyền Anh ngoại cỡ.

Anh đang chuẩn bị bước tới mở cửa để ra ngoài thì cánh cửa tự bật mở; ít nhất đó cũng là điều Web nghĩ cho đến khi có một người đàn ông xuất hiện.

“Cậu làm gì ở đây, Romano?” Web thốt lên ngạc nhiên.

Người đàn ông không nhận ra ngay Web. Anh ta chỉ cao khoảng lm80, vóc người lực lưỡng. Anh chàng tóc đen xoăn tít này mặc một chiếc áo khoác da cũ kỹ, quần jeans, và đội một chiếc mũ lưỡi trai của đội bóng chày Yankees trên đầu. Tấm phù hiệu FBI được cài ở thắt lưng; báng một khẩu súng ngắn thò ra khỏi bao kẹp ở nách.

Romano nhìn Web từ đầu xuống chân, ánh mắt anh ta dừng lại ở bàn tay bị thương của Web. Anh ta chỉ vào vết thương. “Đấy à? Vết thương khốn kiếp của cậu đấy à?” Web nhìn tay mình rồi nhìn lại Romano. “Chẳng lẽ cậu sẽ hạnh phúc hơn nếu vết đạn này nằm ở đầu tớ sao?”

Paul Romano cũng là một thành viên đội đột kích Hotel. Anh chàng là một trong những người mạnh mẽ, liều lĩnh nhất và bao giờ bạn cũng biết mình đang ở một nơi nguy hiểm không hứa hẹn điều gì tốt lành nếu thấy anh ta có mặt. Romano và Web chưa bao giờ thực sự thân thiết mà theo Web thì chủ yếu là vì Web đã bị thương nhiều hơn anh ta, và Romano rất lấy làm cay cú với ý nghĩ rằng Web anh hùng và dũng cảm hơn anh ta.

“Tôi chỉ hỏi cậu một lần thôi, Web, và tôi muốn hỏi toạc móng heo. Cậu mà nói dối thì biết tay tôi đấy.”

Web cúi xuống nhìn Romano và bước lại gần anh ta thêm một chút chỉ để nhấn mạnh thêm sự chênh lệch chiều cao giữa hai người. Anh biết chắc làm như thế càng khiến Romano tức tối thêm. “Được rồi. Paulie – cậu mang kẹo và hoa cho mình đấy à?”

“Hãy nói thật với tôi xem nào Web.” Anh ta ngập ngừng một lát tôi nói tiếp, “Anh đã bỏ chạy à?”

“Ừ, Paulie ạ, mấy khẩu súng đó bắn rát rạt luôn.”

“Tôi biết rồi. Ý tôi muốn nói là trước đó kia. Khi đội Charlie ngã xuống ấy. Anh không lao lên cùng với họ. Tại sao?”

Web cảm thấy mặt nóng ran và anh căm ghét bản thân vì điều đó. Thường thì chẳng mấy khi Romano làm anh bận tâm. Nhưng sự thật là Web không biết phải trả lời anh ta như thế nào.

“Có chuyện gì đó đã xảy ra trong đầu tớ! Paulie ạ. Tớ cũng không biết chính xác là điều gì nữa. Nhưng tớ chẳng liên quan gì đến vụ phục kích này hết, trong trường hợp cậu đã phát điên và đang nghi ngờ tớ.”

Romano lắc đầu. “Tôi không nghĩ cậu đã trở thành kẻ phản bội, Web ạ, nhưng cậu đã trở nên hèn nhát.”

“Nếu như cậu đến chỉ để nói với tớ chuyện đó thì biến mẹ cậu đi cho rảnh.”

Romano lại nhìn anh từ đầu đến chân và với ánh mắt khinh bỉ của anh ta. Web lại thấy mình như không còn là người nữa. Không thèm nói một lời, Romano quay người bỏ đi. Có lẽ Web sẽ hài lòng hơn nếu trước khi đi anh ta bỏ lại một câu xúc phạm gì đó còn hơn là im lặng như vậy.

Web đứng chờ thêm vài phút cho anh ta đi hẳn rồi ra mở cửa.

“Anh đang làm gì vậy?” người gác cửa ngạc nhiên hỏi.

“Bác sĩ cho tôi ra viện rồi mà, chưa ai bảo anh à?”

“Chẳng ai nói gì với tôi cả.”

Web chìa bàn tay băng kín mít của mình lên. “Chính phủ sẽ không trả tiền thêm một đêm nữa cho một bàn tay bị trầy xước qua loa thế này đâu. Và tất nhiên là tôi chẳng việc mẹ gì mà bỏ tiền túi ra làm gì.”

Web không biết người dùng gác, nhưng có vẻ như anh ta là loại người biết thông cảm với một đề nghị hợp tình hợp lý.

Không đợi anh ta trả lời. Web cứ thế bước đi. Anh biết người lính gác không có lý do gì mà ngăn trở mình. Tất cả những gì anh ta có thể làm là liên lạc với cấp trên để báo cáo về động thái này. Gì chứ việc ấy thì chẳng cần nhắc chắc anh ta cũng đang thực hiện rồi.

