Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Tay súng cuối cùng

Chương 26

Tác giả: David Baldacci

Bates vẫn ngồi trong phòng tác chiến chiến lược khi ông ta bước vào Bates ngẩng đầu lên và phải cố gắng lắm anh mới không để lộ vẻ khó chịu trên mặt mình.

Buck Winters ngồi xuống trước mặt anh. Những nếp gấp trên bộ complet của ông ta trông thẳng tắp, không chê vào đâu được. Đôi giầy bóng lộn sáng như lau như li. Chiếc khăn mùi xoa thò ra trên mép túi cực kỳ lịch sự. Winters là một người có vóc dáng cao lớn, vai rộng và cân đối, khuôn mặt toát lên vẻ thông minh và tự tin, một hình mẫu được thèm khát trong FBI. Có lẽ đó là lý do ông ta có thể thăng tiến xa đến thế.

“Tôi vừa nhìn thấy London ra khỏi tòa nhà.”

“Anh ta đến xem có mệnh lệnh mới nào không ấy mà.”

“Hừm, chắc thế.” Winters đặt tay lên mặt bàn và chăm chú quan sát mọi chuyển động trên mặt Bates. “Việc quái gì mà anh cứ phải quan tâm đến hắn nhiều như thế?”

“Anh ta là một đặc vụ giỏi. Và như ông nói, trước kia tôi từng là người kèm cặp anh ta.”

“Là tôi thì tôi chẳng việc quái gì mà phải khổ công vì hắn đến vậy.”

“Anh ta đã bao lần suýt mất mạng vì nơi này hơn cả ông và tôi rất nhiều đấy.”

“Hắn chỉ là một thằng cục súc. Tất cả bọn HRT đều vậy. Chúng đâu phải là một phần của chúng ta. Bao giờ chúng cũng tự làm theo ý mình và vênh váo như thể chúng là người cao quý hơn vậy. Thực ra chúng chỉ là một lũ to xác lúc nào cũng chăm chăm sờ đến súng đạn.”

“Họ với chúng ta là một, Buck. Họ là một đơn vị đặc nhiệm chuyên giải quyết những việc mà không ai làm được. Vâng, đồng ý là họ cũng hơi kiêu ngạo, nhưng ai mà không thế? Nhưng tất cả chúng ta đều là đặc vụ FBI; tất cả chúng ta đều làm việc vì một mục tiêu chung.”

Winters lắc đầu. “Anh tin vậy thật sao?”

“Vâng, tôi thực sự tin là thế đấy. Nếu không, tôi đã chẳng ở đây.”

“Chúng cũng là nguyên nhân của nhiều thời điểm tồi tệ nhất trong Cục.”

Bates vứt toẹt tập hồ sơ xuống bàn. “Thế thì ông sai hoàn toàn rồi. Chính Cục đã tung họ vào lửa ở giây phút cuối cùng và khi đã có chuyện bung bét, thường là vì những quyết định ngu xuẩn của cấp trên cùng mà bất kỳ ai trực tiếp thi hành lệnh đều có thể thấy ngay là chỉ làm tình hình nghiêm trọng hơn, họ mới là những người phải giơ đầu chịu báng. Thực ra tôi lấy làm ngạc nhiên là tại sao họ chưa đề nghị tách ra khỏi chúng ta thì đúng hơn.”

“Anh chưa bao giờ tuân theo những luật chơi cần thiết, để có thể thăng tiến ở trong này, Perce ạ. Anh bị kẹt dưới bức trần nhà bằng kính, trong trường hợp của anh phải gọi là trần bằng thép mới đúng. Không sao thoát ra được.”

“Hừ, tôi hài lòng với cương vị hiện tại của mình.”

“Thế thì để tôi cho anh một lời khuyên: ở đây mà không lên nữa là anh sẽ bắt đầu rơi.”

“Cám ơn ông vì lời khuyên,” Bates nói cộc lốc.

“Tôi vẫn nhận những báo cáo của anh về cuộc điều tra. Phải nói thật là quá sơ sài đấy.”

“Toàn bộ kết quả điều tra mới chỉ có vậy.”

“Cove, anh ta thế nào rồi? Không thấy anh đả động gì cả.”

“Chẳng có gì mà báo cáo.”

“Tôi tin rằng anh đang làm việc với quan điểm rằng bất kỳ đặc vụ chìm nào của Cục mà không xuất hiện sau một thời gian dài như vậy thì có thể coi là đã chết, hoặc nếu không chết thì anh ta cũng đã phản bội và có lẽ chúng ta nên bắt đầu truy lùng anh ta qua Lệnh Truy nã toàn diện.”

“Cove không phản bội.”

“Vậy là anh đã liên lạc với anh ta? Buồn cười thật, tôi không thấy điều đó trong bản báo cáo của anh.”

“Tôi chỉ cảm thấy như vậy thôi. Nhưng tôi có nhận được thông tin từ Cove.”

“Vậy anh chàng đặc vụ chìm khét tiếng của chúng ta nói gì về vụ xì căng đan này thế?”

“Anh ta cho rằng anh ta bị cài.”

“Chậc chậc, nghe bất ngờ quá!” Winters kéo dài giọng một cách châm biếm.

“Anh ta không muốn vào Cục vì anh ta nghĩ trong Cục có kẻ phản bội.” Bates trừng trừng nhìn vào mặt Winters khi anh nói câu này, mặc dù anh cũng không hiểu tại sao. Có lẽ nào Winters lại là người làm rò rỉ các thông tin mật không nhỉ? “Anh ta biết rõ về những lần rò rỉ thông tin và những điệp vụ thất bại. Anh ta nghĩ những gì đã xảy ra với HRT cũng xuất phát từ việc rò rỉ thông tin như vậy.”

“Giả thuyết thú vị đấy, nhưng tôi nghĩ chắc anh ta cũng chẳng có bằng chứng nào?”

Câu hỏi của ông ta làm Bates thấy hơi ngạc nhiên. “Anh ta không nói gì thêm với tôi cả,” anh trả lời. “Tôi vẫn đang kiểm soát mọi việc, Buck. Tôi biết là ông rất bận rộn nên tôi không muốn làm xáo trộn tầm nhìn xa huyền thoại của ông bằng những chi tiết lặt vặt. Xin hứa với ông là nếu có chuyện gì quan trọng xảy ra, ông sẽ được biết ngay từ đầu. Để ông có thể đối phó với giới truyền thông. Khoản này thì quả là ông tài thật.”

Winters chẳng khó gì mà không nhận ra thái độ mỉa mai của Bates. Nhưng ông ta quyết định phớt lờ, làm như không biết. “Nếu tôi nhớ không lầm, anh và Cove đã từng rất thân thiết. Hồi ở California ấy, đúng không?”

“Chúng tôi có làm việc cùng nhau.”

“Vào khoảng thời gian gia đình anh ta bị giết hại.”

“Đúng vậy.”

“Một thảm họa của Cục.”

“Thật ra tôi nghĩ đó là một thảm họa của gia đình Cove.”

“Tôi đang băn khoăn là tại sao lại có chuyện như thế này. Theo tôi hiểu thì Cove đã phát hiện ra những hoạt động tài chính của một đường dây ma túy trong tòa nhà đó.”

“Và HRT được điều đến để tấn công,” Bates nói. Nhiều khả năng trong đó có những nhân chứng tiềm năng. HRT chuyên về việc đưa những người này ra ngoài an toàn.”

“Anh bạn ạ, họ làm ăn giỏi thật đấy. Đến cái mạng mình mà họ còn không giữ được nữa là.”

“Chẳng qua là họ bị cài.”

“Đồng ý. Nhưng bằng cách nào chứ? Nếu không phải là Cove thì tại sao?”

Bates nhớ lại cuộc liên lạc của anh với Randall Cove tại nghĩa trang. Cove cho rằng có một sự rò rỉ thông tin ngay trong Cục và đó là nguyên nhân của tất cả những điệp vụ thất bại thời gian qua. Bates trầm ngâm nhìn Winters hồi lâu. “Vâng, để thực hiện được một kế hoạch phục kích công phu như thế thì tôi nghĩ chắc chắn kẻ chủ mưu phải có thông tin từ bên trong, ở cấp cao nhất.”

Winters ngồi ngả người ra sau ghế. “Ở cấp cao nhất. Anh đang định nói là ngay bên trong Cục?”

“Bên trong là bên trong.”

“Đó là một lời cáo buộc nghiêm trọng đấy. Bates.”

“Tôi chẳng cáo buộc gì hết. Tôi chỉ nêu ra một khả năng thôi.”

“Mọi chuyện sẽ đơn giản hơn rất nhiều nếu chúng ta tóm được tay đặc vụ chìm đó.”

“Ông chẳng hiểu gì về Randall Cove cả.”

“Thế thì có lẽ anh hiểu hắn ta quá rõ. Rõ đến nỗi, anh chỉ nhìn thấy cây mà không thấy rừng.” Winters nhổm người đứng dậy. “Không có bất ngờ nào đấy nhé. Bates. Đừng để chuyện gì quan trọng diễn ra mà tôi không được thông báo trước đấy. Anh rõ chứ?”

Sau khi Winters đã đi khỏi, Bates lầm bầm, rõ như Waco ấy, Buck.

°

Web đang ngồi trong xe thì Ann Lyle gọi đến.

“Xin lỗi vì đã để cậu chờ lâu, nhưng tôi muốn kiếm cho cậu thứ gì đó thật hữu ích.”

“Được rồi mà. Tôi cũng mới nhận được vài thông tin về Cove từ Cục, việc này cũng đâu thể làm nhanh được.”

“Thế này nhé, tôi tìm được cho cậu một người.”

“Ai? Cove à?”

“Đồng ý là tôi giỏi, nhưng làm gì giỏi đến thế, Web. Tôi vừa tìm ra được một tay trung úy cảnh sát của D.C, từng là đầu mối liên lạc của Cove hồi anh ta mới làm cho WFO lần đầu tiên từ cách đây lâu rồi.”

“Một cảnh sát địa phương làm đầu mối liên lạc cho một đặc vụ chìm của FBI sao? Sao lại có chuyện đó?”

“Chuyện các đặc vụ chọn một cảnh sát nào đó mà họ tin cậy làm người trung gian là thường tình mà, Web. Cove đã làm việc với tay cảnh sát này hồi anh ta mới chuyển về đây. Và tay cảnh sát đó đồng ý nói chuyện với cậu.”

Anh tấp xe vào lề đường, vớ giấy bút và ghi lại cái tên Sonny Venables, một sĩ quan cảnh sát thuộc Quận Một của thủ đô. Ann cũng cho anh số điện thoại của anh ta.

“Ann, còn ai khác biết về Venables không?”

“Sonny không nói gì, nếu có thì tôi nghĩ anh ta đã nói rồi. Anh ta là đầu mối liên lạc không chính thức của Cove khi Cove mới đến D.C. và cũng lâu lắm rồi. Có lẽ nhiều người không biết gì về mối liên hệ này. Mặc dù Sonny Venables có vẻ khá cởi mở.”

“Bà nói như thể bà biết rõ anh ta lắm.”

“Web, cưng à, khi cậu đã sống lâu bằng tuổi tôi, thì chẳng có ai mà cậu không biết đâu. Tôi làm việc rất nhiều với các cảnh sát của D.C.”

“Và tay Venables đó đồng ý nói chuyện với tôi? Tại sao?”

“Anh ta chỉ nói là anh đã nghe nhiều về cậu. Tôi cũng đưa ra lời bảo đảm của mình, tất cả những gì tôi thấy đáng làm.”

“Nhưng chúng ta vẫn chưa biết là anh ta biết những gì?”

“Tôi nghĩ đó là việc cậu phải tìm ra thôi.” Ann tắt máy.

Web gọi theo số đó. Venables không có nhà, vì vậy Web để lại tên và số di động của mình. Hai mươi phút sau Venables gọi lại cho anh và hai người hẹn gặp nhau chiều hôm đó. Web cũng hỏi anh ta một câu hỏi khác và Venables nói để anh ta xem có thể làm gì. Nếu như tay cảnh sát này có thể giúp Web biết về Cove thì anh mới có thể thoát ra khỏi mớ bế tắc này.

Tuy nhiên có điều khiến Web thấy băn khoăn về Bates, cụ thể là việc anh ta chưa bao giờ cho Web biết là Cove đã từng làm việc cho WFO từ trước khi chuyển đến California. Thực ra cũng không quan trọng. Anh ta đã cho Web xem qua hồ sơ của Cove, và Web đã có cơ hội nhận ra thông tin đó. Chỉ có điều anh không có đủ thời gian để nắm toàn bộ tiểu sử của tay đặc vụ chìm này. Nhưng tại sao Bates không nói thẳng với Web?

Venables đã đề nghị Web gặp anh ta vào đầu giờ chiều ở một quán bar gần khu vực anh ta làm việc, một việc rất bình thường. Web biết đó là cách vừa để giải tỏa cơn khát vừa là dịp ngồi nghe ngóng tình hình và thu nhặt những thông tin biết đâu lại có ích cho một vụ án sau này.

Những tay cảnh sát sẽ chẳng làm ăn được gì nên hồn nếu không biết tranh thủ thời gian.

Sonny Venables là một người da trắng, khoảng ngoài bốn mươi và đã làm cảnh sát được gần hai mươi năm, anh ta kể với Web như vậy lúc hai người đang mua bia. Cao khoảng lm90, vóc người chắc nịch, nhìn cũng biết là anh ta tập luyện thường xuyên và hiếm khi chịu để chút mỡ thừa nào tích tụ trên người; có cảm giác là anh ta chỉ cần một tay cũng nhấc bổng một chiếc rơ moóc.

Sonny đội một chiếc mũ lưỡi trai bóng chày có in dòng chữ TẤT CẢ NHỮNG NGƯỜI ĐÁNH CÁ ĐỀU LÊN THIÊN ĐƯỜNG và mặc một chiếc áo khoác da có lông của giải đua xe Bắc Mỹ NASCAR sau lưng. Cái cổ lực lưỡng của anh ta to gần bằng cái đầu phía trên. Giọng nói mang âm sắc giọng mũi rất du dương của người miền Nam, và Web còn để ý thấy đường viền tròn tròn của một hộp thuốc lá nhai hằn trên túi quần bò của anh ta khi cả hai bước đến một chiếc bàn còn trống trong quán. Họ tìm được một góc khá yên tĩnh và ngồi xuống nhâm nhi chai bia của mình.

Venables cho biết anh ta làm ca đêm. Anh ta thích thế, vì ban đêm thú vị hơn; nhưng tôi sẽ nghỉ hưu sớm ngay khi đủ hai mươi năm. Đi chơi và câu cá, uống bia và xem đua xe từ giờ đến hết đời, như hầu hết các cảnh sát chân chính khác.” Anh ta mỉm cười với câu nói đùa của mình và tu một hơi dài từ vại bia Red Dog. Máy hát tự động Eric Clapton đang chơi đi chơi lại bài Layla. Web lặng lẽ nhìn quanh. Có hai gã đang chơi bi-a ở phòng trong, một tập tiền hai mươi đô và vài chai Bud Lights xếp trên rìa bàn. Thỉnh thoảng họ lại liếc ra chỗ Web và Sonny ngồi: nhưng cho dù có nhận ra Web hay Sonny hay không thì họ cũng chẳng biểu lộ thái độ gì.

Venables đang lặng lẽ nhìn Web qua vại bia của mình. Gương mặt của người đàn ông có quá đủ nếp nhăn để đáng được gọi là già dặn và từng trải. Một người từng nếm trải nhiều điều trong cuộc sống, chủ yếu là những điều tồi tệ, Web phỏng đoán, cũng giống anh.

“Lâu nay tôi vẫn tò mò về những tay HRT các anh.”

“Có gì mà tò mò chứ? Chúng tôi cũng là cớm, chỉ có điều là được trang bị thêm ít đồ chơi thôi mà.”

Venables bật cười. “Này, đừng có khiêm tốn thế chứ. Tôi có vài tay bạn cũng là dân FBI từng thử thi vào HRT và lúc quay về trông họ cứ như chó cụp đuôi. Họ nói chẳng thà phải cắn răng chịu đau đẻ với một đoạn gậy trong miệng còn hơn là phải chịu đựng những trò thử thách ấy thêm một lần nào nữa.”

