Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Tay súng cuối cùng

Chương 36

Tác giả: David Baldacci

Khi quay về ngôi nhà ngang, Web gọi vào số cố định ở nhà cho Bates, đánh thức anh ta dậy và kể qua về cuộc hội ngộ dữ dội của mình với Big F. Anh cũng nói cho anh ta biết về cuộc gặp với Cove. Một tiếng sau anh gặp Bates và một nhóm đặc vụ của Cục tại khoảnh sân định mệnh ở phía Đông Nam D.C. Mặt trời vừa mới bắt đầu mọc và Web ngao ngán lắc đầu.

Anh chưa hề chợp mắt được chút nào mà đã phải bắt đầu một ngày làm việc mới. Bates đưa cho anh một chiếc điện thoại khác thay cho chiếc đã bị đám đàn em của Westbrook đập vỡ; vẫn dùng số cũ, thật là thuận tiện.

Web cảm ơn Bates, anh ta cũng không thèm đả động gì đến những vết thương còn mới tinh trên mặt Web, mặc dù có thể thấy sáng nay tâm trạng của Bates không vui vẻ gì cho lắm.

“Anh cứ dùng phương tiện của chính phủ như phá thế này thì sớm muộn anh cũng bị trừ vào lương đấy. Mà tôi để lại không biết bao nhiêu lời nhắn vào số điện thoại của anh mà không thấy anh trả lời là sao?”

“Ôi mẹ kiếp, Perce. Nhiều khi phải sau mấy ngày tôi mới nhận được những thư thoại đó trong máy của mình.”

“Sao tôi lại không gặp chuyện đó bao giờ.”

“Chậc, thì như thế là tốt cho tôi còn gì nữa?”

Họ đã cử một đặc vụ ở lại trông xe. Ở khu vực này thì không có gì là an toàn hay thiêng liêng cả, nhất là tài sản của Chú Sam thì lại càng không. Trong thực tế không thiếu gì những thằng trộm trẻ ranh túng tiền sẵn sàng xoáy một chiếc Bucar và bán lại kiếm chút tiền còm.

Trên đường từ sân vào trong nhà, dường như càng lúc Bates càng thấy bực bội hơn. “Thật may mắn là anh còn sống đấy, Web,” anh ta cắm cẳn “Lẽ ra đó là cái giá anh phải trả vì đã tự ý hành động. Tôi không thể tin nổi là anh dám đến đó mà không có ai yểm trợ. Anh phớt lờ mệnh lệnh của tôi. Tôi có thể làm cho anh tiêu đời đấy, đồ nhiễu sự.”

“Nhưng anh sẽ không làm thế đâu vì tôi mang đến cho anh cái anh cần. Một bước đột phá.”

Cuối cùng Bates cũng bình tĩnh lại và lắc đầu chán nản. “Có đúng là hắn đã bắn vỡ sọ thằng đàn em ngay trước mặt anh vì tội làm chỉ điểm à?”

“Một chuyện tày đình như thế thì khó ai có thể nhìn nhầm được.”

“Lạy Chúa tôi, bi của thằng này…”

“Chắc phải to bằng quả bóng bowling, đó là nếu chúng tương thích với phần còn lại trên cơ thể hắn.”

Tất cả đều vào trong tòa nhà mục tiêu và đi xuống tầng hầm. Đó là một nơi tối tăm, ẩm thấp và hôi hám đến lộn mửa. Đang từ một điền trang lâu đời bằng đá ở vùng nông thôn thượng lưu của Virgima bỗng lại chuyển đến một hầm tối ở Virginia – ý nghĩ đó khiến Web muốn cười phá lên. Cho dù trong thâm tâm anh phải thừa nhận rằng tình cảnh của anh thích hợp với gian hầm tối này hơn.

“Vậy là theo hắn chúng ta phải tìm kiếm những đường hầm.” Bates vừa nói vừa nhìn quanh. Dưới này không còn bóng điện nào lành lặn nên mỗi đặc vụ phải cầm theo một chiếc đèn pin. “Thế đấy, vấn đề là chúng ta đã tìm kiếm một lần rồi mà có thấy dấu vết gì đâu.”

“Hừm, chúng ta phải kiểm tra lại, vì hình như thằng này biết chắc những gì hắn nói, hơn nữa cũng làm gì còn đường nào khác để bọn chúng chuyển ngần ấy súng vào mà không bị phát hiện. Không biết những tay ở Sở Giao thông Công chính có còn giữ những sơ đồ đường hầm những tòa nhà ở khu vực này không nhỉ?”