Web ra khỏi bệnh viện qua một lối đi ở bên, anh tìm một chiếc bốt điện thoại công cộng, gọi cho một người bạn, và một giờ sau anh đã ở trong trang trại cũ kỹ của mình ở một khu ngoại ô yên tĩnh của Woodbridge, Virginia. Anh thay đồ jeans, đi giày, mặc một chiếc áo len chui cổ màu xanh hải quân, tháo bỏ những chiếc gạc và thay bằng một lớp băng mỏng. Anh không muốn nhận sự thương hại của bất kỳ ai, nhất là khi sáu người bạn thân nhất của anh giờ đang nằm trong nhà xác.

Anh kiểm tra tin nhắn. Không có gì nghiêm trọng, nhưng anh biết điều đó sẽ thay đổi sớm thôi. Anh mở một chiếc hộp trên mặt lò sưởi lấy ra khẩu chín ly dự phòng và đút vào trong bao súng ở thắt lưng. Mặc dù về mặt kỹ thuật mà nói thì đêm qua anh không bắn ai. Nhưng đây vẫn là một vấn đề của SRB – Shooting Review Board – tức Ban Kiểm Tra Súng; vì trong thực tế là anh đã sử dụng vũ khí của mình. Họ đã tịch thu toàn bộ súng của Web, như thế khác nào chặt tay anh đi. Sau đó họ còn khuyên bảo anh về những quyền lợi của mình và đã lấy lời khai. Tất cả chỉ là thủ tục, là quy định của ngành, nhưng vẫn khiến anh có cảm giác mình đang bị coi là một tên tội phạm. Kệ xác họ, anh sẽ không đi đâu hết nếu không có đồ lận lưng. Nếu như bản chất anh đã là người hoang tưởng thì vụ thảm sát của sáu người đồng đội đêm qua càng biến anh thành một người loạn tinh thần, thậm chí chỉ cần nhìn trẻ con và đàn bà cũng thấy giật mình, cảnh giác.

Anh ra giữa, khởi động chiếc Ford Mach One đời 1978 màu đen chì và lái ra ngoài.

Web có hai chiếc xe: chiếc Mach này và một chiếc Suburban cổ lỗ sĩ nhưng nồi đồng cối đá, đã từng đưa anh và cả đội Charlie của mình đi xem những trận bóng bầu dục của đội Redskin, tới những bãi biển của Virginia và Maryland, đi bia bọt đâu đó và biết bao lần cắm trại hay dã ngoại dọc bờ biển Đông. Mỗi người trong nhóm đều có chỗ ngồi mặc định trong chiếc Suburban, căn cứ vào khả năng và tuổi tác, đúng theo cách phân chia thứ bậc trong ngành của Web. Họ đã có biết bao kỳ niệm đẹp với chiếc xe to bự đó. Giờ thì Web tự hỏi anh sẽ bán chiếc Suburban với giá thế nào cho phù hợp, vì anh không thể nào có tâm trạng ngồi vào nó được nữa.

Anh lái xe theo đường cao tốc liên bang số 95, hướng về phía bắc và cố luồn lách qua chặng đường nhọc nhằn là giao lộ Springfield. Giao điểm này có lẽ là tác phẩm của một kỹ sư cầu đường trong cơn phê thuốc. Giờ đây nó đang được nâng cấp toàn bộ, dự kiến sẽ hoàn thành trong khoảng mười năm nữa. Người nào mà vô phúc lái xe hàng ngày qua giao lộ này thì có nước là khóc đến méo mặt khi tốc độ dịch chuyển của giao thông vào buổi sáng được tính bằng cm. Web đi qua Cầu Phố 14, xuyên qua khu Tây Bắc của thành phố nơi có những công trình kỷ niệm và thắng cảnh thu hút khách du lịch chính, và cuối cùng là một khu ổ chuột nhếch nhác của thành phố.

Web là một đặc vụ FBI, nhưng trong thâm tâm anh không bao giờ nghĩ vậy. Đầu tiên và trên hết anh là một lính đặc nhiệm của đội Giải cứu con tin (HRT: Hostage Rescue Team), lực lượng phản ứng nhanh tinh nhuệ nhất của Cục. Anh không bao giờ phải mặc complet đi làm, cũng hiếm khi giao du với những đặc vụ khác ngoài HRT. Anh không xuất hiện tại hiện trường vụ án sau khi súng đã ngừng nhả đạn. Bao giờ anh cũng phải có mặt từ lúc xuất phát, tăng tốc, áp sát mục tiêu, nổ súng khống chế và nhiều khi còn phải giết người. Chỉ có tất cả 50 lính đặc nhiệm HRT cả thảy, vì quá trình chọn lọc và đào thải của công việc này vô cùng khắc nghiệt. Tuổi nghề trung bình ở HRT là năm năm. Web đã vượt quá quy định chung đó và sắp kỷ niệm tám năm công tác ở đội. Dường như đạo này HRT được huy động thường xuyên hơn, và phải có mặt ở các điểm nóng ở khắp nơi trên thế giới. Luật bất thành văn của HRT là phải có mặt ở hiện trường sau tối đa là bốn tiếng xuất phát từ Căn cứ Không quân Andrew. Có điều là tấm rèm sân khấu đã khép lại, vai diễn của Web trong vở này đã xong. Giờ thì anh chỉ còn bơ vơ một mình.