“Từ bức ảnh của Randall Cove mà tôi được xem, có vẻ HRT cũng chỉ là trò trẻ con đối với anh ta thôi.”

Venables chăm chú nhìn vại bia của mình hồi lâu. “Có lẽ anh đang tự hỏi Randy Cove có điểm gì chung với những loại người cục mịch và thô lậu như tôi?”

“Ý nghĩ đó chỉ thoáng hiện ra trong đầu tôi thôi.”

“Chúng tôi lớn lên cùng nhau ở một làng quê nhỏ hẻo lánh của bang Mississipi, nhỏ đến nỗi thực sự là nó chưa bao giờ có một cái tên đầy đủ nữa. Hồi đó chúng tôi suốt ngày chơi thể thao cùng nhau vì thật ra cũng chẳng có gì mà làm cả. Vậy mà làng quê nhỏ bé của chúng tôi đã vô địch bóng bầu dục của bang hai năm liên tiếp. Chúng tôi còn chơi cùng đội hồi học đại học ở Oklahoma nữa.” Venables lắc đầu. “Randy là cầu thủ chạy cánh vĩ đại nhất mà tôi từng biết, và đội Sooners bắt đầu biết đến chiến thắng. Tôi chơi ở vị trí hậu vệ. Cầu thủ xuất sắc nhất ba năm liền, cũng giống như cậu ta. Trận nào tôi cũng là người cản phá và che chắn cho Randy. Tôi lao người ra như một con tàu điên khùng và tận hưởng niềm vui được chơi trên sân từng phút một, mặc dù giờ đây tôi bắt đầu cảm nhận rõ những hậu quả của thời trai trẻ liều lĩnh ấy. Anh hiểu không, anh chỉ cần để cho Cove có một chút khoảng trống là cậu ta vụt biến mất ngay. Lúc tôi đang cố thò đầu ra từ bên dưới một đống cầu thủ đối phương đè bên trên thì cậu ta đã chạy đến khu vực cuối sân rồi, bao giờ cũng cho một hai cầu thủ đối phương hít khói. Năm cuối cùng chúng tôi đã vô địch toàn quốc giải nghiệp dư dành cho các trường đại học. Hồi đó Oklahoma không chơi với chiến thuật chuyền bóng ngược từ phần sân đối phương về như bây giờ. Chúng tôi cứ việc chuyền bóng thẳng cho Randy Cove và để cậu ta muốn làm gì thì làm.”

“Nghe như hai người có một tình bạn rất bền chặt.”

“Quả là thế thật. Tôi chưa bao giờ có đủ tài năng để lên chơi giải chuyên nghiệp, nhưng chắc chắn là Randy thì quá thừa. Tất cả mọi người, tôi thực sự muốn nói là tất cả mọi người, đều muốn có cậu ta.” Venables ngừng lại và trầm tư gõ gõ ngón tay trên mép bàn. Web quyết định chờ anh ta một lúc.

“Tôi đã chơi cùng Cove tại giải hỗn hợp khi cậu ta bị chấn thương đầu gối. Cậu ta vừa khuỵu xuống là chúng tôi đã biết thế là hết. Hồi đó đâu có được như bây giờ. Chỉ việc vào viện, sửa sang, mổ xẻ lại là lại ngon lành, ra sân như chưa hề có chuyện gì xảy ra. Nhưng hồi đó thì sự nghiệp cửa cậu ta coi như chấm dứt. Thế đấy. Vậy mà bóng bầu dục, lạy Chúa, bóng bầu dục là tất cả những gì cậu ta có. Chúng tôi ngồi bệt ngay xuống sân và òa khóc nức nở gần một giờ liền. Thậm chí ngày mẹ tôi chết tôi còn không khóc nữa là. Nhưng tôi yêu Randy. Hồi đó cậu ta là một người tốt.”

“Hồi đó?”

Venables nghịch lọ hạt tiêu rồi ngồi ngả ra sau, hất ngược chiếc mũ lưỡi trai lên trán và Web nhìn thấy một lọn tóc xoăn màu muối tiêu rủ xuống.

“Chắc anh biết chuyện xảy ra với gia đình cậu ta,” Venables nói.

“Tôi có nghe nói. Sao anh không nói cho tôi nghe những gì anh biết?”

“Nói gì bây giờ nữa? Chính FBI đã làm ăn như cứt khiến Randy mất cả vợ lẫn con.”

“Hồi đó anh có gặp anh ta không?”

Trông Venables như thể anh ta chỉ muốn ném thẳng vại bia vào mặt Web. “Chính tôi là người đứng hộ tang bên quan tài. Đã bao giờ anh phải khiêng quan tài một đứa bé bốn tuổi chưa?”

Web lắc đầu.

“Mẹ kiếp, thế thì để tôi nói cho anh biết, đó là điều anh không bao giờ quên noori.”

“Cove đã nói vậy với anh à, về việc đó là lỗi của Cục ấy?”

“Cần gì cậu ta phải nói với tôi. Tôi cũng là cảnh sát mà. Tôi biết thế nào là phải trái chứ. Tôi làm ở D.C. này vì vợ tôi là người ở đây. Randy cũng bắt đầu với FBI chính từ đây. Tôi đoán là anh cũng biết. Randy dùng tôi làm đầu mối liên lạc vì cậu ta biết có thể tin tưởng tôi, đó là điều khá hiếm hoi trong loại công việc của cậu ta.”

“Đó có vẻ là điều hiếm hoi trong nhiều loại công việc nữa.” Hai người đàn ông trao cho nhau cái nhìn đầy thấu hiểu và thiện cảm, bất giác họ cảm thấy gần gũi và tin tưởng nhau hơn chút ít.

“Sau đó Randy chuyển đến California và gia đình cậu ta bị sát hại ở đó.”

“Tôi hiểu là anh ta đã trả thù.”

Venables ném cho Web cái nhìn lạnh lẽo, cái nhìn cho thấy anh ta còn biết nhiều bí mật hơn so với những gì anh ta muốn nói ra. “Là anh thì anh có làm vậy không?”

“Tôi nghĩ là có. Cove chắc chắn là tay sừng sỏ. Dân mafia Nga có phải bọn tay mơ đâu.”

“Anh cứ thử là một người da đen lớn lên ở một xó xỉnh nào đó ở Mississipi xem.” Venables cúi người về phía trước, chống hai khuỷu tay lên mặt bàn. “Tôi đã nghe nói nhiều về anh. Từ báo chí, và cả từ Ann Lyle.” Anh ta ngừng lại và chăm chú đánh giá Web. Lát sau Web mới nhận ra là Venables đang chằm chằm nhìn vào phần mặt bị thương của anh.

“Trong gần hai mươi năm làm cảnh sát, tôi đã phải rút súng ra hơn chục lần gì đó, và nổ súng sáu lần. Bốn lần tôi bắn trượt, hai lần bắn trúng. Tôi chưa bao giờ bị thương khi đang làm nhiệm vụ, thậm chí xước móng tay cũng không nốt, kể ra đó cũng là điều đáng tự hào trong cái thành phố điên rồ của chúng ta vào thời buổi này. Giờ tôi đang phụ trách Quận Một, không được như khu da trắng thượng lưu ở mạn Tây Bắc, nhưng ít ra cũng còn hơn các quận Sáu và Bảy ở Anacostia, nơi mà đội của anh bị phục kích ấy. Và tôi đặc biệt ngưỡng mộ những người đã từng phải đấu tranh với tử thần giữa lằn ranh giới mong manh của sự sống và cái chết. Có vẻ như anh là hình mẫu tiêu biểu của những người như thế.”

“Tôi chưa bao giờ đòi hỏi được như thế.”

“Tôi chỉ muốn nói là tôi tôn trọng anh nếu không tôi đã không ngồi đây nói chuyện với anh làm gì. Nhưng vấn đề là anh sẽ không bao giờ thuyết phục được tôi tin rằng Randy đã làm điều gì đó sai trái. Tôi biết là cái nghề đặc vụ chìm có thể làm con người ta phát điên và Randy cũng chẳng thiếu gì lý do để trách cứ Cục, nhưng chuyện xảy ra với đội của anh chắc chắn không liên quan gì đến Randy, tôi muốn anh hiểu điều đó.”

“Còn tôi muốn anh hiểu là mặc dù anh đang có vẻ rất chân thành và tôi muốn khi có dịp sẽ làm thêm chầu bia nữa với anh, nhưng tôi không thể chỉ nghe anh nói thế mà tin ngay được.”

Venables gật gù thông cảm. “Hừm, tôi nghĩ nếu mà anh tin ngay thì anh đúng là đồ đầu đất.”

“Lẽ ra anh ta đã có thể nghỉ việc sau vụ đó. Tôi đã kiểm tra thông tin này rồi. Cục đề nghị giúp anh ta tìm cuộc sống mới, lương hưu đầy đủ. Theo anh thì tại sao anh ta lại từ chối?”

“Để rồi dành cả bốn mươi năm còn lại trong đời ngồi xén cỏ ngoài vườn của một ngôi nhà vùng ngoại ô tồi tàn nào đó ở miền Trung Tây à? Như thế đâu còn là Randy. Cậu ta còn làm gì được nữa ngoài việc tiếp tục cày ải cho quên đi tất cả? Nghe có vẻ nực cười, nhưng cậu ta rất tự hào về công việc của mình. Cậu ta nghĩ rằng mình đang sống có ích.”

“Tôi cũng vậy. Đó là lý do tại sao tôi ở đây. Tôi sẽ quyết tìm ra sự thật. Nếu Cove là một phần của âm mưu này, tôi sẽ trả thù giống như những gì anh ta từng làm. Tôi không thể hứa với anh là tôi sẽ không trả thù, cho dù anh có là bạn thân của anh ta chăng nữa. Nhưng nếu anh ta hoàn toàn vô can, tôi sẵn sàng là bạn thân nhất của anh ta. Và tin tôi đi, hầu hết mọi người đều muốn có tôi là bạn hơn là làm kẻ thù đấy.”

Venables ngả người ra sau và tỏ vẻ đăm chiêu, cân nhắc. Sau đó dường như anh ta đã quyết định và cúi người về trước, mắt chăm chú quan sát hai tay chơi bi-a vừa quệt phấn lên đầu mũi cơ vừa tu bia và rít thuốc.

Lát sau anh ta bắt đầu nói với giọng rất khẽ khàng. “Tôi hoàn toàn không biết Randy đang ở đâu. Từ khi xảy ra chuyện này tôi không nhận được tin tức gì của cậu ta. Thực ra là trước cả thời điểm đó cơ.”

“Vậy là anh ta không bao giờ nói chuyện với anh về những gì anh ta đang làm à?”

“Anh phải hiểu là hồi đó tôi là cơ sở liên lạc của cậu ta trong lần đầu tiên cậu ta hoạt động ở D.C. Còn trong nhiệm kỳ mới nhất vừa rồi tôi cũng có gặp cậu ta, nhưng nói thật là chỉ gặp gỡ nói chuyện thôi, hoàn toàn không liên quan gì đến công việc cả. Tôi chỉ biết là cậu ta đang làm một vụ gì đó rất lớn, nhưng cậu ta chẳng bao giờ tiết lộ.”

“Vậy là hai người không còn thân thiết nữa à?”

“Vẫn thân chứ, nhưng chỉ trong chừng mực có thể đối với một người như Randy. Sau những gì xảy ra với gia đình cậu ta, tôi không nghĩ Randy có thể thực sự thân thiết với bất kỳ ai khác được nữa. Kể cả đối với thằng bạn cũ Sonny Venables cùng lớn lên ở Mississipi và không biết bao lần tôi đã lấy thân mình làm vật cản đường đối phương cho cậu ta ôm bóng lao về đích.”

“Anh ta có bao giờ nhắc đến một đầu mối liên lạc nào khác mà có thể anh ta đang sử dụng không?

“Không, nếu cậu ta có cần một đầu mối liên lạc nào đó, thì nhất định sẽ là tôi.”

“Lần gần đây nhất anh gặp anh ta là khi nào?”

“Hơn hai tháng trước.”

“Trông anh ta thế nào?”

“Rất kín kẽ, tâm trí lúc nào cũng như ở tận đâu tận đâu ấy. Thực ra trông cậu ta không được ổn cho lắm.”

“Khá lâu rồi không thấy anh ta quay về nhà. Cục đã cử người canh gác ở nhà anh ta mà.”

“Tôi chưa bao giờ biết cậu ta sống ở đâu cả; chúng tôi luôn gặp nhau ở một nơi nào đó hoàn toàn vô hại, để bảo đảm an toàn cho công việc của cậu ta. Thật ra, chúng tôi chỉ nói về những chuyện ngày xưa. Tôi nghĩ có lẽ cậu ta cần người để chia sẻ và tâm sự. Nếu có lúc nào đó cậu ta cần tôi chuyển hay nhắn nhủ gì đó cho người khác thì tôi làm.”

“Anh ta liên lạc với anh như thế nào mỗi khi muốn gặp?”

“Cậu ta không bao giờ gọi về nhà cho tôi. Bao giờ cũng gọi đến đồn cảnh sát của quận. Mỗi lần lại xưng một tên khác nhau. Và mỗi lần chúng tôi gặp nhau cậu ta sẽ cho tôi biết cái tên mới mà cậu ta sẽ dùng trong lần tiếp theo, để tôi biết là cậu ta gọi tới.”

“Và vẫn chưa thấy anh ta gọi sao?” Web chăm chú nhìn Venables. Có vẻ như Venables đang rất thẳng thắn với anh, nhưng chẳng biết thế nào mà dám chắc được.

“Không, không một lời. Tôi bắt đầu thấy lo là có chuyện xảy ra với cậu ta. Trong cái nghề của Randy, mối lo ngại như vậy là hoàn toàn chính đáng.”

Web ngồi ngả ra sau. “Vậy tôi đoán là anh khó giúp được tôi tìm ra anh ta.” Venables uống nốt vại bia của mình. “Chúng ta đi dạo một lát nhé.”

Họ bước ra ngoài và thả bộ dọc một con phố khá vắng người. Chưa đến giờ tan sở nên có lẽ lúc này hầu hết mọi người vẫn đang bận rộn trong phòng làm việc, đếm từng phút cho đến lúc hết giờ, Web nghĩ bụng.

“Trong lần đầu tiên hoạt động cho WFO, Randy có một chỗ mà cậu ta vẫn dùng làm nơi đặt hộp thư trong trường hợp muốn nhắn gì đó cho tôi. Cậu ta cũng cho biết sẽ dùng nơi đó để thay đổi quần áo, như một ngôi nhà bí mật phòng khi cần thiết.”

“Cục có biết nơi đó không?”

“Không. Ngay từ hồi ấy tôi đã không nghĩ là cậu ấy tin tưởng cấp trên của mình ở Cục nhiều đến mức đó. Đó là lý do cậu ấy dùng tôi, tôi đoán vậy.”

“Khôn ngoan lắm. Gần đây anh có đến đó không?”

Venables lắc đầu. “Có lẽ tôi hơi sợ điều gì mà tôi có thể phải chứng kiến ở đó, cũng không rõ là tại sao nữa. Thậm chí tôi còn không biết Randy dùng nơi đó nữa không. Rất có thể nó đã bị phá đi rồi cũng nên, tôi cũng không chắc.”

“Anh cho tôi địa chỉ nơi đó được không?”

“Anh có hút thuốc không?”

“Không.”

“Thế thì giờ anh phải hút đi.” Venables rút trong túi áo khoác ra một bao Winstons và chìa nó cho Web, anh cầm lấy. “Anh nên châm lửa đi, đề phòng có ai đó đang nhìn.” Venables đưa cho anh một bao diêm.

Web châm thuốc, rít một hơi và cố lắm mới không ho sặc sụa, anh thảy bao thuốc vào túi áo.

“Rất cảm ơn anh đã giúp đỡ. Nhưng nếu Cove có liên quan…” Anh bỏ lửng câu nói của mình.

“Nếu Randy mà làm một việc như vậy thật, thì tôi không nghĩ cậu ta còn muốn sống nữa làm gì.”