“Đây là D.C, anh hiểu chứ? Nếu anh muốn thử tìm kiếm bất kỳ thứ gì ở một cơ quan hành chính của thành phố, xin cứ tự nhiên. Chuyện vừa xảy ra ngày hôm qua còn khó tìm, huống hồ những thứ đã cách đây cả nửa thế kỷ rồi.”

Họ sục sạo khắp nơi cho đến khi Web dừng lại trước một đống ngổn ngang những thùng phuy đựng dầu loại 250 lít chất cao như núi ở một góc tầng hầm. “Cái gì thế này?”

“Hệ thống lò sưởi ở đây đốt bằng dầu. Đây là những thùng dầu chưa dùng hết khi tòa nhà này bị đóng cửa. Chi phí di dời quá lớn nên chúng vẫn bị bỏ lại ở đây.”

“Đã ai kiểm tra bên dưới chưa?” Thay cho câu trả lời, một đặc vụ bước lại đống thùng phuy và lăn mạnh một thùng ngoài cùng. Nó không hề nhúc nhích. “Dưới này không có gì đâu, Web. Chẳng đời nào có chuyện anh chất cả triệu tấn dầu lên trên một đường hầm nếu như anh thường xuyên ra vào qua đó.”

“Thật vậy sao?” Web chăm chú nhìn thùng dầu mà tay đặc vụ kia vừa lay thử. Anh đạp chân vào chiếc thùng và quả thật là nó đầy hự. Web đẩy thử thùng bên cạnh và thùng bên cạnh nữa. Rồi anh chuyển qua hàng thùng phuy thứ hai. Tất cả đều đầy ắp.

“Được rồi, cậu đã thỏa mãn chưa nào?” Bates hỏi.

“Cứ cười đi.” Trong lúc Bates và các đặc vụ khác đứng nhìn. Web trèo lên nắp các thùng phuy và bắt đầu bước từ thùng này sang thùng khác. Đến mỗi thùng anh lại dừng lại và nhảy thình thịch trên nắp để kiểm tra. Vào đến giữa đống thùng dầu anh nhảy lên một thùng và lảo đảo suýt ngã. thùng này rỗng.” Anh bước sang thùng bên cạnh. “Thùng này cũng thế.” Cuối cùng anh bước qua một ô vuông, mỗi cạnh được tạo thành từ bốn thùng phuy đựng dầu. “Tất cả những thùng này đều rỗng. Giúp tôi một tay nào.” Các đặc vụ còn lại vội vàng chạy đến giúp và chỉ loáng một cái họ đã đẩy những thùng phuy rỗng qua một bên, ánh đèn pin chiếu rõ một cánh cửa gắn chặt trên sàn.

Bates ngỡ ngàng nhìn cánh cửa bí mật rồi lại quay sang Web. “Đồ chó đẻ. Tại sao cậu có thể tìm ra được cơ chứ?”

“Hồi còn ở Văn phòng Địa bàn thành phố Kansas tôi cũng làm một vụ tương tự. Một tên ma cô đã lừa các chủ ngân hàng bằng cách chất đầy những thùng phuy mà theo hắn là đều đầy ắp dầu dùng để sưởi ấm vào một nhà kho, hắn định dùng số dầu này làm đồ thế chấp cho khoản vay ngân hàng khổng lồ. Các chủ ngân hàng cử thanh tra viên của mình đến, và tất nhiên là họ có mở thử vài thùng, thùng nào thùng nấy đúng là đầy ắp dầu thật. Nhưng họ chỉ kiểm tra những thùng ở hàng đầu thôi vì một khi đã mặc complet bóng lộn thì có ai thích trèo lên kiểm tra từng thùng dầu một làm gì. Cuối cùng hóa ra có tới chín mươi phần trăm số thùng dầu là rỗng tuếch. Tôi biết chắc như vậy vì chính tôi tự tay kiểm tra từng thùng một sau khi chúng tôi được gọi đến điều tra lúc tên ma cô này bỏ trốn.”

Bates không giấu nổi vẻ xấu hổ. “Tôi nợ anh lần này, Web.”

“Vâng, tin tôi đi, tôi sẽ không để anh quên đâu.”

Súng rút sẵn trên tay, họ kéo tung cánh cửa, trèo xuống đường hầm và cẩn trọng bước theo lối đi thẳng tắp và vuông vắn bên dưới.

Web rọi đèn pin xuống nền nhà. “Có kẻ vừa mới ở đây xong. Hãy nhìn những dấu vết này này.”