Web chưa bao giờ nghĩ rằng anh sẽ là người cuối cùng còn sống sót trong bất kỳ trường hợp nào. Điều đó có vẻ không phù hợp với bản chất của anh. Cả đội đều đã nói đùa về chuyện này, thậm chí còn đánh cuộc xem ai sẽ là người chết trước trong một đêm không trăng tối thui. Lúc nào Web cũng là người đứng đầu trong danh sách, bởi vì anh luôn là người đầu tiên đương đầu với mọi hiểm nguy. Giờ thì điều đó đang giày vò Web, anh vẫn không hiểu điều gì đã ngăn cản anh không nằm trong chiếc quan tài thứ bảy. Và tệ hơn cả cảm giác cắn rứt là nỗi nhục nhã.

Anh quặt chiếc Mach tấp vào lề đường và bước xuống xe chỗ có dải băng cấm đánh dấu hiện trường. Anh xuất trình chứng minh thư của mình cho những người lính gác, họ không giấu được vẻ sững sờ khi nhìn thấy anh. Web cúi đầu lặng lẽ bước nhanh vào con hẻm trước khi một biển phóng viên đông nghịt kịp vây chặt lấy anh. Sau khi vụ thảm sát xảy ra các đài truyền hình đã đóng quân tại khu vực này và truyền tin trực tiếp bằng những chiếc xe chuyên dụng có ăng ten vệ tinh cao vút. Web cũng đã nghe qua vài bài phản ánh khi còn trong bệnh viện. Thực ra giới truyền thông cũng chỉ nhai đi nhai lại với những sự kiện cũ rích, sứ dụng mấy hình ảnh và sơ đồ vô thưởng vô phạt với giọng điệu chắc như đinh đóng cột kiểu như “Đó là tất cả những gì chúng tôi biết tại thời điểm này. Nhưng hãy theo dõi sát sao chương trình, cam đoan là chúng tôi sẽ sớm có thêm thông tin giá trị, dù có phải dựa hoàn toàn vào sự phỏng đoán của mình. Hẹn gặp lại các bạn, phóng viên Sue phản ánh từ hiện trường”.

Web lặng lẽ đi về cuối hẻm.

Cơn bão đêm qua đã tan sâu vào Đại Tây Dương. Không khí sau bão trở nên mát mẻ hơn đôi chút. Vốn được xây dựng trên một đầm lầy, thủ đô Washington ứng phó với với điều kiện nóng ẩm tốt hơn là với giá lạnh và bão tuyết. Mỗi khi tuyết rơi thì đừng có mơ đến chuyện nhìn thấy một con đường nào được dọn tuyết chu đáo.

Đến giữa con hẻm thì anh gặp Bates. “Cậu làm cái quái gì ở đây vậy?” anh ta thốt lên.

“Anh đã nói là anh muốn tôi trình bày lại những gì đã xảy ra, vậy tôi đang ở đây thôi.” Bates liếc nhìn tay Web. “Bắt tay vào thôi, Perce. Mỗi phút đều giá trị.”

Xuất phát từ chính điểm chiếc Chevy Suburban đã thả họ xuống, Web bắt đầu đi lại hành trình của đội mình. Với mỗi bước chân tiến gần về phía mục tiêu, Web càng cảm thấy cơn giận dữ và tủi hổ của mình lớn dần lên. Những thi thể đã được dọn đi; nhưng vết máu thì không. Ngay cả trận mưa rào xối xả cũng không thể rửa sạch những vết máu đặc quánh. Trong tâm tưởng, Web hình dung lại tất cả những hành động mà anh đã thực hiện, những cảm xúc mà anh đã trải qua.

Một nhóm kỹ thuật viên đang tháo dỡ những ụ súng máy bị phá hủy, chốc chốc họ lại nhặt ra những mẩu hoặc mảnh vỡ nhỏ có thể dùng làm bằng chứng điều tra. Những người khác đang sục sạo khắp trên sân, người thì quỳ gối xuống sàn bê tông săm soi, người thì lom khom tìm kiếm nhặt nhạnh đủ thứ, hy vọng tìm ra được câu trả lời từ những vật linh tinh rải rác khắp sân. Web nhìn họ làm việc với ánh mắt hoài nghi. Gần như chắc chắn một trăm phần trăm là trên những mảnh vỡ và thân súng bị phá hủy còn lại kia sẽ chẳng có dấu vân tay nào hết. Kẻ đã sắp đặt vụ phục kích kỳ công đến dường này thì chắc hẳn phải là kẻ cực kỳ ranh ma và thận trọng.