Khi Sonny Venables bước đi, Web quay lại xe, xé toạc bao Winstons và moi ra mẩu giấy cuộn tròn bên trong. Anh đọc địa chỉ được viết trên đó. Bên trong bao thuốc còn có ba bức ảnh nhỏ được gấp lại. Trước đó, khi gọi điện, Web đã hỏi Venables xem có thằng nhóc da đen sáng màu nào mới được báo cáo là mất tích trong thành phố trong vòng một tháng vừa qua không, và rõ ràng đây là những gì mà tay cảnh sát tìm được; anh kết luận là trông ba thằng nhóc đều nhang nhác Kevin Westhrook. Nét mặt lũ trẻ cho anh thấy một điều là tất cả những kỳ vọng của chúng vào một cuộc sống tử tế đều đã tan thành mây khói. Web lái xe lao vụt đi.

Hai mươi phút sau, Web lái xe chậm lại và đánh mắt ra ngoài cửa sổ xe, bao nhiêu hy vọng trong đầu bỗng nhiên vụt tắt. Lời cảnh báo nhất thời của Venables hóa ra đã ứng nghiệm ngay lập tức. Căn nhà mật ngày nào của Randy Cove giờ chỉ còn là một công trường xây dựng trống hoác; một chiếc cần cẩu cao ngất ngưởng đứng giữa bãi đất, một nhóm công nhân đang lục tục ra về sau một ngày làm việc mà Web nhận thấy chắc là không nhẹ nhàng gì. Căn cứ vào khối lượng công việc đã được thực hiện tại công trường Web kết luận là từ lâu nay Randall Cove đã không còn sử dụng nơi này nữa. Tất cả lại sa vào một ngõ cụt mới. Web vò nát mẩu giấy ghi địa chỉ và ném nó xuống sàn xe. Nhưng anh vẫn còn một đầu mối mới cần xem xét về Randall Cove.

Anh gọi cho Romano từ trong xe. “Cậu có rỗi không, đi lòng vòng với tớ một lát?” Anh qua đón Romano và lái xe về phía nam, thẳng hướng Fredericksburg.

Romano nhìn quanh nội thất chiếc xe. “Xe gì mà như cứt!”

“Xem lại đi, một chiếc Grand Marquis đấy, có lẽ giám đốc Cục cũng chỉ đi xe như thế này là cùng.”

“Thì vẫn là xe như cứt thôi.”

“Thôi lần sau tớ sẽ cố kiếm cái nào khá hơn cho cậu vậy.” Web vừa nói vừa liếc nhìn Romano và tự hỏi Angie đã nói những gì về chồng mìnhvới bác sĩ tâm thần. Có lẽ là với một người chồng như Romano, thì cô sẽ có quá nhiều điều để mà giãi bày với chuyên gia sức khỏe tâm thần của mình.

“Dạo này ở HRT thế nào rồi?”

“Vẫn thế, vẫn thế thôi. Chẳng có vụ việc gì cần đến bọn này cả. Toàn tập luyện. Tôi chán ngấy cuộc sống này rồi, mẹ kiếp.”

“Cứ bình tĩnh, Paulie, cậu sẽ sớm được dùng đến những khẩu súng của mình thôi.”

“Có lẽ tôi phải xin gia nhập Binh đoàn Lê dương Viễn chinh Pháp hay cái gì đó đại loại mới phải.”

“Hồi trước sao không thấy cậu kêu ca gì.”

“Mọi người bàn tán nhiều về anh đấy, Web.”

Web vẫn chờ đợi sự thay đổi chủ đề trò chuyện này từ đầu, nhưng khi nó đến anh vẫn hơi bất ngờ.

“Vậy sao? Mọi người nói gì?”

“Cả tốt lẫn xấu, bằng nhau.”

“Thế là được rồi, tớ tưởng tớ phải tai tiếng hơn thế chứ.”

“Không đến mức đó. Không ai nghĩ anh là kẻ hèn nhát, Web. Bao năm qua anh đã làm quá nhiều chuyện rồ dại và liều lĩnh. Có lẽ cũng rồ dại và liều lĩnh như tôi.”

“Nhưng…?”

“Nhưng một số người cho rằng nếu anh đã run tay một lần, anh sẽ còn run tay lần nữa. Tất nhiên chuyện xảy ra với anh cũng không thể thay đổi được gì chuyện xảy ra với đội Charlie, nhưng lần khác thì rất có thể.”

Web nhìn chăm chăm về phía trước. “Tớ nghĩ chắc không có cách nào để phủ nhận lập luận đó được. Mà có khi tớ mới là người phải gia nhập Binh đoàn Lê dương Viễn chinh Pháp. Cậu có mang súng không đấy?”

“Có chính trị gia nào không nói dối không?” 1.

Randall Cove sống ở vùng ngoại ô của Fredericksburg, Virginia, cách Washington D.C và cũng là nơi Cove hoạt động gần 50 dặm, có nghĩa là gấp đôi quy tắc hai mươi lăm dặm của Ann Lyle về khoảng cách tối thiểu giữa địa bàn hoạt động của một đặc vụ ngầm và nơi họ sống. Địa chỉ nhà Cove là một trong những thông tin mà Web đã đọc lén được từ tập hồ sơ của Bates.

Bốn mươi phút sau khi thoát khỏi bầu không khí ngột ngạt của thành phố giờ cao điểm, hai người lái xe chậm lại khi đến con phố ngoại ô yên tĩnh mà Randall Cove sống. Đó là một dãy nhà xây đồng loạt, giống nhau như đúc phần lớn là có biển cho thuê gắn phía trước. Chẳng có bà mẹ hay đứa trẻ nào đang chơi ngoài vườn, mặc dù hôm nay là một ngày thời tiết rất đẹp. Vài chiếc xe đậu thưa thớt trên đường phố. Cả khu này trông như một con phố bỏ hoang, ít nhất là cho đến khi những người đi làm ở D.C và Virginia rồng rắn kéo nhau về. Nhìn qua cũng biết là đây là khu dân cư dành cho những người làm xa nhà, chủ yếu là những người sống độc thân hoặc những cặp vợ chồng chưa con cái chịu sống ở đây đến khi có thêm thu nhập hoặc có thêm thành viên mới trong gia đình là họ sẽ chuyển đi ngay. Anh có thể hiểu tại sao Cove lại chọn sống ở một nơi như thế này. Không có những người hàng xóm tọc mạch, mọi người sống khép kín và lúc anh ta ở nhà thì hầu hết những người xung quanh đều đã đi làm. Web biết là phần lớn các đặc vụ chìm hoạt động trong mảng ma túy đều đi săn vào ban đêm.

Có một chiếc Bucar mang biển số công vụ đậu trước cửa ngôi nhà.

“Bọn trông trẻ của FBI,” Romano nhận xét. Web gật đầu và phân vân không biết phải xoay sở thế nào đây. Anh lái xe đến đỗ sát chiếc Bucar, rồi cùng với Romano bước xuống.

Tay đặc vụ trong xe hạ kính cửa sổ xuống, liếc nhìn phù hiệu FBI của Web và Romano rồi lại quay ra nhìn Web.

“Anh nổi tiếng lắm rồi, không cần phải trình phù hiệu làm gì,” người đặc vụ nói, Web không biết anh ta. Đó là một thanh niên trẻ măng, tràn đầy sức sống và triển vọng, Web cũng nhận thấy là ngay lúc này trông anh ta có vẻ chán đời khi cứ phải ngồi lý ở đây theo dõi ngôi nhà mà chẳng ai biết Randall Cove có bao giờ thèm quay về hay không. Anh chàng bước xuống xe và bắt tay hai người.

“Chris Miller, đặc vụ thuộc Văn phòng Địa bàn Richmond.” Anh ta chìa tấm phù hiệu FBI vừa rút từ túi áo ngực bên phải và giơ thẳng ra trước một cách rất ấn tượng, đúng như những gì được đào tạo trong Học viện FBI. Một khi Cục rỗi việc, họ sẽ dành thời gian bắt các nhân viên của mình phải thống nhất và đồng bộ từ những chi tiết nhỏ nhất.

Không cần nhìn Web cũng biết là Miller có thêm một lớp lót trong áo khoác để khẩu súng mà anh ta mang trong nách áo sẽ không hằn rõ. Anh cũng biết là khi anh tấp xe lại phía sau Miller và bước về phía chiếc xe của anh ta, Miller đã chăm chú theo dõi trên gương chiếu hậu và khóa chặt vào đôi mắt của Web, vì ý định của một người bao giờ cũng thể hiện rõ trên đôi mắt của anh ta.

Họ bắt tay nhau, Web liếc nhìn ngôi nhà đóng cửa im ỉm trước mặt mình. “Các cậu canh gác ờ đây 24/24 à?”

“Cứ tám tiếng một, tám tiếng một,” Miller thốt lên mệt mỏi. Anh ta xem đồng hồ. “Tôi còn ba tiếng nữa mới hết ca.”

Web tỳ người lên chiếc xe. “Chắc là chán mớ đời hả?”

“Nếu không tính trận hỗn chiến của lũ mèo hoang mà tôi được xem cách đây khoảng hai tiếng thì đúng là chán thật.” Nói đến đây anh ta ngừng lại và chăm chú nhìn Web rồi lâu, rồi buột miệng, “Các anh biết không, nhiều lúc tôi cũng nghĩ đến việc thử đăng ký vào HRT xem sao.”

“À lúc nào chúng tôi cũng cần thêm người.” Thực ra là sáu người, Web nghĩ, để tổ chức lại đội Charlie.

“Tôi nghe nói quá trình tuyển chọn rất khắc nghiệt.”

Romano khịt mũi. “Cứ lấy tất cả những gì cậu nghe thấy rồi nhân lên với mười, coi như là gần sát với thực tế.”

Nhìn vẻ mặt nghi ngờ của Miller, Web có thể thấy là anh chàng không tin lắm vào những gì Romano vừa nói. Nhưng dù sao cậu ta cũng còn trẻ và quá tự tin vào khả năng của mình, những người trẻ tuổi bao giờ cũng vậy.

“Các anh có tham gia vụ Waco không?” Miller hỏi. Web và Romano gật đầu. “Các anh có hạ được thằng nào đó không vậy?”

“Thực ra tôi vẫn cố trục xuất nó ra khỏi tiềm thức của mình,” Web nói. Claire Danels chắc phải tự hào lắm đây.

“Tôi có thể hiểu,” Miller nói với một vẻ hoài nghi khiến Web dám chắc là thật ra chàng đặc vụ trẻ này không hiểu ý anh.

“Cậu vào Cục được bao lâu rồi?” Romano hỏi.

“Gần hai năm.”

“Hừm, khi nào đủ ba năm công tác thì cậu có thể đăng ký tham gia HRT. Có gì cần cứ hỏi tôi. Nếu cậu thực nghiêm túc về vụ HRT, tôi có thể giúp cậu ít nhiều.” Romano chìa cho anh ta tấm danh thiếp của mình.

Trong lúc Miller nhét tấm danh thiếp vào túi áo, Romano và Web kín đáo trao cho nhau những cái nhìn thích thú.

“Chà, sẽ rất tuyệt cho mà xem,” Miller háo hức nói. “Thấy bảo là ở chỗ các anh có nhiều loại hàng khủng lắm.”

Web thừa hiểu, đối với nhiều người, động cơ đầu tiên khi vào HRT chính là các loại súng. Anh biết nhiều người tham gia FBI chỉ vì cơ hội được mang và sử dụng những loại vũ khí tối tân nhất. “Đúng thế thật. Và chúng tôi sẽ cho cậu thấy một điều là bao giờ cũng vậy, không phải dùng đến chúng là tốt nhất.”

“Đúng rồi.” Miller tỏ vẻ thất vọng, nhưng Web biết anh ta sẽ vượt qua điều đó.

Ba người đều im lặng một cách gượng gạo, cuối cùng Miller lên tiếng, “Vậy tôi có thể giúp gì cho các anh đây?’ “Chúng tôi đến đây vì tôi muốn nhìn qua chỗ này một chút. Anh có biết gì về anh ta không?”

“Cũng không biết nhiều lắm. Tôi chỉ biết là hình như anh ta có dính dáng đến những gì xảy ra với các anh. Tôi muốn nói là nhiều khi thật khó hiểu tại sao con người ta lại có thể quay lưng lại như thế, với chính đồng đội của mình.”

“Ừ, đúng là khó hiểu thật.” Web nhìn quanh dãy nhà. Tất cả đều quay lưng vào khu rừng. “Hy vọng là các cậu có ai đó bao bọc phía sau.”

Miller cười ngoác miệng. “Gì đó thì đúng hơn. Chó nghiệp vụ được thả đầy ở sân sau. Xung quanh được rào kín. Kẻ nào tìm cách đột nhập theo lối đó thì hắn sẽ phải ngạc nhiên cho mà xem. Tôi đoán là làm vậy rẻ hơn nhiều so với bố trí hai đặc vụ.

“Tôi cũng đoán vậy.” Web vừa nói vừa nhìn đồng hồ. “Sắp tới giờ ăn tối rồi. Cậu ăn gì chưa?”

Miller lắc đầu. “Tôi mang theo ít bánh quy và vài thứ linh tinh, một chai nước. Dùng hết sạch rồi. Và như tôi nói, tôi vẫn còn ba tiếng nữa mới thoát nợ. Điều tệ nhất là không có chỗ mà đi đái nữa.”

“Đừng phàn nàn chuyện đó với tôi. Đã vài lần tôi phải làm nhiệm vụ giám sát mục tiêu ở vùng Trung Tây. Phải theo dõi những trang trại rộng hàng ngàn mẫu Anh bị nghi là các cơ sở phân phối ma túy, hoặc ăn chực nằm chờ ở những bãi đỗ xe ngoài trời rộng mênh mông, tìm kiếm mấy thằng vô lại chuyên cướp ngân hàng và giết người bằng những khẩu súng săn cưa nòng. Những lúc như vậy mà buồn thì hoặc là cố nhịn, hoặc là tiểu vào chai, không thì cứ đứng ngay giữa cánh đồng mà tự biên tự diễn thôi.”

“Ừ, Romano nói chêm vào. “Hồi tôi còn ở trong Delta, bọn tôi còn phải ngồi thành hàng mà đi ị ấy chứ, bất kể anh đang ở chỗ khốn kiếp nào. Mẹ kiếp, mà có phải ngồi trước mặt ai anh cũng có thể làm được chuyện đó đâu, bao giờ cũng phải là những tay chiến hữu thân thiết cả. Đã có lần tôi phải hạ một thằng đúng lúc tôi đang một tay xách quần. Mẹ kiếp, lúc đó mới thật là dở khóc dở cười.”

Nhìn Miller thì có thể biết là anh ta chưa bao giờ phải nếm trải những hoàn cảnh trớ trêu đó. Web để ý là anh chàng diện rất bảnh chọe, và hiển nhiên việc phải đi tiểu vào chai nước hoặc phải giải quyết các nhu cầu đó trước mặt người khác không hề có trong hình dung của anh ta về hình mẫu của một đặc vụ.

“Có một quán ăn nhanh Denny ở phía đầu đường ấy. Cậu đi mà ăn tối đi bọn này sẽ trông cho một lúc đến khi cậu quay lại.”

Miller tỏ vẻ băn khoăn khi phải rời bỏ vị trí canh gác.

“Không phải ngày nào cũng có những lời đề nghị thế này đâu đấy, Chris.” Web khẽ phanh vạt áo khoác qua một bên để anh ta thấy là anh cũng mang súng. “Và tôi cũng hạ vài thằng ở Waco. Đi mà ăn tối cho thoải mái vào.”

“Các anh có chắc là mọi việc sẽ ổn chứ?”

Romano đáp lại bằng cái giọng hăm dọa nhất của anh ta. “Nếu có kẻ nào đó không mời mà đến, chúng sẽ phải bước qua xác bọn này.”

Chỉ cần nghe nói vậy, Miller nhanh chóng chui vào xe và lái vọt đi.

Web chờ đến khi anh chàng đi khuất hẳn mới bước tới thùng xe của mình, lấy ra một chiếc đèn pin và một thiết bị nhỏ, quan sát xung quanh và cùng Romano bước tới trước cửa nhà Cove.

“Mẹ kiếp, thằng ngốc đó mà vào HRT thì không trụ quá hai phút,” Romano nói.

“Ai biết được, Paulie. Cậu còn qua được cơ mà?”