Cuối đường hầm lại là một bậc thang. Mọi người lặng lẽ bước lên, ai cũng hết sức cảnh giác, súng lăm lăm trên tay sẵn sàng nhả đạn. Họ khẽ đẩy cánh cửa chỉ khép hờ trước mặt ra và nhận thấy mình đang đứng trong một tòa nhà khác giống hệt tòa nhà ban đầu. Quanh khu vực này có rất nhiều tòa nhà bỏ hoang chờ được phá đi xây mới. Mọi người hối hả chạy lên tầng và tìm thấy một căn phòng rộng thênh thanh nhưng trống hoác. Họ lại quay xuống, ra khỏi tòa nhà và nhìn quanh.

“Tôi đoán là chúng ta đã đi về phía tây khoảng hai khối nhà gì đó.” Một đặc vụ lên tiếng và Web cũng đồng ý với nhận xét của anh ta. Mọi người đều quay mặt nhìn lại tòa nhà nơi đường hầm đã đưa họ đến.

Những dòng chữ đã mờ gần hết trên một bức tường cho thấy trước kia nó từng thuộc về một công ty phân phối thực phẩm, và phía ngoài còn có cả một sân bốc hàng dành cho các xe tải chở chuối đến tập kết vào kho. Hoặc không thì bốc súng máy cũng tiện. Trong sân bốc hàng vẫn còn vài chiếc xe tải cũ nằm lăn lóc, cái thì mất bánh, cái thì không còn cửa.

“Chỉ cần chờ đến nửa đêm, lùi một chiếc xe tải giữa hai chiếc này, bốc những kiện hàng xuống, đưa chúng vào qua đường hầm và thế là xong,” Web nói. Anh nhìn bao quát cả khu vực xung quanh. “Hơn nữa quanh đây cũng không còn gia đình nào sinh sống cả, không sợ ai nhìn thấy, có lẽ đó là lý do chúng đã chọn nơi này.”

“Được rồi, nhưng chúng ta có thể bắt Big F vì tội giết người cấp một. Với lời khai của anh thì hắn sẽ phải ngồi tù suốt đời.”

“Nhưng trước hết anh phải lần ra hắn đã, và theo như những gì tôi thấy thì hắn không phải tay vừa đâu.”

“Chúng tôi sẽ đưa anh vào chương trình bảo vệ nhân chứng.” “Không, không cần đâu. Tôi tự xoay sở được rồi.”

“Anh nghĩ thế quái nào mà lại bảo anh tự xoay sở được? Thằng này có quá nhiều lý do để bắn vỡ sọ anh đấy.”

“Nếu hắn muốn làm vậy thì hắn đã làm từ đêm qua rồi. Lúc đó tôi chỉ là thằng trẻ ranh hắn thích búng mũi búng tai tùy thích. Hơn nữa tôi còn việc khác – bảo vệ Billy và Gwen Canfield – và tôi sẽ phải làm đến khi nào xong thì thôi.”

“Tôi thật không hiểu nổi. Hắn giết một mạng người ngay trước mặt anh mà vẫn để cho anh bước là thế nào.”

“Để tôi có thể chuyển thông điệp về những đường hầm này.”

“Cái gì, chẳng lẽ thằng ngu đó không biết điện thoại là cái chó chết gì hay sao? Tôi không đùa đâu, Web, tôi muốn anh được bảo vệ chu đáo.”

“Anh vừa nói là anh nợ tôi, giờ thì tôi đòi anh trả nợ đây.”

“Còn chuyện quái gì quan trọng hơn là giữ lấy mạng sống nữa chứ?”

“Tôi không biết, Perce, trong công việc như của tôi, chẳng mấy khi tôi còn thời gian nghĩ đến chuyện đó. Tôi sẽ không chịu lẩn trốn đâu.”

“Tôi là cấp trên của anh. Tôi có thể bắt anh phải chấp hành.”

“Vâng, tôi biết là anh có thể,” Web vừa nói vừa nhìn Bates với ánh mắt thách thức.

“Ôi, mẹ kiếp, càng ngày anh càng quá đáng rồi đấy, London”.

“Tôi tưởng anh biết điều đó từ lâu rồi chứ.”

Bates nhìn quanh khoảnh sân bốc hàng. Vấn đề là chẳng có bằng chứng nào cho thấy sự liên hệ của bọn Hội Tự Do với cái nhà kho này hoặc những khẩu súng máy kia. Nếu không có gì hơn, chúng ta không thể bắt chúng được Ngay lúc này chúng ngoan như những thiên thần bé nhỏ, chẳng có cớ gì cho chúng ta viếng thăm cả.”