Anh lặng lẽ bước qua những vũng máu như thể đang rón rén luồn lách giữa những ngôi mộ của đồng đội, mà thực ra cũng có khác gì đâu?

“Những ô cửa sổ này đã được sơn đen kịt để không ai có thể nhìn thấy những khẩu súng được bố trí trong này cho đến khi chúng bắt đầu nhả đạn. Không thể nhìn thấy ánh nắng phản xạ trên nòng súng, không gì sất”, Bates nhận xét.

“Thật vui khi biết chúng ta bị chơi bởi những tay chuyên nghiệp” Web cay đắng trả lời.

“Cậu làm ăn được đấy.” Bates chỉ vào một khẩu súng máy đã nát vụn.

“Khẩu SR75 nào cũng làm được như vậy thôi.”

“Đây là những khẩu súng máy loại mini, quân dụng, kiểu Gatling sáu nòng, gắn trên giá ba chân, chân đế súng được bắt vít xuống sàn nhà để cố định vị trí. Có cả hộp tiếp đạn và băng truyền đạn gắn kèm đây với 4000 viên mỗi khẩu. Tốc độ bắn được điều chỉnh cố định ở mức 400 phát/phút, mặc dù tốc độ bắn tối đa là 8000 phát/phút.”

“Bốn trăm là quá đủ rồi. Và có tám khẩu cả thảy. Có nghĩa là trong vòng sáu mươi giây có đến 3200 viên nã vào anh rồi. Tôi biết vậy vì có một viên nẩy ra cách tôi có vài phân.”

“Với tốc độ bắn chậm như vậy thì những khẩu súng này có thể bắn được lâu hơn.”

“Đúng thế.”

“Súng hoạt động bằng điện, còn đạn mà chúng sử dụng là đạn xuyên giáp.”

Web lắc đầu chán nản. “Các anh đã tìm thấy thiết bị khởi động chưa?”

Bates dẫn anh qua một tường gạch ở phía bên kia con hẻm mà Web vừa đi xuống. Đó là một tòa nhà đứng vuông góc với tòa nhà chung cư là mục tiêu ban đầu và chính là nơi đặt một nửa số súng máy đã hủy diệt đội Charlie, trừ Web. Ngay giữa ban ngày, cũng phải căng mắt mới nhìn rõ khu vực tối tăm này.

Web quỳ gối xuống và nhận ra cái mà anh nhìn thấy trước mặt là một thiết bị lade. Trên bức tường đã được đục sâu một ô để đặt đầu phóng lade và bộ phát điện. Ô gạch này được đục khá sâu nên sau khi đặt vào hầu như không thể nhìn thấy bộ phát điện được nữa. Những đội viên đội bắn tỉa không thể nào xác định được thiết bị này từ vị trí phục kích của mình, ngay cả khi họ chủ động tìm kiếm nó chăng nữa, hoặc nếu họ đã nhận được tin tình báo đề cập đến một thiết bị kiểu này. Đường chiếu của tia lade là ngang đầu gối và rõ ràng là tia sáng này đã chiếu qua khoảng sân sau khi được kích hoạt.

“Tia sáng bị gián đoạn, và thế là bộ phát điện tự động kích hoạt súng nổ, hết một băng đạn lại ngưng vài giây cho đến khi bắn hết sạch. Anh bàng hoàng nhìn xung quanh. “Thế chẳng may có chó hoặc mèo hoặc ai đó vô tình đi qua đây và chặn mất tia lade trước khi chúng ta đến thì sao?”

Vẻ mặt của Bates cho thấy anh ta cũng đã cân nhắc khả năng này rồi. “Tôi nghĩ người quanh đây thì kiểu gì cũng được cảnh báo kín đáo là tránh xa. Nhưng chó và mèo thì lại là chuyện khác. Do vậy tôi nghi là bộ phát tia lade kia được kích hoạt từ xa.”

Web đứng dậy. “Vậy là chúng đợi đến khi chúng ta gần vào đến nơi mới kích hoạt tia lade. Có nghĩa là kẻ đó phải ở gần đây.”

“Hừm, hắn nghe thấy các cậu đến, hoặc hắn được thông báo về điều đó. Hắn chờ cho đến khi các cậu rẽ qua ngõ phố rồi nhấn nút điều khiển từ xa trước khi cao chạy xa bay.”

“Chúng tôi không nhìn thấy mống nào trong sân cả, và kính nhìn đêm tầm nhiệt của tôi cũng không phát hiện ra nguồn nhiệt 37,5 độ C nào hết.”

“Có thể là chúng trốn trong tòa nhà mục tiêu, hay trong bất kỳ tòa nhà chết tiệt nào xung quanh đây. Chúng chỉ việc thò thiết bị điều khiển ra khỏi cửa sổ, nhấn nút và úm ba la biến.”

“Vậy mà đội bắn tỉa và đội Hotel không nhìn thấy gì?”

Bates lắc đầu. “Đội Hotel khẳng định họ chẳng trông thấy gì cho đến khi thằng bé mang mẩu giấy của cậu lại.”