“Cậu định đột nhập vào đây thật à?”

“Ừ, thật chứ. Nếu cậu thấy ngại, cứ ra ngoài xe chờ tớ vậy.”

“Chẳng có nhiều thứ trên đời khiến tớ ngại đâu.”

Chỉ trong thoáng chốc là ổ khóa cửa đơn giản đã bị phá tung bằng khẩu súng phá khóa mà Web mang theo, vài giây sau anh và Romano đã ở trong nhà. Web đóng cửa lại và bật đèn pin. Anh thấy có một thiết bị báo động gắn ở cửa trước, nhưng không còn hoạt động. Hơn nữa chắc cũng chỉ có một mình Cove là biết mã điều khiển thiết bị này. Họ bước qua gian sảnh ngắn và vào phòng khách. Web rọi đèn vào mọi ngóc ngách, anh và Romano đều đặt sẵn tay trên báng súng. Ngôi nhà được bài trí rất giản dị. Web nghĩ có lẽ bình thường Cove cũng chẳng mấy khi về đây. Họ xem lướt qua tầng dưới nhưng không thấy có gì đáng chú ý, điều đó không làm Web ngạc nhiên. Cove là một con sói già, và sói già thì chẳng bao giờ để lại dấu vết của mình ở khắp mọi nơi cho người ta lần ra một cách dễ dàng. Tầng hầm vẫn còn xây dang dở, Romano và Web nhanh chóng kiểm tra vài chiếc hộp vứt chỏng chơ dưới đó. Thứ duy nhất khiến Web tần ngần xem qua một lát là bức ảnh lồng trong khung kính của Cove, vợ anh ta và lũ trẻ. Web chiếu đèn pin hơi lệch đi khỏi bức ảnh để mặt kính không phản xạ ánh sáng. Trong ảnh Cove mặc complet, không có những lọn tóc tết như anh vẫn thấy, nét mặt đẹp trai và tự tin. Nụ cười của anh ta thật dễ lây. Chỉ nhìn bức ảnh mà bất giác Web cũng nhận ra là anh đang mỉm cười. Một tay Cove ôm choàng vợ, tay kia ôm ghì cả hai đứa con.

Vợ anh ta là một phụ nữ vô cùng xinh đẹp, với mái tóc dài ngang vai, nụ cười rạng rỡ và đôi mắt long lanh có thể khiến bất kỳ người đàn ông nào cũng phải run rẩy. Cả hai đứa con đều giống mẹ nhiều hơn. Chắc chắn là khi lớn lên chúng cũng sẽ là những thanh niên rất đẹp, khi mà cha mẹ chúng đang nếm trải những năm tháng tuổi già bên nhau. Cuộc sống lẽ ra phải diễn ra theo đúng lộ trình như vậy, nhưng thực tế thì lại hoàn toàn khác, ít nhất thì đối với những người làm cái nghề bạc bẽo như Web và Cove. Bức ảnh đã làm toát lên được một Randall Cove hoàn toàn khác, một Randall Cove trên cương vị người chồng và người cha. Web chợt hình dung ra hình ảnh chàng cựu tiền đạo của giải All-America đang ném bóng cho con trai mình trong sân sau nhà; biết đâu thằng bé cũng được thừa hưởng những tố chất thể thao của cha mình. Thậm chí có khi nó còn phát triển được một sự nghiệp thi đấu chuyên nghiệp mà cha nó đã không có cơ hội thực hiện. Trong một bộ phim của Hollywood thì điều đó có thể xảy ra, nhưng hiếm khi trở thành sự thật trong cuộc sống trái ngang này.

“Một gia đình hạnh phúc,” Romano nhận xét.

“Hết rồi.” Web cũng chẳng buồn giải thích thêm.

Anh cất tấm hình vào trong hộp và hai người lại lên tầng. Khi ánh đèn pin của anh lia qua gần cửa kéo phía sau, có gì đó lao rầm vào tấm kính ngoài cửa. Cùng một lúc, Web và Romano rút phắt súng ra khỏi bao cho đến khi họ nghe tiếng sủa dữ dội ngoài cửa và nhận ra đó là con chó canh gác đang làm nhiệm vụ.

Hừm, ít nhất thì một con chó sẽ không bao giờ phản bội bạn; có lẽ đó là lý do tại sao chúng được coi là người bạn tốt nhất của con người, Web tự nhủ. Những con chó bao giờ cũng mang bí mật của chủ nó cho đến tận lúc chết.

Họ vội vã chạy lên tầng trên, hy vọng sẽ xong sớm trước khi Miller quay lại. Web không thích phải lừa một đồng nghiệp của mình như thế này, nhưng anh lại càng không muốn bị bắt quả tang đang lục soát trái phép nhà của một nghi phạm chính. Bates nhất định sẽ không để yên vụ này, và có lẽ Web cũng không thể trách gì được anh ta. Trên gác có hai phòng chung nhau một phòng tắm ở giữa. Căn phòng ở phía trước trông thẳng xuống phố là phòng ngủ của Cove. Chăn gối được xếp đặt gọn gàng, trong tủ đầu giường vẫn còn vài bộ quần áo. Web lấy ra một chiếc áo sơ mi và thử khoác lên người. Tay áo rộng đến nỗi ví thử Web có xỏ chân vào có lẽ cũng vừa. Nếu phải ra sân Web không hề muốn làm nhiệm vụ cản phá chàng tiền đạo này, có lẽ phải đứng chắn trước một chiếc xe tải nhẹ còn dễ dàng hơn.

Căn phòng ở phía sau ngôi nhà trống trơn. Theo thiết kế nó cũng là một phòng ngủ, nhưng có lẽ chưa bao giờ được sử dụng cho mục đích đó. Mặt trong của chiếc tủ nhỏ trong phòng không hề có vết xước nào cho thấy từng có những chiếc mắc áo trên đó, mặt thảm cũng không có những vết hằn của đồ đạc từng được kê xếp trong phòng. Web và Romano đang định đi xuống thì Web nhận ra điều gì đó. Anh nhìn kỹ cửa sổ của căn phòng phía sau này và đi qua phòng tắm nối liền để trở ra phòng ngủ phía trước và quan sát cửa sổ. Trên cửa sổ có gắn mành mành xếp bằng những lá nhôm mini để bảo đảm sự kín đáo; rất hợp lý, vì phòng này trông ra phố. Anh quay lại qua phòng tắm để vào phòng kia. Trên những cửa sổ của phòng này cũng có mành, nhưng Web nhận thấy rằng đó không phải là những tấm mành mành mini; chúng chỉ là những tấm mành liền mảnh kiểu cổ cuộn lên trên.

Căn phòng phía sau trông ra rừng, nên sự kín đáo có lẽ không hẳn là vấn đề cần tính đến. Web nhìn qua cửa sổ và quan sát hướng mặt trời đang lặn. Phòng ngủ phía sau này quay về hướng bắc, do đó nó sẽ không phải hứng ánh nắng buổi chiều rọi vào. Vậy lắp mành che làm gì nhỉ? Hơn nữa phòng này cũng chẳng có ai dùng, mành để làm gì đây? Và nếu như có người thích trang trí cửa sổ như vậy thì tại sao mỗi chỗ lại một kiểu mành mành che khác nhau như thế? Ít ra thì với những tấm mành xếp người ta còn có thể để chút ít ánh sáng lọt vào phòng mà vẫn đảm bảo được sự riêng tư, kín đáo. Nhưng với mành liền mảnh thì hoặc là sáng hẳn hoặc là tối hẳn, và với điều kiện ánh sáng ít ỏi hiện có cùng với việc không có đèn trần, lúc nào trông căn phòng cũng tối om om. Có gì đó thật khó hiểu, nhưng cũng có thể Cove đã thừa hưởng cách bài trí này từ người chủ cũ và cũng chẳng thèm bận tâm thay đổi.

“Điều gì khiến cậu cảnh giác thế?” Romano hỏi.

“Cách lựa chọn mành che cửa của thằng cha này.”

“Cậu quan tâm đến cái trò đàn bà này từ bao giờ vậy?”

Web phớt lờ Romano và bước lại cửa sổ. Tấm mành cửa đã được cuốn hẳn lên. Web túm sợi dây và kéo mạnh. Tấm mành tuột xuống không có gì khác thường. Anh bước sang cửa sổ khác và cũng làm như vậy. Dây thừng bị tắc, và tấm mành không tuột xuống. Trong khoảnh khắc Web đã định bỏ cuộc. Nhưng nghĩ thế nào anh lại chiếu đèn pin lên phía trên và xem xét cơ chế tuột xuống của bức mành và phát hiện ra là cái móc cài phía trên đã bị uốn cong khiến cho sợi dây sẽ không suy xuyển gì khi bị kéo. Anh bẻ lại cái móc vào vị trí cũ và kéo dây. Tấm mành tuột xuống, và Romano há hốc mồm khi nhìn thấy chiếc phong bì bị giấu kín trong tấm mành cuốn tròn rơi thẳng xuống tay Web.

Romano tròn mắt nhìn Web. “Mẹ kiếp, cậu thánh thật.”

“Đi thôi, Paulie.” Web kéo tấm rèm lên trên như cũ và hai người vội rảo bước xuống cầu thang. Romano kiểm tra khắp xung quanh để bảo đảm là phía trước nhà không có ai trước khi hai người lẻn ra. Web đóng lại cửa trước sau lưng anh.

Web và Romano trèo vào xe. Web bật đèn trên nóc xe lên và ổn định chỗ ngồi, bắt đầu kiểm tra lại những gì hai người vừa tìm thấy.

Anh mở phong bì và rút ra một tập những bài báo được cắt rời đã vàng ệch. Đó là tập hợp những bài báo trên tờ Los Angeles Time liên quan đến cái chết của gia đình một đặc vụ chìm dưới bàn tay của bọn mafia Nga. Vị quan chức thay mặt Cục đã cực lực lên án hành động dã man của bọn tội phạm và thề rằng sẽ đưa chúng ra trước công lý. Danh tính của vị quan chức này được xác định là một người có quan hệ chặt chẽ tới cuộc điều tra. Thực ra ông ta cũng chính là người chỉ đạo hoạt động của đặc vụ chìm. Danh tính của đặc vụ chìm này không được công bố mặc dù tên tuổi của những thành viên trong gia đình của anh ta bị sát hại đều đã được công khai trên báo chí. Web chỉ có thể lắc đầu khi đọc tên của vị quan chức này.

Percy Bates.

Vài phút sau Miller lái xe quay về. Anh chàng xoa xoa bụng vẻ thỏa mãn. “Cám ơn các anh đã giúp đỡ.”

“Có gì đâu,” Romano nói. “Đằng nào chúng tôi cũng ở đây rồi, giúp cậu một chút có là gì đâu.”

“Trong lúc tôi đi vắng, ở đây có chuyện gì không?”

“Không, tất cả vẫn ổn.” “Này, khoảng hai tiếng nữa là tôi hết ca trực. Các anh có thích đi làm vại bia không?”

“Chúng tôi…” Web vụt liếc mắt qua phía sau Miller vì ánh nắng mặt trời đang tắt dần vừa làm lóe lên vật gì đó lấp lánh từ xa.

“Web, cẩn thận,” Romano hét lên, vì rõ ràng là anh ta cũng đã nhìn thấy vật đó.

Web chồm người về trước mặt Miller, túm lấy cà vạt của chàng trai để kéo anh ta ngã nhào xuống. Nhưng phát đạn đã găm thẳng vào giữa lưng Miller và xuyên qua ngực anh ta, rít qua ngay trước mặt Web và bắn vỡ tung tấm kính trước của xe. Romano đã kịp lao ra khỏi xe và nấp sau một chiếc bánh xe. Anh ta chĩa khẩu súng lên qua nắp capô, nhưng chưa bắn.

“Web, ra khỏi xe ngay.” Trong một khoảnh khắc ngắn ngủi Web vẫn nắm chặt lấy cà vạt của Miller ngay cả khi chàng đặc vụ trẻ đổ dần xuống bên cạnh cửa xe. Điều cuối cùng Web nhìn thấy là đôi mắt của người đã chết trừng trừng nhìn anh, rồi Miller ngã lăn xuống đất.

“Web, ra khỏi xe ngay, không chính tay tôi sẽ bắn cậu đấy.”

Web thụp xuống đúng lúc một phát đạn khác bắn vỡ nát tấm kính phía sau của chiếc Bucar. Web trườn ra khỏi xe và nấp vào phía sau một bánh xe. Tại Học viện, người ta vẫn dạy bạn rằng nơi bạn cần chiếm lĩnh khi bị tấn công chính là vị trí sau bánh xe vì hiếm có loại vũ khí nào có thể xuyên thủng ngần ấy lớp kim loại.

“Cậu có thấy gì không?” Romano hỏi.

“Chỉ thấy vệt phản quang đầu tiên thôi. Từ kính ngắm phát ra. Từ một vị trí ở sâu trong rừng, cách khoảng 900m, giữa hai khối nhà. Miller chết rồi.”

“Chó chết thật. Tớ đoán không nhầm thì đó là một khẩu bắn tỉa gắn ống ngắm Litton cỡ 0.308 đầu bọc thép.”

“Tuyệt lắm, đúng loại chúng ta vẫn dùng nhé,” Web trả lời.

“Cách duy nhất là phải cúi đầu xuống cho thấp thôi.”

“Ồ vâng, cám ơn cậu đã nhắc, Web. Chứ không tôi đang sắp nhảy dựng lên mà khóc gọi mẹ đây này.”

“Chúng ta không thể bắn trả được, mục tiêu nằm quá xa, ngoài tầm bắn của súng ngắn.”

“Tại sao cậu không nói điều gì mà tôi chưa biết ấy? Trong thùng xe của cậu có hàng gì khủng một chút không?”

“Nếu mà là xe tôi thì còn nói làm gì.” Một phát đạn khác bắn trúng chiếc xe và hai người lại hụp đầu xuống.

Thêm phát nữa bắn tới ngay lập tức và bánh xe trước bên trái xẹp xuống. Phát tiếp sau đó thì khói từ bộ tản nhiệt bắt đầu bốc lên.

“Này, cậu có nghĩ là phải có ai đó đang gọi cho cảnh sát rồi chứ nhỉ?” Romano phàn nàn. “Mẹ kiếp, chẳng lẽ ngày nào ở vùng ngoại ô cũng có bọn bắn tỉa thế này à?”

“Điện thoại của tớ ở trong xe.”

“Mẹ kiếp, thế thì đừng có liều. Thằng ngoài kia có vẻ là dân chuyên nghiệp đấy.”

Họ chờ thêm năm phút nữa, không còn phát đạn nào tiếp theo, sau đó tiếng còi xe cảnh sát bắt đầu vẳng đến từ phía xa. Web khẽ hé đầu lên khỏi mép thân xe và nhìn qua cửa kính. Anh không nhìn thấy vệt phản quang nào trong rừng nữa.

Cuối cùng thì cảnh sát cũng xuất hiện, Web và Romano chìa phù hiệu của mình ra và ra hiệu cho các nhân viên cảnh sát nằm xuống. Sau khoảng năm phút nữa, Web trườn ra chỗ chiếc xe tuần tra và giải thích tình hình. Không còn phát đạn nào bắn ra và rồi có lẽ là toàn bộ lực lượng cảnh sát trong hạt đều có mặt, với cả gần chục cảnh sát tuần tra của bang.

Họ lùng sục khắp khu rừng nhưng không phát hiện được bóng người nào mặc dù con đường mòn dẫn ra đường chính từ phía bên kia lô đất nhà Cove vẫn còn nguyên vết bánh xe mới tinh. Họ còn tìm thấy vài vỏ đạn súng trường vung vãi trên mặt đất. Romano đã nói đúng: đạn cỡ 0.308 đầu bọc thép.

Chris Miller được chính thức xác nhận là đã chết, chiếc xe cấp cứu được gọi tới và đưa xác anh ta đi. Web chợt nhận ra chiếc nhẫn cưới trên tay chàng trai đúng lúc các nhân viên y tế kéo khóa để đóng chiếc túi xác lại. Vậy là tối nay bà Miller sẽ phải nhận chuyến viếng thăm khủng khiếp của Cục. Anh chán nản lắc đầu và quay sang nhìn Romano.

“Tớ thực sự chán ngấy cuộc sống này lắm rồi.