“Vẫn chưa có những thông tin gì mới về những vụ giết chóc ở Richmond có dính dáng đến bọn Tự do à? Có nhiều dấu vết thế cơ mà.”

“Từ góc bắn của viên đạn trên cơ thể thẩm phán Leadbetter chúng tôi đã xác định nó được bắn ra từ một tòa nhà bên kia đường đang trong quá trình xây dựng. Hàng trăm người làm việc ở đó mỗi ngày, những lao động chân tay thay nhau đến rồi đi.”

“Thế còn cú điện thoại mà ông ta nhận được thì sao?”

“Điện thoại công cộng ở ngoại ô Richmond. Không có manh mối nào.”

“Nhưng lúc đó thẩm phán đang ở trung tâm thành phố. Vậy là có ít nhất hai tên đứng sau vụ này và chúng liên lạc chặt chẽ với nhau mới có thể canh đúng thời điểm gọi điện như thế được.”

“Đúng vậy. Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng chúng ta đang đối mặt với những tay nghiệp dư cả.”

“Thế còn Watkins và Wingo?”

“Tất cả những ai làm việc trong văn phòng của Wingo đều đã được thẩm tra.”

“Những người dọn dẹp thì sao? Có thể một người trong số họ đã bôi atropine lên điện thoại của ông ta.”

“Tôi nhắc lại là chúng tôi thẩm tra tất cả rồi. Những người này đến rồi đi, nhưng chúng tôi không thấy có manh mối gì đáng ngờ cả.

“Watkins thì sao?”

“Rò rỉ gas. Đó là một ngôi nhà cũ.”

“Thôi nào, ông ta nhận được một cú điện thoại đúng lúc ông ta bước vào nhà. Lại là một trường hợp canh giờ đúng từng giây. Và bị một kẻ nắm rõ quy luật đi lại của cả ba nạn nhân. Chẳng lẽ trong máy điện thoại của ông ta lại tình cờ có cuộn Sôlênôit đủ để đánh lửa khiến ông ta nổ tan xác hay sao?”

“Tôi biết, Web, nhưng cả ba người này còn hàng đống kẻ thù khác có thừa động cơ để giết họ. Có thể một hay hai vụ giết người có liên quan, nhưng cũng có thể tất cả chỉ là trùng hợp. Ít nhất thì trong lúc này điểm chung duy nhất mà chúng ta có chính là những chiếc điện thoại và tên Ernest Free.”

“Chúng đều liên quan với nhau hết, Perce, cứ tin tôi đi.”

“Vâng, nhưng chúng ta còn phải thuyết phục cả một bồi thẩm đoàn và thời buổi này thì nhiệm vụ đó đã trở thành bất khả thi.”

Có thông tin gì về quả bom ở East Winds không?”

“Một thiết bị nổ bằng chất C4 cực kỳ tinh vi. Chúng tôi đã kiểm tra lý lịch của tất cả những người làm việc trong trang trại. Hầu hết những người làm ở đây đều đến cùng với Strait khi trang trại cũ của họ bị đóng cửa. Tất cả đều rất sạch sẽ. Tất nhiên là cũng có vài vết nhỏ, chủ yếu là say xỉn và gây mất trật tự; những sự vụ thường thấy ở một đám người lỗ mãng như họ.”

“Thế Nemo Strait thì sao?”

“Đúng như những gì ông ta kể với anh. Sinh ra và lớn lên trong một trang trại ngựa do bố ông ta quản lý. Đó chính là nơi ông ta học được nghề này. Ông ta đã chiến đấu ở Việt Nam và là một người lính cừ khôi đấy. Khá nhiều huân huy chương các loại và tham gia nhiều trận đánh ác liệt, ông ta bị bắt làm tù binh khoảng ba tháng.”

“Tay này chắc phải ghê gớm lắm mới sống sót được đấy nhỉ?”

“Ông ta làm qua vài công việc lặt vặt khi quay về Mỹ, giám thị nhà tù, kinh doanh máy tính. Trong thời gian đó ông ta đã kết hôn, sinh vài đứa con, quay lại công việc nuôi và huấn luyện ngựa rồi lại ly dị. Ông ta đến làm cho nhà Canfield đúng lúc họ vừa mua lại East Winds.”

“Thế còn tên Ernest B. Free thì sao?”

“Không thấy bóng dáng hắn đâu cả; kỳ lạ thật. Bình thường thì chúng ta sẽ nhận được khoảng vài nghìn cú điện thoại. Chín mươi chín phần trăm trong đó là thông tin không chính xác, nhưng ít ra cũng còn hơn chục đầu mối. Lần này, không gì sất.”