Nghe nhắc đến đội Hotel, Web lại nhớ dấn Paul Romano và càng thêm chán nản. Có lẽ giờ này Romano đang ở Quantico 1 và bô bô với mọi người rằng Web đã lấy cớ là bị động kinh để bao biện cho sự hèn nhát của mình khiến cả đội thiệt mạng.

“Thế còn Whiskey? X quang? Họ phải nhìn thấy gì đó chứ,” Web nói, ám chỉ những tay súng bắn tỉa bố trí trên mái nhà.

“Họ nhìn thấy gì đó, nhưng hiện tại tôi không muốn nói đến chuyện này.”

Bản năng của Web cho anh biết là không nên đề cập thêm. Những tay bắn tỉa còn nói gì được nữa? Rằng họ nhìn thấy Web đã chùn tay để cả đội lao lên tấn công, rằng anh đã nằm úp mặt xuống đất khi cả đội bị quét rụng như lá? “Thế còn DEA 2? Họ ở cùng với đội Hotel mà. Ngoài ra họ còn có cả một đội dự phòng nữa.” Web và Bates nhìn nhau hồi lâu trong lặng lẽ, và cuối cùng Bates lắc đầu.

Xưa nay FBI và DEA vẫn luôn hục hặc. Theo suy nghĩ của Web thì DEA cũng giống như một cậu em trai nghịch ngợm thích đá chân anh mình cho đến khi ông anh tức quá ra tay thì cậu em lại bỏ chạy và kêu la ầm ĩ.

“Mẹ kiếp, tôi nghĩ chúng ta sẽ phải chấp nhận thực tế đó cho đến khi có gì mới mẻ,” Web cay đắng nhận xét.

“Có lẽ vậy. Lúc đó các cậu có ai mang khí tài nhìn đêm không?”

Ngay lập tức Web hiểu lôgic của câu hỏi này.

Nếu đeo kính hồng ngoại nhìn đêm thì tất nhiên họ sẽ phát hiện ra tia lade kia, vì nó sẽ hiện ra rõ mồn một như một tia sáng đỏ quạch trong màn đêm.

“Không. Tôi chỉ đeo kính của mình sau khi những khẩu súng kia bắt đầu nã đạn rồi, nhưng bình thường thì các đội viên đột kích cũng có mang kính nhìn đêm luôn bao giờ đâu. Lúc đeo thì nhìn rất sáng, nhưng khi cần bỏ ra để bắn thì gần như ai cũng bị lóa mắt trong giây lát. Hơn nữa ngay cả các xạ thủ bắn tỉa có lẽ cũng chẳng mang kính trong quá trình tấn công; vì những chiếc kính này làm rối loạn khả năng ước lượng khoảng cách của mắt.”

Bates hất đầu về phía những tòa nhà xập xệ đã được sử dụng để bố trí các ụ súng máy. “Kỹ thuật viên đã kiểm tra súng. Mỗi ụ đều có một hộp liên kết tín hiệu. Nhiều khả năng là có một khoảng trống vài giây sau khi đội Charlie khởi động công tắc lade và thời điểm những khẩu súng phát hỏa để bảo đảm là cả đội đã lọt hẳn vào vùng kiểm soát. Cả khoảng sân và các đường bắn đều rất rộng cho việc đó.”

Web chợt cảm thấy choang váng đến nỗi phải chống tay vào tường.Dường như anh đang sống lại cảm giác tê liệt mà anh phải trả qua khi cuộc tấn công định mệnh kia bắt đầu.

“Lẽ ra cậu phải nghỉ ngơi cho khỏe hẳn lại đã,” Bates vừa nói vừa luồn một tay vào dưới nách Web để đỡ anh.

“Tôi từng bị nhiều vết xước lớn hơn thế này nhiều.”

“Tôi có nói về vết thương ở tay cậu đâu.”

“Đầu tôi cũng vẫn ổn, cám ơn anh đã quan tâm,” Web càu nhàu, rồi gắng bình tĩnh lại. “Ngay lúc này tôi chỉ muốn hành động, chứ không phải suy nghĩ gì hết.”

Cả nửa giờ sau đó, Web tiếp tục xác định lại những vị trí và đặc điểm của từng người mà cả đội đã đi qua tối hôm đó, cùng tất cả những gì anh có thể nhớ được kể từ lúc đội Charlie tấn công đến khi viên đạn cuối cùng được bắn ra trong sân.

“Liệu cậu có nghĩ trong bọn chúng có kẻ liên quan đến bọn trong mục tiêu không?” Bates hỏi. Anh ta đang nói tới nhóm buôn lẻ ma túy mà Web và cả đội đã gặp trong hẻm.

“Ở đây thì tất cả đều có thể,” Web trả lời. “Rõ ràng là đã có rò rỉ thông tin. Và có thể là từ bất kỳ khâu nào.”

“Đúng là có rất nhiều khả năng,” Bates trầm ngâm. “Hãy thử xem xét nhé.”