Bates vẫn ngồi trong phòng tác chiến chiến lược khi ông ta bước vào Bates ngẩng đầu lên và phải cố gắng lắm anh mới không để lộ vẻ khó chịu trên mặt mình.

Buck Winters ngồi xuống trước mặt anh. Những nếp gấp trên bộ complet của ông ta trông thẳng tắp, không chê vào đâu được. Đôi giầy bóng lộn sáng như lau như li. Chiếc khăn mùi xoa thò ra trên mép túi cực kỳ lịch sự. Winters là một người có vóc dáng cao lớn, vai rộng và cân đối, khuôn mặt toát lên vẻ thông minh và tự tin, một hình mẫu được thèm khát trong FBI. Có lẽ đó là lý do ông ta có thể thăng tiến xa đến thế.

“Tôi vừa nhìn thấy London ra khỏi tòa nhà.”

“Anh ta đến xem có mệnh lệnh mới nào không ấy mà.”

“Hừm, chắc thế.” Winters đặt tay lên mặt bàn và chăm chú quan sát mọi chuyển động trên mặt Bates. “Việc quái gì mà anh cứ phải quan tâm đến hắn nhiều như thế?”

“Anh ta là một đặc vụ giỏi. Và như ông nói, trước kia tôi từng là người kèm cặp anh ta.”

“Là tôi thì tôi chẳng việc quái gì mà phải khổ công vì hắn đến vậy.”

“Anh ta đã bao lần suýt mất mạng vì nơi này hơn cả ông và tôi rất nhiều đấy.”

“Hắn chỉ là một thằng cục súc. Tất cả bọn HRT đều vậy. Chúng đâu phải là một phần của chúng ta. Bao giờ chúng cũng tự làm theo ý mình và vênh váo như thể chúng là người cao quý hơn vậy. Thực ra chúng chỉ là một lũ to xác lúc nào cũng chăm chăm sờ đến súng đạn.”

“Họ với chúng ta là một, Buck. Họ là một đơn vị đặc nhiệm chuyên giải quyết những việc mà không ai làm được. Vâng, đồng ý là họ cũng hơi kiêu ngạo, nhưng ai mà không thế? Nhưng tất cả chúng ta đều là đặc vụ FBI; tất cả chúng ta đều làm việc vì một mục tiêu chung.”

Winters lắc đầu. “Anh tin vậy thật sao?”

“Vâng, tôi thực sự tin là thế đấy. Nếu không, tôi đã chẳng ở đây.”

“Chúng cũng là nguyên nhân của nhiều thời điểm tồi tệ nhất trong Cục.”

Bates vứt toẹt tập hồ sơ xuống bàn. “Thế thì ông sai hoàn toàn rồi. Chính Cục đã tung họ vào lửa ở giây phút cuối cùng và khi đã có chuyện bung bét, thường là vì những quyết định ngu xuẩn của cấp trên cùng mà bất kỳ ai trực tiếp thi hành lệnh đều có thể thấy ngay là chỉ làm tình hình nghiêm trọng hơn, họ mới là những người phải giơ đầu chịu báng. Thực ra tôi lấy làm ngạc nhiên là tại sao họ chưa đề nghị tách ra khỏi chúng ta thì đúng hơn.”

“Anh chưa bao giờ tuân theo những luật chơi cần thiết, để có thể thăng tiến ở trong này, Perce ạ. Anh bị kẹt dưới bức trần nhà bằng kính, trong trường hợp của anh phải gọi là trần bằng thép mới đúng. Không sao thoát ra được.”

“Hừ, tôi hài lòng với cương vị hiện tại của mình.”

“Thế thì để tôi cho anh một lời khuyên: ở đây mà không lên nữa là anh sẽ bắt đầu rơi.”

“Cám ơn ông vì lời khuyên,” Bates nói cộc lốc.

“Tôi vẫn nhận những báo cáo của anh về cuộc điều tra. Phải nói thật là quá sơ sài đấy.”

“Toàn bộ kết quả điều tra mới chỉ có vậy.”

“Cove, anh ta thế nào rồi? Không thấy anh đả động gì cả.”

“Chẳng có gì mà báo cáo.”

“Tôi tin rằng anh đang làm việc với quan điểm rằng bất kỳ đặc vụ chìm nào của Cục mà không xuất hiện sau một thời gian dài như vậy thì có thể coi là đã chết, hoặc nếu không chết thì anh ta cũng đã phản bội và có lẽ chúng ta nên bắt đầu truy lùng anh ta qua Lệnh Truy nã toàn diện.”

“Cove không phản bội.”

“Vậy là anh đã liên lạc với anh ta? Buồn cười thật, tôi không thấy điều đó trong bản báo cáo của anh.”

“Tôi chỉ cảm thấy như vậy thôi. Nhưng tôi có nhận được thông tin từ Cove.”

“Vậy anh chàng đặc vụ chìm khét tiếng của chúng ta nói gì về vụ xì căng đan này thế?”

“Anh ta cho rằng anh ta bị cài.”

“Chậc chậc, nghe bất ngờ quá!” Winters kéo dài giọng một cách châm biếm.

“Anh ta không muốn vào Cục vì anh ta nghĩ trong Cục có kẻ phản bội.” Bates trừng trừng nhìn vào mặt Winters khi anh nói câu này, mặc dù anh cũng không hiểu tại sao. Có lẽ nào Winters lại là người làm rò rỉ các thông tin mật không nhỉ? “Anh ta biết rõ về những lần rò rỉ thông tin và những điệp vụ thất bại. Anh ta nghĩ những gì đã xảy ra với HRT cũng xuất phát từ việc rò rỉ thông tin như vậy.”

“Giả thuyết thú vị đấy, nhưng tôi nghĩ chắc anh ta cũng chẳng có bằng chứng nào?”

Câu hỏi của ông ta làm Bates thấy hơi ngạc nhiên. “Anh ta không nói gì thêm với tôi cả,” anh trả lời. “Tôi vẫn đang kiểm soát mọi việc, Buck. Tôi biết là ông rất bận rộn nên tôi không muốn làm xáo trộn tầm nhìn xa huyền thoại của ông bằng những chi tiết lặt vặt. Xin hứa với ông là nếu có chuyện gì quan trọng xảy ra, ông sẽ được biết ngay từ đầu. Để ông có thể đối phó với giới truyền thông. Khoản này thì quả là ông tài thật.”

Winters chẳng khó gì mà không nhận ra thái độ mỉa mai của Bates. Nhưng ông ta quyết định phớt lờ, làm như không biết. “Nếu tôi nhớ không lầm, anh và Cove đã từng rất thân thiết. Hồi ở California ấy, đúng không?”

“Chúng tôi có làm việc cùng nhau.”

“Vào khoảng thời gian gia đình anh ta bị giết hại.”

“Đúng vậy.”

“Một thảm họa của Cục.”

“Thật ra tôi nghĩ đó là một thảm họa của gia đình Cove.”

“Tôi đang băn khoăn là tại sao lại có chuyện như thế này. Theo tôi hiểu thì Cove đã phát hiện ra những hoạt động tài chính của một đường dây ma túy trong tòa nhà đó.”

“Và HRT được điều đến để tấn công,” Bates nói. Nhiều khả năng trong đó có những nhân chứng tiềm năng. HRT chuyên về việc đưa những người này ra ngoài an toàn.”

“Anh bạn ạ, họ làm ăn giỏi thật đấy. Đến cái mạng mình mà họ còn không giữ được nữa là.”

“Chẳng qua là họ bị cài.”

“Đồng ý. Nhưng bằng cách nào chứ? Nếu không phải là Cove thì tại sao?”

Bates nhớ lại cuộc liên lạc của anh với Randall Cove tại nghĩa trang. Cove cho rằng có một sự rò rỉ thông tin ngay trong Cục và đó là nguyên nhân của tất cả những điệp vụ thất bại thời gian qua. Bates trầm ngâm nhìn Winters hồi lâu. “Vâng, để thực hiện được một kế hoạch phục kích công phu như thế thì tôi nghĩ chắc chắn kẻ chủ mưu phải có thông tin từ bên trong, ở cấp cao nhất.”

Winters ngồi ngả người ra sau ghế. “Ở cấp cao nhất. Anh đang định nói là ngay bên trong Cục?”

“Bên trong là bên trong.”

“Đó là một lời cáo buộc nghiêm trọng đấy. Bates.”

“Tôi chẳng cáo buộc gì hết. Tôi chỉ nêu ra một khả năng thôi.”

“Mọi chuyện sẽ đơn giản hơn rất nhiều nếu chúng ta tóm được tay đặc vụ chìm đó.”

“Ông chẳng hiểu gì về Randall Cove cả.”

“Thế thì có lẽ anh hiểu hắn ta quá rõ. Rõ đến nỗi, anh chỉ nhìn thấy cây mà không thấy rừng.” Winters nhổm người đứng dậy. “Không có bất ngờ nào đấy nhé. Bates. Đừng để chuyện gì quan trọng diễn ra mà tôi không được thông báo trước đấy. Anh rõ chứ?”

Sau khi Winters đã đi khỏi, Bates lầm bầm, rõ như Waco ấy, Buck.

°

Web đang ngồi trong xe thì Ann Lyle gọi đến.

“Xin lỗi vì đã để cậu chờ lâu, nhưng tôi muốn kiếm cho cậu thứ gì đó thật hữu ích.”

“Được rồi mà. Tôi cũng mới nhận được vài thông tin về Cove từ Cục, việc này cũng đâu thể làm nhanh được.”

“Thế này nhé, tôi tìm được cho cậu một người.”

“Ai? Cove à?”

“Đồng ý là tôi giỏi, nhưng làm gì giỏi đến thế, Web. Tôi vừa tìm ra được một tay trung úy cảnh sát của D.C, từng là đầu mối liên lạc của Cove hồi anh ta mới làm cho WFO lần đầu tiên từ cách đây lâu rồi.”

“Một cảnh sát địa phương làm đầu mối liên lạc cho một đặc vụ chìm của FBI sao? Sao lại có chuyện đó?”

“Chuyện các đặc vụ chọn một cảnh sát nào đó mà họ tin cậy làm người trung gian là thường tình mà, Web. Cove đã làm việc với tay cảnh sát này hồi anh ta mới chuyển về đây. Và tay cảnh sát đó đồng ý nói chuyện với cậu.”

Anh tấp xe vào lề đường, vớ giấy bút và ghi lại cái tên Sonny Venables, một sĩ quan cảnh sát thuộc Quận Một của thủ đô. Ann cũng cho anh số điện thoại của anh ta.

“Ann, còn ai khác biết về Venables không?”

“Sonny không nói gì, nếu có thì tôi nghĩ anh ta đã nói rồi. Anh ta là đầu mối liên lạc không chính thức của Cove khi Cove mới đến D.C. và cũng lâu lắm rồi. Có lẽ nhiều người không biết gì về mối liên hệ này. Mặc dù Sonny Venables có vẻ khá cởi mở.”

“Bà nói như thể bà biết rõ anh ta lắm.”

“Web, cưng à, khi cậu đã sống lâu bằng tuổi tôi, thì chẳng có ai mà cậu không biết đâu. Tôi làm việc rất nhiều với các cảnh sát của D.C.”

“Và tay Venables đó đồng ý nói chuyện với tôi? Tại sao?”

“Anh ta chỉ nói là anh đã nghe nhiều về cậu. Tôi cũng đưa ra lời bảo đảm của mình, tất cả những gì tôi thấy đáng làm.”

“Nhưng chúng ta vẫn chưa biết là anh ta biết những gì?”

“Tôi nghĩ đó là việc cậu phải tìm ra thôi.” Ann tắt máy.

Web gọi theo số đó. Venables không có nhà, vì vậy Web để lại tên và số di động của mình. Hai mươi phút sau Venables gọi lại cho anh và hai người hẹn gặp nhau chiều hôm đó. Web cũng hỏi anh ta một câu hỏi khác và Venables nói để anh ta xem có thể làm gì. Nếu như tay cảnh sát này có thể giúp Web biết về Cove thì anh mới có thể thoát ra khỏi mớ bế tắc này.

Tuy nhiên có điều khiến Web thấy băn khoăn về Bates, cụ thể là việc anh ta chưa bao giờ cho Web biết là Cove đã từng làm việc cho WFO từ trước khi chuyển đến California. Thực ra cũng không quan trọng. Anh ta đã cho Web xem qua hồ sơ của Cove, và Web đã có cơ hội nhận ra thông tin đó. Chỉ có điều anh không có đủ thời gian để nắm toàn bộ tiểu sử của tay đặc vụ chìm này. Nhưng tại sao Bates không nói thẳng với Web?

Venables đã đề nghị Web gặp anh ta vào đầu giờ chiều ở một quán bar gần khu vực anh ta làm việc, một việc rất bình thường. Web biết đó là cách vừa để giải tỏa cơn khát vừa là dịp ngồi nghe ngóng tình hình và thu nhặt những thông tin biết đâu lại có ích cho một vụ án sau này.

Những tay cảnh sát sẽ chẳng làm ăn được gì nên hồn nếu không biết tranh thủ thời gian.

Sonny Venables là một người da trắng, khoảng ngoài bốn mươi và đã làm cảnh sát được gần hai mươi năm, anh ta kể với Web như vậy lúc hai người đang mua bia. Cao khoảng lm90, vóc người chắc nịch, nhìn cũng biết là anh ta tập luyện thường xuyên và hiếm khi chịu để chút mỡ thừa nào tích tụ trên người; có cảm giác là anh ta chỉ cần một tay cũng nhấc bổng một chiếc rơ moóc.

Sonny đội một chiếc mũ lưỡi trai bóng chày có in dòng chữ TẤT CẢ NHỮNG NGƯỜI ĐÁNH CÁ ĐỀU LÊN THIÊN ĐƯỜNG và mặc một chiếc áo khoác da có lông của giải đua xe Bắc Mỹ NASCAR sau lưng. Cái cổ lực lưỡng của anh ta to gần bằng cái đầu phía trên. Giọng nói mang âm sắc giọng mũi rất du dương của người miền Nam, và Web còn để ý thấy đường viền tròn tròn của một hộp thuốc lá nhai hằn trên túi quần bò của anh ta khi cả hai bước đến một chiếc bàn còn trống trong quán. Họ tìm được một góc khá yên tĩnh và ngồi xuống nhâm nhi chai bia của mình.

Venables cho biết anh ta làm ca đêm. Anh ta thích thế, vì ban đêm thú vị hơn; nhưng tôi sẽ nghỉ hưu sớm ngay khi đủ hai mươi năm. Đi chơi và câu cá, uống bia và xem đua xe từ giờ đến hết đời, như hầu hết các cảnh sát chân chính khác.” Anh ta mỉm cười với câu nói đùa của mình và tu một hơi dài từ vại bia Red Dog. Máy hát tự động Eric Clapton đang chơi đi chơi lại bài Layla. Web lặng lẽ nhìn quanh. Có hai gã đang chơi bi-a ở phòng trong, một tập tiền hai mươi đô và vài chai Bud Lights xếp trên rìa bàn. Thỉnh thoảng họ lại liếc ra chỗ Web và Sonny ngồi: nhưng cho dù có nhận ra Web hay Sonny hay không thì họ cũng chẳng biểu lộ thái độ gì.

Venables đang lặng lẽ nhìn Web qua vại bia của mình. Gương mặt của người đàn ông có quá đủ nếp nhăn để đáng được gọi là già dặn và từng trải. Một người từng nếm trải nhiều điều trong cuộc sống, chủ yếu là những điều tồi tệ, Web phỏng đoán, cũng giống anh.

“Lâu nay tôi vẫn tò mò về những tay HRT các anh.”

“Có gì mà tò mò chứ? Chúng tôi cũng là cớm, chỉ có điều là được trang bị thêm ít đồ chơi thôi mà.”

Venables bật cười. “Này, đừng có khiêm tốn thế chứ. Tôi có vài tay bạn cũng là dân FBI từng thử thi vào HRT và lúc quay về trông họ cứ như chó cụp đuôi. Họ nói chẳng thà phải cắn răng chịu đau đẻ với một đoạn gậy trong miệng còn hơn là phải chịu đựng những trò thử thách ấy thêm một lần nào nữa.”