Web cáu kỉnh nhìn quanh. Anh lướt mắt qua cái gì đó rồi giật mình nhìn lại và dán chặt mắt vào nó. “Mẹ kiếp,” anh buột miệng.

“Cái gì? Anh bảo gì cơ, Web?” Bates ngạc nhiên hỏi.

Web chỉ tay. “Tôi nghĩ chúng ta có thêm một nhân chứng kia rồi.” Bates nhìn cột đèn giao thông đứng ở góc đường chéo với khoảng sân bốc hàng của nhà kho. Như bất kỳ cột đèn tín hiệu giao thông nào khác trong khu vực này, phía trên của nó có gắn một chiếc camera giám sát. Và giống như những chiếc camera khác mà Web đã nhìn thấy trong khu vực, cái này cũng đã bị xoay hẳn sang hướng khác, có lẽ là do thằng nhóc nghịch ngợm nào đó, nhưng ma xui quỷ khiến thế nào mà hướng đó lại trùng ngay với khoảng sân bốc hàng của nhà kho nơi mọi người đang đứng.

“Mẹ kiếp,” Bates cũng thốt lên. “Anh cũng đang nghĩ như tôi à?”

“Chứ còn sao nữa,” Web nói. “Cái camera kia trông như loại cũ dùng băng vidéo và hoạt động 24/24 chứ không như loại đời mới chỉ hoạt động khi có tín hiệu xe chạy quá tốc độ vọt qua và chỉ ghi lại biên số sau của chiếc xe.”

“Lạy Chúa, hy vọng là lực lượng cảnh sát của D.C không đặt chế độ quay gián đoạn.” Bates ra hiệu cho một đặc vụ của mình đi gọi điện sang Sở Cảnh sát ngay lập tức.

Web nói “Tôi phải quay về trang trại đây. Có lẽ Romano bắt đầu cảm thấy cô đơn rồi.”

“Thực sự tôi không thích chuyện này chút nào, Web. Chẳng may anh chết bất thình lình thì sao đây?”

“Anh còn có Cove. Anh ta cũng chứng kiến mọi chuyện.”

“Thế nếu cả anh ta cũng chết thì sao? Điều đó là hoàn toàn có thể trong tình hình như hiện nay.”

“Anh có giấy bút ở đây không?”

Web viết lại toàn bộ chi tiết về việc sát hại Toona. Tên thật của Toona là Charles Towson, Web đã được Bates cho biết như vậy. và không ai biết cái biệt danh kia ở đâu ra, nhưng tên tội phạm nào trên phố cũng phải có một cái. Chà, nếu có ai đó chẳng may vớ phải cái xác của Charlie Towson và kéo nó từ dưới sông lên, chắc chắn anh ta sẽ phải nôn thốc nôn tháo tất cả những gì có trong dạ dày. Web ghi rõ tên kẻ giết người là Francis Big F Westbrook. Anh kết thúc bằng một chữ ký không thể bay bướm hơn được nữa và đề nghị hai đặc vụ khác làm chứng cho chữ ký của mình.

“Anh đang trêu tôi đấy à? Bất kỳ luật sư bào chữa nào cũng có thể xé nát tờ giấy này,” Bates gầm lên.

“Đó là điều tốt nhất tôi có thể làm trong lúc này.” Web quay người bỏ đi.

Khi quay về ngôi nhà ngang, Web gọi vào số cố định ở nhà cho Bates, đánh thức anh ta dậy và kể qua về cuộc hội ngộ dữ dội của mình với Big F. Anh cũng nói cho anh ta biết về cuộc gặp với Cove. Một tiếng sau anh gặp Bates và một nhóm đặc vụ của Cục tại khoảnh sân định mệnh ở phía Đông Nam D.C. Mặt trời vừa mới bắt đầu mọc và Web ngao ngán lắc đầu.

Anh chưa hề chợp mắt được chút nào mà đã phải bắt đầu một ngày làm việc mới. Bates đưa cho anh một chiếc điện thoại khác thay cho chiếc đã bị đám đàn em của Westbrook đập vỡ; vẫn dùng số cũ, thật là thuận tiện.

Web cảm ơn Bates, anh ta cũng không thèm đả động gì đến những vết thương còn mới tinh trên mặt Web, mặc dù có thể thấy sáng nay tâm trạng của Bates không vui vẻ gì cho lắm.