Web nhún vai. “Đây không phải là một tình huống ba số tám.” Anh nói. Web muốn nói tin nhắn gồm ba con số tám thường xuất hiện trên các máy nhắn tin của các thành viên trong đội HRT mỗi khi họ được lệnh triệu tập khẩn cấp đến Quantico. “Theo kế hoạch đêm qua đã được chọn làm ngày tấn công, vì vậy cứ đúng lịch là mọi người tập trung ờ HRT để nhận vũ khí, trang bị, phân công nhiệm vụ cho từng đội rồi triển khai lên những chiếc Suburban như mọi khi. Chúng tôi còn kiểm tra và nhận lệnh ban đầu tại Điểm Chim Ó trước khi tiếp tục lái đến điểm dàn trận cuối cùng. Chúng tôi còn có cả một công tố viên của Tòa án Tối cao Hoa Kỳ trong trường hợp cần có lệnh bắt khẩn cấp. Các tay súng bắn tỉa cũng đã vào vị trí dọc hai bên con hẻm. Họ đến từ sớm, đóng giả làm một đội công nhân xây dựng cần sửa lại mái nhà. Các đội đột kích cũng đã hiệp đồng nhiệm vụ dưới đất với cảnh sát địa phương như mọi khi. Sau khi rời khỏi vị trí ém quân cuối cùng, Teddy Riner đã thông báo về TOC và nhận được toàn quyền hành động vì đây là trường hợp tác chiến trong điều kiện tiếp ứng khó khăn. Chúng tôi muốn được phép tùy nghi nổ súng. Chúng tôi biết rằng nếu tấn công chính diện và để lộ mình ra trước khoảng sân là quá liều lĩnh, nhưng cơ bản chúng tôi tin rằng bọn chúng bị bất ngờ. Hơn nữa căn cứ vào vị trí cụ thể của tòa nhà thì cũng chẳng có lựa chọn nào khác cả. Chúng tôi được phép tiếp cận vào khu vực khủng hoảng và tại đó chúng tôi bắt đầu thực hiện theo mệnh lệnh đếm ngược của TOC. Chúng tôi chỉ có một điểm đột kích chủ yếu từ bên ngoài. Kế hoạch tấn công là cả đội sẽ tản ra sau khi vào bên trong và tấn công theo hai cánh, trong khi Hotel và DEA sẽ bọc hậu, ngoài ra còn có một đội dự bị và hỏa lực yểm trợ của đội bắn tỉa nữa. Nhanh chóng và dứt khoát, đúng như mọi khi.”

Hai người ngồi trên hai thùng rác. Bates thổi phù miếng bã kẹo vào trong thùng, rút ra bao thuốc và mời Web. Anh từ chối.

“Cảnh sát địa phương biết mục tiêu này đúng không?” Bates hỏi.

Web gật đầu, “Họ biết rõ khu vực này. Vì vậy họ đã có mặt, phong tỏa từ xa, và ngăn không cho người ngoài tiếp cận vào, đề phòng đồng bọn của mục tiêu đánh động, bao giờ cũng là những nhiệm vụ như thế.”

“Theo cậu thì bọn trong mục tiêu có bao nhiêu thời gian để chuẩn bị trong trường hợp thông tin bị rò rỉ từ cảnh sát địa phương.”

“Một giờ.”

“Hừm, không ai có thể sắp đặt cái bẫy khủng khiếp như thế này trong vòng có một giờ được.”

“Ai là tay trong của chúng ta trong vụ này?”

“Nhớ là anh phải giữ kín cái tên này cho đến khi xuống mồ nhé.” Bates ngừng lại một lát, có lẽ là để nhấn mạnh thêm mệnh lệnh của mình rồi nói.

“Tên anh ta là Randall Cove. Một tay sừng sỏ thực sự. Làm việc với mục tiêu ở cấp độ rất sâu. Tôi muốn nói là sâu đến tận đáy ấy. Người Mỹ gốc Phi, to khỏe như một chiếc xe tải và rất dày dạn chinh chiến. đánh đấm. Anh ta đã làm hàng triệu vụ như thế này rồi.”

“Vậy anh ta khai như thế nào?”

“Tôi chưa hỏi anh ta.”

“Sao không?”

“Không sao liên lạc được với anh ta.” Bates ngừng lại một lát rồi nói thêm, “Cậu có biết chắc liệu Cove có nắm được thời điểm tấn công không?”

Cầu hỏi làm Web bất ngờ. “Đầu bên anh phải biết rõ hơn tôi chứ. Tôi nói cho anh biết là chúng tôi hoàn toàn không nhận được chỉ thị nào về việc có đặc vụ chìm hay bất kỳ người cung cấp tin nào sẽ có mặt ở mục tiêu. Nếu họ cũng có mặt ở đó, chúng tôi hẳn đã được thông báo trước khi tấn công. Qua đó chúng tôi có thể biết họ là ai, hình dáng thế nào và chúng tôi sẽ bảo đảm đưa họ ra ngoài an toàn giống như những con tin khác, để mục tiêu thật sự không thể biết trước và thủ tiêu họ.”

“Các cậu biết những gì về mục tiêu tấn công lần này?”