“Từ bức ảnh của Randall Cove mà tôi được xem, có vẻ HRT cũng chỉ là trò trẻ con đối với anh ta thôi.”

Venables chăm chú nhìn vại bia của mình hồi lâu. “Có lẽ anh đang tự hỏi Randy Cove có điểm gì chung với những loại người cục mịch và thô lậu như tôi?”

“Ý nghĩ đó chỉ thoáng hiện ra trong đầu tôi thôi.”

“Chúng tôi lớn lên cùng nhau ở một làng quê nhỏ hẻo lánh của bang Mississipi, nhỏ đến nỗi thực sự là nó chưa bao giờ có một cái tên đầy đủ nữa. Hồi đó chúng tôi suốt ngày chơi thể thao cùng nhau vì thật ra cũng chẳng có gì mà làm cả. Vậy mà làng quê nhỏ bé của chúng tôi đã vô địch bóng bầu dục của bang hai năm liên tiếp. Chúng tôi còn chơi cùng đội hồi học đại học ở Oklahoma nữa.” Venables lắc đầu. “Randy là cầu thủ chạy cánh vĩ đại nhất mà tôi từng biết, và đội Sooners bắt đầu biết đến chiến thắng. Tôi chơi ở vị trí hậu vệ. Cầu thủ xuất sắc nhất ba năm liền, cũng giống như cậu ta. Trận nào tôi cũng là người cản phá và che chắn cho Randy. Tôi lao người ra như một con tàu điên khùng và tận hưởng niềm vui được chơi trên sân từng phút một, mặc dù giờ đây tôi bắt đầu cảm nhận rõ những hậu quả của thời trai trẻ liều lĩnh ấy. Anh hiểu không, anh chỉ cần để cho Cove có một chút khoảng trống là cậu ta vụt biến mất ngay. Lúc tôi đang cố thò đầu ra từ bên dưới một đống cầu thủ đối phương đè bên trên thì cậu ta đã chạy đến khu vực cuối sân rồi, bao giờ cũng cho một hai cầu thủ đối phương hít khói. Năm cuối cùng chúng tôi đã vô địch toàn quốc giải nghiệp dư dành cho các trường đại học. Hồi đó Oklahoma không chơi với chiến thuật chuyền bóng ngược từ phần sân đối phương về như bây giờ. Chúng tôi cứ việc chuyền bóng thẳng cho Randy Cove và để cậu ta muốn làm gì thì làm.”

“Nghe như hai người có một tình bạn rất bền chặt.”

“Quả là thế thật. Tôi chưa bao giờ có đủ tài năng để lên chơi giải chuyên nghiệp, nhưng chắc chắn là Randy thì quá thừa. Tất cả mọi người, tôi thực sự muốn nói là tất cả mọi người, đều muốn có cậu ta.” Venables ngừng lại và trầm tư gõ gõ ngón tay trên mép bàn. Web quyết định chờ anh ta một lúc.

“Tôi đã chơi cùng Cove tại giải hỗn hợp khi cậu ta bị chấn thương đầu gối. Cậu ta vừa khuỵu xuống là chúng tôi đã biết thế là hết. Hồi đó đâu có được như bây giờ. Chỉ việc vào viện, sửa sang, mổ xẻ lại là lại ngon lành, ra sân như chưa hề có chuyện gì xảy ra. Nhưng hồi đó thì sự nghiệp cửa cậu ta coi như chấm dứt. Thế đấy. Vậy mà bóng bầu dục, lạy Chúa, bóng bầu dục là tất cả những gì cậu ta có. Chúng tôi ngồi bệt ngay xuống sân và òa khóc nức nở gần một giờ liền. Thậm chí ngày mẹ tôi chết tôi còn không khóc nữa là. Nhưng tôi yêu Randy. Hồi đó cậu ta là một người tốt.”

“Hồi đó?”

Venables nghịch lọ hạt tiêu rồi ngồi ngả ra sau, hất ngược chiếc mũ lưỡi trai lên trán và Web nhìn thấy một lọn tóc xoăn màu muối tiêu rủ xuống.

“Chắc anh biết chuyện xảy ra với gia đình cậu ta,” Venables nói.

“Tôi có nghe nói. Sao anh không nói cho tôi nghe những gì anh biết?”

“Nói gì bây giờ nữa? Chính FBI đã làm ăn như cứt khiến Randy mất cả vợ lẫn con.”

“Hồi đó anh có gặp anh ta không?”

Trông Venables như thể anh ta chỉ muốn ném thẳng vại bia vào mặt Web. “Chính tôi là người đứng hộ tang bên quan tài. Đã bao giờ anh phải khiêng quan tài một đứa bé bốn tuổi chưa?”

Web lắc đầu.

“Mẹ kiếp, thế thì để tôi nói cho anh biết, đó là điều anh không bao giờ quên noori.”

“Cove đã nói vậy với anh à, về việc đó là lỗi của Cục ấy?”

“Cần gì cậu ta phải nói với tôi. Tôi cũng là cảnh sát mà. Tôi biết thế nào là phải trái chứ. Tôi làm ở D.C. này vì vợ tôi là người ở đây. Randy cũng bắt đầu với FBI chính từ đây. Tôi đoán là anh cũng biết. Randy dùng tôi làm đầu mối liên lạc vì cậu ta biết có thể tin tưởng tôi, đó là điều khá hiếm hoi trong loại công việc của cậu ta.”

“Đó có vẻ là điều hiếm hoi trong nhiều loại công việc nữa.” Hai người đàn ông trao cho nhau cái nhìn đầy thấu hiểu và thiện cảm, bất giác họ cảm thấy gần gũi và tin tưởng nhau hơn chút ít.

“Sau đó Randy chuyển đến California và gia đình cậu ta bị sát hại ở đó.”

“Tôi hiểu là anh ta đã trả thù.”

Venables ném cho Web cái nhìn lạnh lẽo, cái nhìn cho thấy anh ta còn biết nhiều bí mật hơn so với những gì anh ta muốn nói ra. “Là anh thì anh có làm vậy không?”

“Tôi nghĩ là có. Cove chắc chắn là tay sừng sỏ. Dân mafia Nga có phải bọn tay mơ đâu.”

“Anh cứ thử là một người da đen lớn lên ở một xó xỉnh nào đó ở Mississipi xem.” Venables cúi người về phía trước, chống hai khuỷu tay lên mặt bàn. “Tôi đã nghe nói nhiều về anh. Từ báo chí, và cả từ Ann Lyle.” Anh ta ngừng lại và chăm chú đánh giá Web. Lát sau Web mới nhận ra là Venables đang chằm chằm nhìn vào phần mặt bị thương của anh.

“Trong gần hai mươi năm làm cảnh sát, tôi đã phải rút súng ra hơn chục lần gì đó, và nổ súng sáu lần. Bốn lần tôi bắn trượt, hai lần bắn trúng. Tôi chưa bao giờ bị thương khi đang làm nhiệm vụ, thậm chí xước móng tay cũng không nốt, kể ra đó cũng là điều đáng tự hào trong cái thành phố điên rồ của chúng ta vào thời buổi này. Giờ tôi đang phụ trách Quận Một, không được như khu da trắng thượng lưu ở mạn Tây Bắc, nhưng ít ra cũng còn hơn các quận Sáu và Bảy ở Anacostia, nơi mà đội của anh bị phục kích ấy. Và tôi đặc biệt ngưỡng mộ những người đã từng phải đấu tranh với tử thần giữa lằn ranh giới mong manh của sự sống và cái chết. Có vẻ như anh là hình mẫu tiêu biểu của những người như thế.”

“Tôi chưa bao giờ đòi hỏi được như thế.”

“Tôi chỉ muốn nói là tôi tôn trọng anh nếu không tôi đã không ngồi đây nói chuyện với anh làm gì. Nhưng vấn đề là anh sẽ không bao giờ thuyết phục được tôi tin rằng Randy đã làm điều gì đó sai trái. Tôi biết là cái nghề đặc vụ chìm có thể làm con người ta phát điên và Randy cũng chẳng thiếu gì lý do để trách cứ Cục, nhưng chuyện xảy ra với đội của anh chắc chắn không liên quan gì đến Randy, tôi muốn anh hiểu điều đó.”

“Còn tôi muốn anh hiểu là mặc dù anh đang có vẻ rất chân thành và tôi muốn khi có dịp sẽ làm thêm chầu bia nữa với anh, nhưng tôi không thể chỉ nghe anh nói thế mà tin ngay được.”

Venables gật gù thông cảm. “Hừm, tôi nghĩ nếu mà anh tin ngay thì anh đúng là đồ đầu đất.”

“Lẽ ra anh ta đã có thể nghỉ việc sau vụ đó. Tôi đã kiểm tra thông tin này rồi. Cục đề nghị giúp anh ta tìm cuộc sống mới, lương hưu đầy đủ. Theo anh thì tại sao anh ta lại từ chối?”

“Để rồi dành cả bốn mươi năm còn lại trong đời ngồi xén cỏ ngoài vườn của một ngôi nhà vùng ngoại ô tồi tàn nào đó ở miền Trung Tây à? Như thế đâu còn là Randy. Cậu ta còn làm gì được nữa ngoài việc tiếp tục cày ải cho quên đi tất cả? Nghe có vẻ nực cười, nhưng cậu ta rất tự hào về công việc của mình. Cậu ta nghĩ rằng mình đang sống có ích.”

“Tôi cũng vậy. Đó là lý do tại sao tôi ở đây. Tôi sẽ quyết tìm ra sự thật. Nếu Cove là một phần của âm mưu này, tôi sẽ trả thù giống như những gì anh ta từng làm. Tôi không thể hứa với anh là tôi sẽ không trả thù, cho dù anh có là bạn thân của anh ta chăng nữa. Nhưng nếu anh ta hoàn toàn vô can, tôi sẵn sàng là bạn thân nhất của anh ta. Và tin tôi đi, hầu hết mọi người đều muốn có tôi là bạn hơn là làm kẻ thù đấy.”

Venables ngả người ra sau và tỏ vẻ đăm chiêu, cân nhắc. Sau đó dường như anh ta đã quyết định và cúi người về trước, mắt chăm chú quan sát hai tay chơi bi-a vừa quệt phấn lên đầu mũi cơ vừa tu bia và rít thuốc.

Lát sau anh ta bắt đầu nói với giọng rất khẽ khàng. “Tôi hoàn toàn không biết Randy đang ở đâu. Từ khi xảy ra chuyện này tôi không nhận được tin tức gì của cậu ta. Thực ra là trước cả thời điểm đó cơ.”

“Vậy là anh ta không bao giờ nói chuyện với anh về những gì anh ta đang làm à?”

“Anh phải hiểu là hồi đó tôi là cơ sở liên lạc của cậu ta trong lần đầu tiên cậu ta hoạt động ở D.C. Còn trong nhiệm kỳ mới nhất vừa rồi tôi cũng có gặp cậu ta, nhưng nói thật là chỉ gặp gỡ nói chuyện thôi, hoàn toàn không liên quan gì đến công việc cả. Tôi chỉ biết là cậu ta đang làm một vụ gì đó rất lớn, nhưng cậu ta chẳng bao giờ tiết lộ.”

“Vậy là hai người không còn thân thiết nữa à?”

“Vẫn thân chứ, nhưng chỉ trong chừng mực có thể đối với một người như Randy. Sau những gì xảy ra với gia đình cậu ta, tôi không nghĩ Randy có thể thực sự thân thiết với bất kỳ ai khác được nữa. Kể cả đối với thằng bạn cũ Sonny Venables cùng lớn lên ở Mississipi và không biết bao lần tôi đã lấy thân mình làm vật cản đường đối phương cho cậu ta ôm bóng lao về đích.”

“Anh ta có bao giờ nhắc đến một đầu mối liên lạc nào khác mà có thể anh ta đang sử dụng không?

“Không, nếu cậu ta có cần một đầu mối liên lạc nào đó, thì nhất định sẽ là tôi.”

“Lần gần đây nhất anh gặp anh ta là khi nào?”

“Hơn hai tháng trước.”

“Trông anh ta thế nào?”

“Rất kín kẽ, tâm trí lúc nào cũng như ở tận đâu tận đâu ấy. Thực ra trông cậu ta không được ổn cho lắm.”

“Khá lâu rồi không thấy anh ta quay về nhà. Cục đã cử người canh gác ở nhà anh ta mà.”

“Tôi chưa bao giờ biết cậu ta sống ở đâu cả; chúng tôi luôn gặp nhau ở một nơi nào đó hoàn toàn vô hại, để bảo đảm an toàn cho công việc của cậu ta. Thật ra, chúng tôi chỉ nói về những chuyện ngày xưa. Tôi nghĩ có lẽ cậu ta cần người để chia sẻ và tâm sự. Nếu có lúc nào đó cậu ta cần tôi chuyển hay nhắn nhủ gì đó cho người khác thì tôi làm.”

“Anh ta liên lạc với anh như thế nào mỗi khi muốn gặp?”

“Cậu ta không bao giờ gọi về nhà cho tôi. Bao giờ cũng gọi đến đồn cảnh sát của quận. Mỗi lần lại xưng một tên khác nhau. Và mỗi lần chúng tôi gặp nhau cậu ta sẽ cho tôi biết cái tên mới mà cậu ta sẽ dùng trong lần tiếp theo, để tôi biết là cậu ta gọi tới.”

“Và vẫn chưa thấy anh ta gọi sao?” Web chăm chú nhìn Venables. Có vẻ như Venables đang rất thẳng thắn với anh, nhưng chẳng biết thế nào mà dám chắc được.

“Không, không một lời. Tôi bắt đầu thấy lo là có chuyện xảy ra với cậu ta. Trong cái nghề của Randy, mối lo ngại như vậy là hoàn toàn chính đáng.”

Web ngồi ngả ra sau. “Vậy tôi đoán là anh khó giúp được tôi tìm ra anh ta.” Venables uống nốt vại bia của mình. “Chúng ta đi dạo một lát nhé.”

Họ bước ra ngoài và thả bộ dọc một con phố khá vắng người. Chưa đến giờ tan sở nên có lẽ lúc này hầu hết mọi người vẫn đang bận rộn trong phòng làm việc, đếm từng phút cho đến lúc hết giờ, Web nghĩ bụng.

“Trong lần đầu tiên hoạt động cho WFO, Randy có một chỗ mà cậu ta vẫn dùng làm nơi đặt hộp thư trong trường hợp muốn nhắn gì đó cho tôi. Cậu ta cũng cho biết sẽ dùng nơi đó để thay đổi quần áo, như một ngôi nhà bí mật phòng khi cần thiết.”

“Cục có biết nơi đó không?”

“Không. Ngay từ hồi ấy tôi đã không nghĩ là cậu ấy tin tưởng cấp trên của mình ở Cục nhiều đến mức đó. Đó là lý do cậu ấy dùng tôi, tôi đoán vậy.”

“Khôn ngoan lắm. Gần đây anh có đến đó không?”

Venables lắc đầu. “Có lẽ tôi hơi sợ điều gì mà tôi có thể phải chứng kiến ở đó, cũng không rõ là tại sao nữa. Thậm chí tôi còn không biết Randy dùng nơi đó nữa không. Rất có thể nó đã bị phá đi rồi cũng nên, tôi cũng không chắc.”

“Anh cho tôi địa chỉ nơi đó được không?”

“Anh có hút thuốc không?”

“Không.”

“Thế thì giờ anh phải hút đi.” Venables rút trong túi áo khoác ra một bao Winstons và chìa nó cho Web, anh cầm lấy. “Anh nên châm lửa đi, đề phòng có ai đó đang nhìn.” Venables đưa cho anh một bao diêm.

Web châm thuốc, rít một hơi và cố lắm mới không ho sặc sụa, anh thảy bao thuốc vào túi áo.

“Rất cảm ơn anh đã giúp đỡ. Nhưng nếu Cove có liên quan…” Anh bỏ lửng câu nói của mình.

“Nếu Randy mà làm một việc như vậy thật, thì tôi không nghĩ cậu ta còn muốn sống nữa làm gì.”