“Anh cứ dùng phương tiện của chính phủ như phá thế này thì sớm muộn anh cũng bị trừ vào lương đấy. Mà tôi để lại không biết bao nhiêu lời nhắn vào số điện thoại của anh mà không thấy anh trả lời là sao?”

“Ôi mẹ kiếp, Perce. Nhiều khi phải sau mấy ngày tôi mới nhận được những thư thoại đó trong máy của mình.”

“Sao tôi lại không gặp chuyện đó bao giờ.”

“Chậc, thì như thế là tốt cho tôi còn gì nữa?”

Họ đã cử một đặc vụ ở lại trông xe. Ở khu vực này thì không có gì là an toàn hay thiêng liêng cả, nhất là tài sản của Chú Sam thì lại càng không. Trong thực tế không thiếu gì những thằng trộm trẻ ranh túng tiền sẵn sàng xoáy một chiếc Bucar và bán lại kiếm chút tiền còm.

Trên đường từ sân vào trong nhà, dường như càng lúc Bates càng thấy bực bội hơn. “Thật may mắn là anh còn sống đấy, Web,” anh ta cắm cẳn “Lẽ ra đó là cái giá anh phải trả vì đã tự ý hành động. Tôi không thể tin nổi là anh dám đến đó mà không có ai yểm trợ. Anh phớt lờ mệnh lệnh của tôi. Tôi có thể làm cho anh tiêu đời đấy, đồ nhiễu sự.”

“Nhưng anh sẽ không làm thế đâu vì tôi mang đến cho anh cái anh cần. Một bước đột phá.”

Cuối cùng Bates cũng bình tĩnh lại và lắc đầu chán nản. “Có đúng là hắn đã bắn vỡ sọ thằng đàn em ngay trước mặt anh vì tội làm chỉ điểm à?”

“Một chuyện tày đình như thế thì khó ai có thể nhìn nhầm được.”

“Lạy Chúa tôi, bi của thằng này…”

“Chắc phải to bằng quả bóng bowling, đó là nếu chúng tương thích với phần còn lại trên cơ thể hắn.”

Tất cả đều vào trong tòa nhà mục tiêu và đi xuống tầng hầm. Đó là một nơi tối tăm, ẩm thấp và hôi hám đến lộn mửa. Đang từ một điền trang lâu đời bằng đá ở vùng nông thôn thượng lưu của Virgima bỗng lại chuyển đến một hầm tối ở Virginia – ý nghĩ đó khiến Web muốn cười phá lên. Cho dù trong thâm tâm anh phải thừa nhận rằng tình cảnh của anh thích hợp với gian hầm tối này hơn.

“Vậy là theo hắn chúng ta phải tìm kiếm những đường hầm.” Bates vừa nói vừa nhìn quanh. Dưới này không còn bóng điện nào lành lặn nên mỗi đặc vụ phải cầm theo một chiếc đèn pin. “Thế đấy, vấn đề là chúng ta đã tìm kiếm một lần rồi mà có thấy dấu vết gì đâu.”

“Hừm, chúng ta phải kiểm tra lại, vì hình như thằng này biết chắc những gì hắn nói, hơn nữa cũng làm gì còn đường nào khác để bọn chúng chuyển ngần ấy súng vào mà không bị phát hiện. Không biết những tay ở Sở Giao thông Công chính có còn giữ những sơ đồ đường hầm những tòa nhà ở khu vực này không nhỉ?”

“Đây là D.C, anh hiểu chứ? Nếu anh muốn thử tìm kiếm bất kỳ thứ gì ở một cơ quan hành chính của thành phố, xin cứ tự nhiên. Chuyện vừa xảy ra ngày hôm qua còn khó tìm, huống hồ những thứ đã cách đây cả nửa thế kỷ rồi.”

Họ sục sạo khắp nơi cho đến khi Web dừng lại trước một đống ngổn ngang những thùng phuy đựng dầu loại 250 lít chất cao như núi ở một góc tầng hầm. “Cái gì thế này?”

“Hệ thống lò sưởi ở đây đốt bằng dầu. Đây là những thùng dầu chưa dùng hết khi tòa nhà này bị đóng cửa. Chi phí di dời quá lớn nên chúng vẫn bị bỏ lại ở đây.”

“Đã ai kiểm tra bên dưới chưa?” Thay cho câu trả lời, một đặc vụ bước lại đống thùng phuy và lăn mạnh một thùng ngoài cùng. Nó không hề nhúc nhích. “Dưới này không có gì đâu, Web. Chẳng đời nào có chuyện anh chất cả triệu tấn dầu lên trên một đường hầm nếu như anh thường xuyên ra vào qua đó.”