“Rằng đây là những tay trùm tài chính của giới buôn ma túy, có cả những tay kế toán của chúng. An ninh cực kỳ nghiêm ngặt. Họ muốn tóm được những tay nắm tay hòm chìa khóa này như là những nhân chứng tiềm năng và chúng tôi phải coi đó là những con tin cần bảo vệ. Nhanh chóng bảo vệ và đưa họ ra ngoài an toàn trước khi bất kỳ ai kịp nhận ra chúng tôi đang làm gì và phải làm thật nhanh để không ai chạy thoát. Kế hoạch tấn công của chúng tôi đã được thông qua; chúng tôi nắm được sơ đồ mục tiêu và đã xây dựng hẳn cả một tòa nhà giống hệt như vậy tại Quantico. Tập dượt không biết bao nhiêu lần cho đến khi chúng tôi biết rõ từng centimét vuông trong tòa nhà. Thông qua cả quy tắc tham chiến không có gì khác thường, nai nịt gọn gàng, lên những chiếc Suburban. Chấm hết.”

“Như vậy là các cậu thì quan sát bằng mắt thường, còn đội bắn tỉa dùng thiết bị,” Bates nói, vì bao giờ các tay súng bắn tỉa cũng theo dõi mục tiêu qua ống nhòm. “Có gì khác thường không?”

“Chẳng có gì đặc biệt, nếu không chúng tôi đã được chỉ thị trước.” Ngoài vấn đề con tin và nhân chứng ra thì đây chỉ là một vụ đột kích chống tội phạm ma túy thông thường. Mẹ kiếp, chúng tôi đã thực hiện hàng ngàn vụ thế này rồi.”

“Nếu chỉ là một vụ tấn công tội phạm ma túy, họ đã không cử đội các cậu,Web ạ. WFO lẽ ra đã có thể dùng đội SWAT 3 là được rồi.”

“À, chúng tôi nhận được chỉ thị rằng việc tiếp ứng lần này sẽ rất khó khăn, và thực tế thì đúng như vậy. Chúng tôi cũng biết là mục tiêu lân này sẽ rất khó xơi, nhất là khả năng chúng được trang bị những vũ khí đặc biệt mà SWAT không tự tin là họ sẽ xử lý ổn thỏa. Và nhất là lại dính dáng đến những nhân chứng tiềm năng nữa. Chừng đó cũng đủ để để họ huy động đến chúng tôi rồi. Nhưng có lẽ không ai trong chúng tôi ngờ rằng có đến tám ụ súng máy đã chờ sẵn.”

“Rõ ràng là không thể tệ hơn thế. Chúng ta đã bị chúng xiếc một vố cực đau. Ngoài những khẩu súng này ra thì cả khu nhà vắng hoe. Phải gọi đúng là phục kích. Hoàn toàn không có bọn kế toán hay dân sổ sách nào hết, không hồ sơ tài liệu, không gì sất.”

Web mân mê những vết đạn găm sâu vào tường gạch. Nhiều phát đạn xuyên sâu đến nỗi lộ cả phần lõi bê tông bên dưới – chắc chắn là chúng đã dùng đạn xuyên giáp, không còn gì phải nghi ngờ nữa. Ít nhất cũng có điều an ủi là các đồng đội của anh đã chết ngay lập tức không kịp cảm thấy đau đớn. “Chắc đội bắn tỉa phải nhìn thấy gì đó chứ.” Web vẫn hy vọng họ sẽ nhìn thấy điều đã khiến anh cứng đờ người. Nhưng làm gì có chuyện đó.

“Tôi vẫn chưa hỏi họ được kỹ lưỡng cho lắm,” Bates nói nhanh, và một lần nữa Web quyết định không hỏi thêm nữa.

“Thằng bé đâu rồi? Web hỏi, anh băn khoăn một lúc rồi mới nhớ ra, “Tên nó là Kevin.”

Bates cũng hơi ngần ngừ một lát, “Biến mất rồi.”

Web ngẩn người, “Tại sao? Nó chỉ là một thằng nhóc.”

“Tôi có nói là nó tự trốn đi đâu.”

“Chúng ta đã xác định được danh tính nó chưa?”

“Kevin Westbrook. Mười tuổi. Nó có người thân và gia đình ở khu này, nhưng đều là người từ bang khác tới. Có một thằng anh trai, tên đường phố là Big F, chữ F 4 nghĩa là gì thì cậu biết rồi đấy. Đó là một tay trùm băng đảng đường phố, to như một cây cổ thụ, khôn ngoan như một tay có bằng thạc sĩ ở Harvard. Chuyên buôn bán thuốc lắc, cần sa Jamaica, loại hảo hạng, mặc dù chúng ta chưa bao giờ có đủ bằng chứng để bắt hắn. Có thể coi khu vực này là lãnh địa của hắn.”