Khi Sonny Venables bước đi, Web quay lại xe, xé toạc bao Winstons và moi ra mẩu giấy cuộn tròn bên trong. Anh đọc địa chỉ được viết trên đó. Bên trong bao thuốc còn có ba bức ảnh nhỏ được gấp lại. Trước đó, khi gọi điện, Web đã hỏi Venables xem có thằng nhóc da đen sáng màu nào mới được báo cáo là mất tích trong thành phố trong vòng một tháng vừa qua không, và rõ ràng đây là những gì mà tay cảnh sát tìm được; anh kết luận là trông ba thằng nhóc đều nhang nhác Kevin Westhrook. Nét mặt lũ trẻ cho anh thấy một điều là tất cả những kỳ vọng của chúng vào một cuộc sống tử tế đều đã tan thành mây khói. Web lái xe lao vụt đi.

Hai mươi phút sau, Web lái xe chậm lại và đánh mắt ra ngoài cửa sổ xe, bao nhiêu hy vọng trong đầu bỗng nhiên vụt tắt. Lời cảnh báo nhất thời của Venables hóa ra đã ứng nghiệm ngay lập tức. Căn nhà mật ngày nào của Randy Cove giờ chỉ còn là một công trường xây dựng trống hoác; một chiếc cần cẩu cao ngất ngưởng đứng giữa bãi đất, một nhóm công nhân đang lục tục ra về sau một ngày làm việc mà Web nhận thấy chắc là không nhẹ nhàng gì. Căn cứ vào khối lượng công việc đã được thực hiện tại công trường Web kết luận là từ lâu nay Randall Cove đã không còn sử dụng nơi này nữa. Tất cả lại sa vào một ngõ cụt mới. Web vò nát mẩu giấy ghi địa chỉ và ném nó xuống sàn xe. Nhưng anh vẫn còn một đầu mối mới cần xem xét về Randall Cove.

Anh gọi cho Romano từ trong xe. “Cậu có rỗi không, đi lòng vòng với tớ một lát?” Anh qua đón Romano và lái xe về phía nam, thẳng hướng Fredericksburg.

Romano nhìn quanh nội thất chiếc xe. “Xe gì mà như cứt!”

“Xem lại đi, một chiếc Grand Marquis đấy, có lẽ giám đốc Cục cũng chỉ đi xe như thế này là cùng.”

“Thì vẫn là xe như cứt thôi.”

“Thôi lần sau tớ sẽ cố kiếm cái nào khá hơn cho cậu vậy.” Web vừa nói vừa liếc nhìn Romano và tự hỏi Angie đã nói những gì về chồng mìnhvới bác sĩ tâm thần. Có lẽ là với một người chồng như Romano, thì cô sẽ có quá nhiều điều để mà giãi bày với chuyên gia sức khỏe tâm thần của mình.

“Dạo này ở HRT thế nào rồi?”

“Vẫn thế, vẫn thế thôi. Chẳng có vụ việc gì cần đến bọn này cả. Toàn tập luyện. Tôi chán ngấy cuộc sống này rồi, mẹ kiếp.”

“Cứ bình tĩnh, Paulie, cậu sẽ sớm được dùng đến những khẩu súng của mình thôi.”

“Có lẽ tôi phải xin gia nhập Binh đoàn Lê dương Viễn chinh Pháp hay cái gì đó đại loại mới phải.”

“Hồi trước sao không thấy cậu kêu ca gì.”

“Mọi người bàn tán nhiều về anh đấy, Web.”

Web vẫn chờ đợi sự thay đổi chủ đề trò chuyện này từ đầu, nhưng khi nó đến anh vẫn hơi bất ngờ.

“Vậy sao? Mọi người nói gì?”

“Cả tốt lẫn xấu, bằng nhau.”

“Thế là được rồi, tớ tưởng tớ phải tai tiếng hơn thế chứ.”

“Không đến mức đó. Không ai nghĩ anh là kẻ hèn nhát, Web. Bao năm qua anh đã làm quá nhiều chuyện rồ dại và liều lĩnh. Có lẽ cũng rồ dại và liều lĩnh như tôi.”

“Nhưng…?”

“Nhưng một số người cho rằng nếu anh đã run tay một lần, anh sẽ còn run tay lần nữa. Tất nhiên chuyện xảy ra với anh cũng không thể thay đổi được gì chuyện xảy ra với đội Charlie, nhưng lần khác thì rất có thể.”

Web nhìn chăm chăm về phía trước. “Tớ nghĩ chắc không có cách nào để phủ nhận lập luận đó được. Mà có khi tớ mới là người phải gia nhập Binh đoàn Lê dương Viễn chinh Pháp. Cậu có mang súng không đấy?”

“Có chính trị gia nào không nói dối không?” 1.

Randall Cove sống ở vùng ngoại ô của Fredericksburg, Virginia, cách Washington D.C và cũng là nơi Cove hoạt động gần 50 dặm, có nghĩa là gấp đôi quy tắc hai mươi lăm dặm của Ann Lyle về khoảng cách tối thiểu giữa địa bàn hoạt động của một đặc vụ ngầm và nơi họ sống. Địa chỉ nhà Cove là một trong những thông tin mà Web đã đọc lén được từ tập hồ sơ của Bates.

Bốn mươi phút sau khi thoát khỏi bầu không khí ngột ngạt của thành phố giờ cao điểm, hai người lái xe chậm lại khi đến con phố ngoại ô yên tĩnh mà Randall Cove sống. Đó là một dãy nhà xây đồng loạt, giống nhau như đúc phần lớn là có biển cho thuê gắn phía trước. Chẳng có bà mẹ hay đứa trẻ nào đang chơi ngoài vườn, mặc dù hôm nay là một ngày thời tiết rất đẹp. Vài chiếc xe đậu thưa thớt trên đường phố. Cả khu này trông như một con phố bỏ hoang, ít nhất là cho đến khi những người đi làm ở D.C và Virginia rồng rắn kéo nhau về. Nhìn qua cũng biết là đây là khu dân cư dành cho những người làm xa nhà, chủ yếu là những người sống độc thân hoặc những cặp vợ chồng chưa con cái chịu sống ở đây đến khi có thêm thu nhập hoặc có thêm thành viên mới trong gia đình là họ sẽ chuyển đi ngay. Anh có thể hiểu tại sao Cove lại chọn sống ở một nơi như thế này. Không có những người hàng xóm tọc mạch, mọi người sống khép kín và lúc anh ta ở nhà thì hầu hết những người xung quanh đều đã đi làm. Web biết là phần lớn các đặc vụ chìm hoạt động trong mảng ma túy đều đi săn vào ban đêm.

Có một chiếc Bucar mang biển số công vụ đậu trước cửa ngôi nhà.

“Bọn trông trẻ của FBI,” Romano nhận xét. Web gật đầu và phân vân không biết phải xoay sở thế nào đây. Anh lái xe đến đỗ sát chiếc Bucar, rồi cùng với Romano bước xuống.

Tay đặc vụ trong xe hạ kính cửa sổ xuống, liếc nhìn phù hiệu FBI của Web và Romano rồi lại quay ra nhìn Web.

“Anh nổi tiếng lắm rồi, không cần phải trình phù hiệu làm gì,” người đặc vụ nói, Web không biết anh ta. Đó là một thanh niên trẻ măng, tràn đầy sức sống và triển vọng, Web cũng nhận thấy là ngay lúc này trông anh ta có vẻ chán đời khi cứ phải ngồi lý ở đây theo dõi ngôi nhà mà chẳng ai biết Randall Cove có bao giờ thèm quay về hay không. Anh chàng bước xuống xe và bắt tay hai người.

“Chris Miller, đặc vụ thuộc Văn phòng Địa bàn Richmond.” Anh ta chìa tấm phù hiệu FBI vừa rút từ túi áo ngực bên phải và giơ thẳng ra trước một cách rất ấn tượng, đúng như những gì được đào tạo trong Học viện FBI. Một khi Cục rỗi việc, họ sẽ dành thời gian bắt các nhân viên của mình phải thống nhất và đồng bộ từ những chi tiết nhỏ nhất.

Không cần nhìn Web cũng biết là Miller có thêm một lớp lót trong áo khoác để khẩu súng mà anh ta mang trong nách áo sẽ không hằn rõ. Anh cũng biết là khi anh tấp xe lại phía sau Miller và bước về phía chiếc xe của anh ta, Miller đã chăm chú theo dõi trên gương chiếu hậu và khóa chặt vào đôi mắt của Web, vì ý định của một người bao giờ cũng thể hiện rõ trên đôi mắt của anh ta.

Họ bắt tay nhau, Web liếc nhìn ngôi nhà đóng cửa im ỉm trước mặt mình. “Các cậu canh gác ờ đây 24/24 à?”

“Cứ tám tiếng một, tám tiếng một,” Miller thốt lên mệt mỏi. Anh ta xem đồng hồ. “Tôi còn ba tiếng nữa mới hết ca.”

Web tỳ người lên chiếc xe. “Chắc là chán mớ đời hả?”

“Nếu không tính trận hỗn chiến của lũ mèo hoang mà tôi được xem cách đây khoảng hai tiếng thì đúng là chán thật.” Nói đến đây anh ta ngừng lại và chăm chú nhìn Web rồi lâu, rồi buột miệng, “Các anh biết không, nhiều lúc tôi cũng nghĩ đến việc thử đăng ký vào HRT xem sao.”

“À lúc nào chúng tôi cũng cần thêm người.” Thực ra là sáu người, Web nghĩ, để tổ chức lại đội Charlie.

“Tôi nghe nói quá trình tuyển chọn rất khắc nghiệt.”

Romano khịt mũi. “Cứ lấy tất cả những gì cậu nghe thấy rồi nhân lên với mười, coi như là gần sát với thực tế.”

Nhìn vẻ mặt nghi ngờ của Miller, Web có thể thấy là anh chàng không tin lắm vào những gì Romano vừa nói. Nhưng dù sao cậu ta cũng còn trẻ và quá tự tin vào khả năng của mình, những người trẻ tuổi bao giờ cũng vậy.

“Các anh có tham gia vụ Waco không?” Miller hỏi. Web và Romano gật đầu. “Các anh có hạ được thằng nào đó không vậy?”

“Thực ra tôi vẫn cố trục xuất nó ra khỏi tiềm thức của mình,” Web nói. Claire Danels chắc phải tự hào lắm đây.

“Tôi có thể hiểu,” Miller nói với một vẻ hoài nghi khiến Web dám chắc là thật ra chàng đặc vụ trẻ này không hiểu ý anh.

“Cậu vào Cục được bao lâu rồi?” Romano hỏi.

“Gần hai năm.”

“Hừm, khi nào đủ ba năm công tác thì cậu có thể đăng ký tham gia HRT. Có gì cần cứ hỏi tôi. Nếu cậu thực nghiêm túc về vụ HRT, tôi có thể giúp cậu ít nhiều.” Romano chìa cho anh ta tấm danh thiếp của mình.

Trong lúc Miller nhét tấm danh thiếp vào túi áo, Romano và Web kín đáo trao cho nhau những cái nhìn thích thú.

“Chà, sẽ rất tuyệt cho mà xem,” Miller háo hức nói. “Thấy bảo là ở chỗ các anh có nhiều loại hàng khủng lắm.”

Web thừa hiểu, đối với nhiều người, động cơ đầu tiên khi vào HRT chính là các loại súng. Anh biết nhiều người tham gia FBI chỉ vì cơ hội được mang và sử dụng những loại vũ khí tối tân nhất. “Đúng thế thật. Và chúng tôi sẽ cho cậu thấy một điều là bao giờ cũng vậy, không phải dùng đến chúng là tốt nhất.”

“Đúng rồi.” Miller tỏ vẻ thất vọng, nhưng Web biết anh ta sẽ vượt qua điều đó.

Ba người đều im lặng một cách gượng gạo, cuối cùng Miller lên tiếng, “Vậy tôi có thể giúp gì cho các anh đây?’ “Chúng tôi đến đây vì tôi muốn nhìn qua chỗ này một chút. Anh có biết gì về anh ta không?”

“Cũng không biết nhiều lắm. Tôi chỉ biết là hình như anh ta có dính dáng đến những gì xảy ra với các anh. Tôi muốn nói là nhiều khi thật khó hiểu tại sao con người ta lại có thể quay lưng lại như thế, với chính đồng đội của mình.”

“Ừ, đúng là khó hiểu thật.” Web nhìn quanh dãy nhà. Tất cả đều quay lưng vào khu rừng. “Hy vọng là các cậu có ai đó bao bọc phía sau.”

Miller cười ngoác miệng. “Gì đó thì đúng hơn. Chó nghiệp vụ được thả đầy ở sân sau. Xung quanh được rào kín. Kẻ nào tìm cách đột nhập theo lối đó thì hắn sẽ phải ngạc nhiên cho mà xem. Tôi đoán là làm vậy rẻ hơn nhiều so với bố trí hai đặc vụ.

“Tôi cũng đoán vậy.” Web vừa nói vừa nhìn đồng hồ. “Sắp tới giờ ăn tối rồi. Cậu ăn gì chưa?”

Miller lắc đầu. “Tôi mang theo ít bánh quy và vài thứ linh tinh, một chai nước. Dùng hết sạch rồi. Và như tôi nói, tôi vẫn còn ba tiếng nữa mới thoát nợ. Điều tệ nhất là không có chỗ mà đi đái nữa.”

“Đừng phàn nàn chuyện đó với tôi. Đã vài lần tôi phải làm nhiệm vụ giám sát mục tiêu ở vùng Trung Tây. Phải theo dõi những trang trại rộng hàng ngàn mẫu Anh bị nghi là các cơ sở phân phối ma túy, hoặc ăn chực nằm chờ ở những bãi đỗ xe ngoài trời rộng mênh mông, tìm kiếm mấy thằng vô lại chuyên cướp ngân hàng và giết người bằng những khẩu súng săn cưa nòng. Những lúc như vậy mà buồn thì hoặc là cố nhịn, hoặc là tiểu vào chai, không thì cứ đứng ngay giữa cánh đồng mà tự biên tự diễn thôi.”

“Ừ, Romano nói chêm vào. “Hồi tôi còn ở trong Delta, bọn tôi còn phải ngồi thành hàng mà đi ị ấy chứ, bất kể anh đang ở chỗ khốn kiếp nào. Mẹ kiếp, mà có phải ngồi trước mặt ai anh cũng có thể làm được chuyện đó đâu, bao giờ cũng phải là những tay chiến hữu thân thiết cả. Đã có lần tôi phải hạ một thằng đúng lúc tôi đang một tay xách quần. Mẹ kiếp, lúc đó mới thật là dở khóc dở cười.”

Nhìn Miller thì có thể biết là anh ta chưa bao giờ phải nếm trải những hoàn cảnh trớ trêu đó. Web để ý là anh chàng diện rất bảnh chọe, và hiển nhiên việc phải đi tiểu vào chai nước hoặc phải giải quyết các nhu cầu đó trước mặt người khác không hề có trong hình dung của anh ta về hình mẫu của một đặc vụ.

“Có một quán ăn nhanh Denny ở phía đầu đường ấy. Cậu đi mà ăn tối đi bọn này sẽ trông cho một lúc đến khi cậu quay lại.”

Miller tỏ vẻ băn khoăn khi phải rời bỏ vị trí canh gác.

“Không phải ngày nào cũng có những lời đề nghị thế này đâu đấy, Chris.” Web khẽ phanh vạt áo khoác qua một bên để anh ta thấy là anh cũng mang súng. “Và tôi cũng hạ vài thằng ở Waco. Đi mà ăn tối cho thoải mái vào.”

“Các anh có chắc là mọi việc sẽ ổn chứ?”

Romano đáp lại bằng cái giọng hăm dọa nhất của anh ta. “Nếu có kẻ nào đó không mời mà đến, chúng sẽ phải bước qua xác bọn này.”

Chỉ cần nghe nói vậy, Miller nhanh chóng chui vào xe và lái vọt đi.

Web chờ đến khi anh chàng đi khuất hẳn mới bước tới thùng xe của mình, lấy ra một chiếc đèn pin và một thiết bị nhỏ, quan sát xung quanh và cùng Romano bước tới trước cửa nhà Cove.

“Mẹ kiếp, thằng ngốc đó mà vào HRT thì không trụ quá hai phút,” Romano nói.

“Ai biết được, Paulie. Cậu còn qua được cơ mà?”

“Cậu định đột nhập vào đây thật à?”