“Thật vậy sao?” Web chăm chú nhìn thùng dầu mà tay đặc vụ kia vừa lay thử. Anh đạp chân vào chiếc thùng và quả thật là nó đầy hự. Web đẩy thử thùng bên cạnh và thùng bên cạnh nữa. Rồi anh chuyển qua hàng thùng phuy thứ hai. Tất cả đều đầy ắp.

“Được rồi, cậu đã thỏa mãn chưa nào?” Bates hỏi.

“Cứ cười đi.” Trong lúc Bates và các đặc vụ khác đứng nhìn. Web trèo lên nắp các thùng phuy và bắt đầu bước từ thùng này sang thùng khác. Đến mỗi thùng anh lại dừng lại và nhảy thình thịch trên nắp để kiểm tra. Vào đến giữa đống thùng dầu anh nhảy lên một thùng và lảo đảo suýt ngã. thùng này rỗng.” Anh bước sang thùng bên cạnh. “Thùng này cũng thế.” Cuối cùng anh bước qua một ô vuông, mỗi cạnh được tạo thành từ bốn thùng phuy đựng dầu. “Tất cả những thùng này đều rỗng. Giúp tôi một tay nào.” Các đặc vụ còn lại vội vàng chạy đến giúp và chỉ loáng một cái họ đã đẩy những thùng phuy rỗng qua một bên, ánh đèn pin chiếu rõ một cánh cửa gắn chặt trên sàn.

Bates ngỡ ngàng nhìn cánh cửa bí mật rồi lại quay sang Web. “Đồ chó đẻ. Tại sao cậu có thể tìm ra được cơ chứ?”

“Hồi còn ở Văn phòng Địa bàn thành phố Kansas tôi cũng làm một vụ tương tự. Một tên ma cô đã lừa các chủ ngân hàng bằng cách chất đầy những thùng phuy mà theo hắn là đều đầy ắp dầu dùng để sưởi ấm vào một nhà kho, hắn định dùng số dầu này làm đồ thế chấp cho khoản vay ngân hàng khổng lồ. Các chủ ngân hàng cử thanh tra viên của mình đến, và tất nhiên là họ có mở thử vài thùng, thùng nào thùng nấy đúng là đầy ắp dầu thật. Nhưng họ chỉ kiểm tra những thùng ở hàng đầu thôi vì một khi đã mặc complet bóng lộn thì có ai thích trèo lên kiểm tra từng thùng dầu một làm gì. Cuối cùng hóa ra có tới chín mươi phần trăm số thùng dầu là rỗng tuếch. Tôi biết chắc như vậy vì chính tôi tự tay kiểm tra từng thùng một sau khi chúng tôi được gọi đến điều tra lúc tên ma cô này bỏ trốn.”

Bates không giấu nổi vẻ xấu hổ. “Tôi nợ anh lần này, Web.”

“Vâng, tin tôi đi, tôi sẽ không để anh quên đâu.”

Súng rút sẵn trên tay, họ kéo tung cánh cửa, trèo xuống đường hầm và cẩn trọng bước theo lối đi thẳng tắp và vuông vắn bên dưới.

Web rọi đèn pin xuống nền nhà. “Có kẻ vừa mới ở đây xong. Hãy nhìn những dấu vết này này.”

Cuối đường hầm lại là một bậc thang. Mọi người lặng lẽ bước lên, ai cũng hết sức cảnh giác, súng lăm lăm trên tay sẵn sàng nhả đạn. Họ khẽ đẩy cánh cửa chỉ khép hờ trước mặt ra và nhận thấy mình đang đứng trong một tòa nhà khác giống hệt tòa nhà ban đầu. Quanh khu vực này có rất nhiều tòa nhà bỏ hoang chờ được phá đi xây mới. Mọi người hối hả chạy lên tầng và tìm thấy một căn phòng rộng thênh thanh nhưng trống hoác. Họ lại quay xuống, ra khỏi tòa nhà và nhìn quanh.

“Tôi đoán là chúng ta đã đi về phía tây khoảng hai khối nhà gì đó.” Một đặc vụ lên tiếng và Web cũng đồng ý với nhận xét của anh ta. Mọi người đều quay mặt nhìn lại tòa nhà nơi đường hầm đã đưa họ đến.