Web duỗi thẳng các ngón của bàn tay bị thương. Giải băng mỏng có vẻ không hề giúp làm giảm cơn đau, nhưng anh chợt thấy hổ thẹn khi nghĩ vậy. “Có vẻ như là sự trùng hợp khá thú vị khi cậu em của tay trùm khu vực này lại ngồi chơi trong con hẻm khi chúng tôi đi vào.” Ngay cả khi đang nói về thằng bé, Web vẫn cảm thấy một điều gì đó đang thay đổi trong cơ thể dường như linh hồn anh vừa thoát ra ngoài và đang trôi lềnh bềnh. Đã có lúc anh chợt nghĩ mình sắp ngất đến nơi. Web bắt đầu tự hỏi không biết anh cần một bác sĩ hay một pháp sư đây.

“À, cái đó thì cũng không biết vì thằng bé sống ở đây mà. Và như chứng ta đã xác minh thì gia đình thằng bé cũng không yên ả lắm đâu. Có lẽ nó chỉ muốn ở ngoài đường bất kỳ lúc nào có thể.”

“Thằng anh trai nó cũng mất tăm rồi à?” Web hỏi khi bắt đầu cảm thấy bớt choáng váng hơn.

“Hắn sống lang bạt, không có địa chỉ cố định. Một khi cậu làm cái công việc như của hắn thì cũng thế thôi, nay đây mai đó. Chúng ta không hề có bằng chứng nào để có thể bắt hắn vì bất kỳ cớ gì, nhưng tất nhiên là tôi đã cho người lùng tìm hắn rồi.” Anh ta chăm chú nhìn Web. “Cậu chắc là vẫn ổn chứ?”

Web vẫy tay ra hiệu mình không sao. “Làm thế quái nào mà các anh để mất dấu thằng bé?”

“Lúc này thì tôi chưa biết. Chúng ta sẽ biết rõ hơn sau khi kiểm tra kỹ khu vực này. Chắc chắn phải có ai đó nhìn thấy số vũ khí này được đưa vào đây, nhất là khi lắp đặt các ụ súng máy. Sự xuất hiện của những khẩu súng đó thế nào cũng gây tò mò, cho dù là ở một khu vực phức tạp như ở đây.”

“Anh thực sự tin là người dân ở đây sẽ chịu nói chuyện với cảnh sát sao?”

“Chúng ta đành phải cố thử thôi, Web ạ. Chỉ cần một đôi mắt nào đó nhìn thấy thôi mà.”

Hai người im lặng một hồi lâu. Cuối cùng Bates ngước lên, nét mặt lộ vẻ khó xử: “Web, thực sự thì chuyện gì đã xảy ra?”

“Sao anh không hỏi thẳng toẹt ra? Rằng tại sao không phải là bảy anh em cùng sống cùng chết chứ gì?”

“Thì đúng là tôi đang hỏi thế đấy.”

Web đăm đăm nhìn qua khoảng sân, ánh mắt anh như dán chặt vào nơi anh đã ngã sấp mặt. “Tôi vọt ra con hẻm chậm hơn một chút. Lúc đó dường như tôi cứng đờ người bất động. Tôi cứ tưởng mình bị đột quỵ cơ. Rồi sau đó tôi ngã sấp mặt ngay trước khi súng nổ. Tôi không hiểu tại sao nữa.”

Đầu óc Web bỗng trở nên rỗng tuếch và tất cả đột nhiên ùa trở lại như một chiếc ti vi bị mất tín hiệu sau tiếng sét nổ sát bên cạnh. “Tất cả chợt qua đi trong giây lát, Perce. Tất cả chỉ mất có một giây. Thật không đúng lúc chút nào.” Anh chăm chú nhìn Bates để xem anh ta phản ứng ra sao. Đôi mắt nheo lại của anh ta cho Web biết tất cà những gì anh cần biết.

“Mẹ kiếp, không sao. Chính tôi cũng còn không im nữa là” Web cay đắng nói. Bates lặng im, và Web quyết định đi thẳng vào lý do khác khiến anh đến đây. “Lá cờ đâu rồi?” Anh hỏi. Bates tỏ ra ngạc nhiên. “Lá cờ của HRT ấy. Tôi đến để mang nó về Quantico.”

Theo truyền thống, trong mỗi điệp vụ của mình, thành viên cấp cao nhất của đội bao giờ cũng quấn trong người lá cờ HRT. Sau khi nhiệm vụ hoàn thành, lá cờ sẽ được chính người này chuyển về cho người chỉ huy HRT. Và bây giờ thành viên đó chính là Web.

“Theo tôi,” Bates nói.

Một chiếc xe của FBI đỗ ngay cạnh lề đường. Bates mở một cánh cửa sau, chui vào trong và kéo ra một lá cờ được gấp gọn gàng theo kiểu quân sự. Anh ta đưa nó cho Web.

Web chìa hai tay đỡ lấy lá cờ, chăm chú nhìn màu cờ hồi lâu, hình ảnh mỗi người đồng đội lần lượt hiện ra trong tâm trí anh.

“Có vài lỗ thủng trên lá cờ,” Bates nhận xét.

“Chúng tôi ai chẳng có,” Web lạnh lùng nói.

Bình luận