“Ừ, thật chứ. Nếu cậu thấy ngại, cứ ra ngoài xe chờ tớ vậy.”

“Chẳng có nhiều thứ trên đời khiến tớ ngại đâu.”

Chỉ trong thoáng chốc là ổ khóa cửa đơn giản đã bị phá tung bằng khẩu súng phá khóa mà Web mang theo, vài giây sau anh và Romano đã ở trong nhà. Web đóng cửa lại và bật đèn pin. Anh thấy có một thiết bị báo động gắn ở cửa trước, nhưng không còn hoạt động. Hơn nữa chắc cũng chỉ có một mình Cove là biết mã điều khiển thiết bị này. Họ bước qua gian sảnh ngắn và vào phòng khách. Web rọi đèn vào mọi ngóc ngách, anh và Romano đều đặt sẵn tay trên báng súng. Ngôi nhà được bài trí rất giản dị. Web nghĩ có lẽ bình thường Cove cũng chẳng mấy khi về đây. Họ xem lướt qua tầng dưới nhưng không thấy có gì đáng chú ý, điều đó không làm Web ngạc nhiên. Cove là một con sói già, và sói già thì chẳng bao giờ để lại dấu vết của mình ở khắp mọi nơi cho người ta lần ra một cách dễ dàng. Tầng hầm vẫn còn xây dang dở, Romano và Web nhanh chóng kiểm tra vài chiếc hộp vứt chỏng chơ dưới đó. Thứ duy nhất khiến Web tần ngần xem qua một lát là bức ảnh lồng trong khung kính của Cove, vợ anh ta và lũ trẻ. Web chiếu đèn pin hơi lệch đi khỏi bức ảnh để mặt kính không phản xạ ánh sáng. Trong ảnh Cove mặc complet, không có những lọn tóc tết như anh vẫn thấy, nét mặt đẹp trai và tự tin. Nụ cười của anh ta thật dễ lây. Chỉ nhìn bức ảnh mà bất giác Web cũng nhận ra là anh đang mỉm cười. Một tay Cove ôm choàng vợ, tay kia ôm ghì cả hai đứa con.

Vợ anh ta là một phụ nữ vô cùng xinh đẹp, với mái tóc dài ngang vai, nụ cười rạng rỡ và đôi mắt long lanh có thể khiến bất kỳ người đàn ông nào cũng phải run rẩy. Cả hai đứa con đều giống mẹ nhiều hơn. Chắc chắn là khi lớn lên chúng cũng sẽ là những thanh niên rất đẹp, khi mà cha mẹ chúng đang nếm trải những năm tháng tuổi già bên nhau. Cuộc sống lẽ ra phải diễn ra theo đúng lộ trình như vậy, nhưng thực tế thì lại hoàn toàn khác, ít nhất thì đối với những người làm cái nghề bạc bẽo như Web và Cove. Bức ảnh đã làm toát lên được một Randall Cove hoàn toàn khác, một Randall Cove trên cương vị người chồng và người cha. Web chợt hình dung ra hình ảnh chàng cựu tiền đạo của giải All-America đang ném bóng cho con trai mình trong sân sau nhà; biết đâu thằng bé cũng được thừa hưởng những tố chất thể thao của cha mình. Thậm chí có khi nó còn phát triển được một sự nghiệp thi đấu chuyên nghiệp mà cha nó đã không có cơ hội thực hiện. Trong một bộ phim của Hollywood thì điều đó có thể xảy ra, nhưng hiếm khi trở thành sự thật trong cuộc sống trái ngang này.

“Một gia đình hạnh phúc,” Romano nhận xét.

“Hết rồi.” Web cũng chẳng buồn giải thích thêm.

Anh cất tấm hình vào trong hộp và hai người lại lên tầng. Khi ánh đèn pin của anh lia qua gần cửa kéo phía sau, có gì đó lao rầm vào tấm kính ngoài cửa. Cùng một lúc, Web và Romano rút phắt súng ra khỏi bao cho đến khi họ nghe tiếng sủa dữ dội ngoài cửa và nhận ra đó là con chó canh gác đang làm nhiệm vụ.

Hừm, ít nhất thì một con chó sẽ không bao giờ phản bội bạn; có lẽ đó là lý do tại sao chúng được coi là người bạn tốt nhất của con người, Web tự nhủ. Những con chó bao giờ cũng mang bí mật của chủ nó cho đến tận lúc chết.

Họ vội vã chạy lên tầng trên, hy vọng sẽ xong sớm trước khi Miller quay lại. Web không thích phải lừa một đồng nghiệp của mình như thế này, nhưng anh lại càng không muốn bị bắt quả tang đang lục soát trái phép nhà của một nghi phạm chính. Bates nhất định sẽ không để yên vụ này, và có lẽ Web cũng không thể trách gì được anh ta. Trên gác có hai phòng chung nhau một phòng tắm ở giữa. Căn phòng ở phía trước trông thẳng xuống phố là phòng ngủ của Cove. Chăn gối được xếp đặt gọn gàng, trong tủ đầu giường vẫn còn vài bộ quần áo. Web lấy ra một chiếc áo sơ mi và thử khoác lên người. Tay áo rộng đến nỗi ví thử Web có xỏ chân vào có lẽ cũng vừa. Nếu phải ra sân Web không hề muốn làm nhiệm vụ cản phá chàng tiền đạo này, có lẽ phải đứng chắn trước một chiếc xe tải nhẹ còn dễ dàng hơn.

Căn phòng ở phía sau ngôi nhà trống trơn. Theo thiết kế nó cũng là một phòng ngủ, nhưng có lẽ chưa bao giờ được sử dụng cho mục đích đó. Mặt trong của chiếc tủ nhỏ trong phòng không hề có vết xước nào cho thấy từng có những chiếc mắc áo trên đó, mặt thảm cũng không có những vết hằn của đồ đạc từng được kê xếp trong phòng. Web và Romano đang định đi xuống thì Web nhận ra điều gì đó. Anh nhìn kỹ cửa sổ của căn phòng phía sau này và đi qua phòng tắm nối liền để trở ra phòng ngủ phía trước và quan sát cửa sổ. Trên cửa sổ có gắn mành mành xếp bằng những lá nhôm mini để bảo đảm sự kín đáo; rất hợp lý, vì phòng này trông ra phố. Anh quay lại qua phòng tắm để vào phòng kia. Trên những cửa sổ của phòng này cũng có mành, nhưng Web nhận thấy rằng đó không phải là những tấm mành mành mini; chúng chỉ là những tấm mành liền mảnh kiểu cổ cuộn lên trên.

Căn phòng phía sau trông ra rừng, nên sự kín đáo có lẽ không hẳn là vấn đề cần tính đến. Web nhìn qua cửa sổ và quan sát hướng mặt trời đang lặn. Phòng ngủ phía sau này quay về hướng bắc, do đó nó sẽ không phải hứng ánh nắng buổi chiều rọi vào. Vậy lắp mành che làm gì nhỉ? Hơn nữa phòng này cũng chẳng có ai dùng, mành để làm gì đây? Và nếu như có người thích trang trí cửa sổ như vậy thì tại sao mỗi chỗ lại một kiểu mành mành che khác nhau như thế? Ít ra thì với những tấm mành xếp người ta còn có thể để chút ít ánh sáng lọt vào phòng mà vẫn đảm bảo được sự riêng tư, kín đáo. Nhưng với mành liền mảnh thì hoặc là sáng hẳn hoặc là tối hẳn, và với điều kiện ánh sáng ít ỏi hiện có cùng với việc không có đèn trần, lúc nào trông căn phòng cũng tối om om. Có gì đó thật khó hiểu, nhưng cũng có thể Cove đã thừa hưởng cách bài trí này từ người chủ cũ và cũng chẳng thèm bận tâm thay đổi.

“Điều gì khiến cậu cảnh giác thế?” Romano hỏi.

“Cách lựa chọn mành che cửa của thằng cha này.”

“Cậu quan tâm đến cái trò đàn bà này từ bao giờ vậy?”

Web phớt lờ Romano và bước lại cửa sổ. Tấm mành cửa đã được cuốn hẳn lên. Web túm sợi dây và kéo mạnh. Tấm mành tuột xuống không có gì khác thường. Anh bước sang cửa sổ khác và cũng làm như vậy. Dây thừng bị tắc, và tấm mành không tuột xuống. Trong khoảnh khắc Web đã định bỏ cuộc. Nhưng nghĩ thế nào anh lại chiếu đèn pin lên phía trên và xem xét cơ chế tuột xuống của bức mành và phát hiện ra là cái móc cài phía trên đã bị uốn cong khiến cho sợi dây sẽ không suy xuyển gì khi bị kéo. Anh bẻ lại cái móc vào vị trí cũ và kéo dây. Tấm mành tuột xuống, và Romano há hốc mồm khi nhìn thấy chiếc phong bì bị giấu kín trong tấm mành cuốn tròn rơi thẳng xuống tay Web.

Romano tròn mắt nhìn Web. “Mẹ kiếp, cậu thánh thật.”

“Đi thôi, Paulie.” Web kéo tấm rèm lên trên như cũ và hai người vội rảo bước xuống cầu thang. Romano kiểm tra khắp xung quanh để bảo đảm là phía trước nhà không có ai trước khi hai người lẻn ra. Web đóng lại cửa trước sau lưng anh.

Web và Romano trèo vào xe. Web bật đèn trên nóc xe lên và ổn định chỗ ngồi, bắt đầu kiểm tra lại những gì hai người vừa tìm thấy.

Anh mở phong bì và rút ra một tập những bài báo được cắt rời đã vàng ệch. Đó là tập hợp những bài báo trên tờ Los Angeles Time liên quan đến cái chết của gia đình một đặc vụ chìm dưới bàn tay của bọn mafia Nga. Vị quan chức thay mặt Cục đã cực lực lên án hành động dã man của bọn tội phạm và thề rằng sẽ đưa chúng ra trước công lý. Danh tính của vị quan chức này được xác định là một người có quan hệ chặt chẽ tới cuộc điều tra. Thực ra ông ta cũng chính là người chỉ đạo hoạt động của đặc vụ chìm. Danh tính của đặc vụ chìm này không được công bố mặc dù tên tuổi của những thành viên trong gia đình của anh ta bị sát hại đều đã được công khai trên báo chí. Web chỉ có thể lắc đầu khi đọc tên của vị quan chức này.

Percy Bates.

Vài phút sau Miller lái xe quay về. Anh chàng xoa xoa bụng vẻ thỏa mãn. “Cám ơn các anh đã giúp đỡ.”

“Có gì đâu,” Romano nói. “Đằng nào chúng tôi cũng ở đây rồi, giúp cậu một chút có là gì đâu.”

“Trong lúc tôi đi vắng, ở đây có chuyện gì không?”

“Không, tất cả vẫn ổn.” “Này, khoảng hai tiếng nữa là tôi hết ca trực. Các anh có thích đi làm vại bia không?”

“Chúng tôi…” Web vụt liếc mắt qua phía sau Miller vì ánh nắng mặt trời đang tắt dần vừa làm lóe lên vật gì đó lấp lánh từ xa.

“Web, cẩn thận,” Romano hét lên, vì rõ ràng là anh ta cũng đã nhìn thấy vật đó.

Web chồm người về trước mặt Miller, túm lấy cà vạt của chàng trai để kéo anh ta ngã nhào xuống. Nhưng phát đạn đã găm thẳng vào giữa lưng Miller và xuyên qua ngực anh ta, rít qua ngay trước mặt Web và bắn vỡ tung tấm kính trước của xe. Romano đã kịp lao ra khỏi xe và nấp sau một chiếc bánh xe. Anh ta chĩa khẩu súng lên qua nắp capô, nhưng chưa bắn.

“Web, ra khỏi xe ngay.” Trong một khoảnh khắc ngắn ngủi Web vẫn nắm chặt lấy cà vạt của Miller ngay cả khi chàng đặc vụ trẻ đổ dần xuống bên cạnh cửa xe. Điều cuối cùng Web nhìn thấy là đôi mắt của người đã chết trừng trừng nhìn anh, rồi Miller ngã lăn xuống đất.

“Web, ra khỏi xe ngay, không chính tay tôi sẽ bắn cậu đấy.”

Web thụp xuống đúng lúc một phát đạn khác bắn vỡ nát tấm kính phía sau của chiếc Bucar. Web trườn ra khỏi xe và nấp vào phía sau một bánh xe. Tại Học viện, người ta vẫn dạy bạn rằng nơi bạn cần chiếm lĩnh khi bị tấn công chính là vị trí sau bánh xe vì hiếm có loại vũ khí nào có thể xuyên thủng ngần ấy lớp kim loại.

“Cậu có thấy gì không?” Romano hỏi.

“Chỉ thấy vệt phản quang đầu tiên thôi. Từ kính ngắm phát ra. Từ một vị trí ở sâu trong rừng, cách khoảng 900m, giữa hai khối nhà. Miller chết rồi.”

“Chó chết thật. Tớ đoán không nhầm thì đó là một khẩu bắn tỉa gắn ống ngắm Litton cỡ 0.308 đầu bọc thép.”

“Tuyệt lắm, đúng loại chúng ta vẫn dùng nhé,” Web trả lời.

“Cách duy nhất là phải cúi đầu xuống cho thấp thôi.”

“Ồ vâng, cám ơn cậu đã nhắc, Web. Chứ không tôi đang sắp nhảy dựng lên mà khóc gọi mẹ đây này.”

“Chúng ta không thể bắn trả được, mục tiêu nằm quá xa, ngoài tầm bắn của súng ngắn.”

“Tại sao cậu không nói điều gì mà tôi chưa biết ấy? Trong thùng xe của cậu có hàng gì khủng một chút không?”

“Nếu mà là xe tôi thì còn nói làm gì.” Một phát đạn khác bắn trúng chiếc xe và hai người lại hụp đầu xuống.

Thêm phát nữa bắn tới ngay lập tức và bánh xe trước bên trái xẹp xuống. Phát tiếp sau đó thì khói từ bộ tản nhiệt bắt đầu bốc lên.

“Này, cậu có nghĩ là phải có ai đó đang gọi cho cảnh sát rồi chứ nhỉ?” Romano phàn nàn. “Mẹ kiếp, chẳng lẽ ngày nào ở vùng ngoại ô cũng có bọn bắn tỉa thế này à?”

“Điện thoại của tớ ở trong xe.”

“Mẹ kiếp, thế thì đừng có liều. Thằng ngoài kia có vẻ là dân chuyên nghiệp đấy.”

Họ chờ thêm năm phút nữa, không còn phát đạn nào tiếp theo, sau đó tiếng còi xe cảnh sát bắt đầu vẳng đến từ phía xa. Web khẽ hé đầu lên khỏi mép thân xe và nhìn qua cửa kính. Anh không nhìn thấy vệt phản quang nào trong rừng nữa.

Cuối cùng thì cảnh sát cũng xuất hiện, Web và Romano chìa phù hiệu của mình ra và ra hiệu cho các nhân viên cảnh sát nằm xuống. Sau khoảng năm phút nữa, Web trườn ra chỗ chiếc xe tuần tra và giải thích tình hình. Không còn phát đạn nào bắn ra và rồi có lẽ là toàn bộ lực lượng cảnh sát trong hạt đều có mặt, với cả gần chục cảnh sát tuần tra của bang.

Họ lùng sục khắp khu rừng nhưng không phát hiện được bóng người nào mặc dù con đường mòn dẫn ra đường chính từ phía bên kia lô đất nhà Cove vẫn còn nguyên vết bánh xe mới tinh. Họ còn tìm thấy vài vỏ đạn súng trường vung vãi trên mặt đất. Romano đã nói đúng: đạn cỡ 0.308 đầu bọc thép.

Chris Miller được chính thức xác nhận là đã chết, chiếc xe cấp cứu được gọi tới và đưa xác anh ta đi. Web chợt nhận ra chiếc nhẫn cưới trên tay chàng trai đúng lúc các nhân viên y tế kéo khóa để đóng chiếc túi xác lại. Vậy là tối nay bà Miller sẽ phải nhận chuyến viếng thăm khủng khiếp của Cục. Anh chán nản lắc đầu và quay sang nhìn Romano.

“Tớ thực sự chán ngấy cuộc sống này lắm rồi.

Bình luận