Những dòng chữ đã mờ gần hết trên một bức tường cho thấy trước kia nó từng thuộc về một công ty phân phối thực phẩm, và phía ngoài còn có cả một sân bốc hàng dành cho các xe tải chở chuối đến tập kết vào kho. Hoặc không thì bốc súng máy cũng tiện. Trong sân bốc hàng vẫn còn vài chiếc xe tải cũ nằm lăn lóc, cái thì mất bánh, cái thì không còn cửa.

“Chỉ cần chờ đến nửa đêm, lùi một chiếc xe tải giữa hai chiếc này, bốc những kiện hàng xuống, đưa chúng vào qua đường hầm và thế là xong,” Web nói. Anh nhìn bao quát cả khu vực xung quanh. “Hơn nữa quanh đây cũng không còn gia đình nào sinh sống cả, không sợ ai nhìn thấy, có lẽ đó là lý do chúng đã chọn nơi này.”

“Được rồi, nhưng chúng ta có thể bắt Big F vì tội giết người cấp một. Với lời khai của anh thì hắn sẽ phải ngồi tù suốt đời.”

“Nhưng trước hết anh phải lần ra hắn đã, và theo như những gì tôi thấy thì hắn không phải tay vừa đâu.”

“Chúng tôi sẽ đưa anh vào chương trình bảo vệ nhân chứng.” “Không, không cần đâu. Tôi tự xoay sở được rồi.”

“Anh nghĩ thế quái nào mà lại bảo anh tự xoay sở được? Thằng này có quá nhiều lý do để bắn vỡ sọ anh đấy.”

“Nếu hắn muốn làm vậy thì hắn đã làm từ đêm qua rồi. Lúc đó tôi chỉ là thằng trẻ ranh hắn thích búng mũi búng tai tùy thích. Hơn nữa tôi còn việc khác – bảo vệ Billy và Gwen Canfield – và tôi sẽ phải làm đến khi nào xong thì thôi.”

“Tôi thật không hiểu nổi. Hắn giết một mạng người ngay trước mặt anh mà vẫn để cho anh bước là thế nào.”

“Để tôi có thể chuyển thông điệp về những đường hầm này.”

“Cái gì, chẳng lẽ thằng ngu đó không biết điện thoại là cái chó chết gì hay sao? Tôi không đùa đâu, Web, tôi muốn anh được bảo vệ chu đáo.”

“Anh vừa nói là anh nợ tôi, giờ thì tôi đòi anh trả nợ đây.”

“Còn chuyện quái gì quan trọng hơn là giữ lấy mạng sống nữa chứ?”

“Tôi không biết, Perce, trong công việc như của tôi, chẳng mấy khi tôi còn thời gian nghĩ đến chuyện đó. Tôi sẽ không chịu lẩn trốn đâu.”

“Tôi là cấp trên của anh. Tôi có thể bắt anh phải chấp hành.”

“Vâng, tôi biết là anh có thể,” Web vừa nói vừa nhìn Bates với ánh mắt thách thức.

“Ôi, mẹ kiếp, càng ngày anh càng quá đáng rồi đấy, London”.

“Tôi tưởng anh biết điều đó từ lâu rồi chứ.”

Bates nhìn quanh khoảnh sân bốc hàng. Vấn đề là chẳng có bằng chứng nào cho thấy sự liên hệ của bọn Hội Tự Do với cái nhà kho này hoặc những khẩu súng máy kia. Nếu không có gì hơn, chúng ta không thể bắt chúng được Ngay lúc này chúng ngoan như những thiên thần bé nhỏ, chẳng có cớ gì cho chúng ta viếng thăm cả.”

“Vẫn chưa có những thông tin gì mới về những vụ giết chóc ở Richmond có dính dáng đến bọn Tự do à? Có nhiều dấu vết thế cơ mà.”

“Từ góc bắn của viên đạn trên cơ thể thẩm phán Leadbetter chúng tôi đã xác định nó được bắn ra từ một tòa nhà bên kia đường đang trong quá trình xây dựng. Hàng trăm người làm việc ở đó mỗi ngày, những lao động chân tay thay nhau đến rồi đi.”

“Thế còn cú điện thoại mà ông ta nhận được thì sao?”

“Điện thoại công cộng ở ngoại ô Richmond. Không có manh mối nào.”

“Nhưng lúc đó thẩm phán đang ở trung tâm thành phố. Vậy là có ít nhất hai tên đứng sau vụ này và chúng liên lạc chặt chẽ với nhau mới có thể canh đúng thời điểm gọi điện như thế được.”

“Đúng vậy. Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng chúng ta đang đối mặt với những tay nghiệp dư cả.”

“Thế còn Watkins và Wingo?”

“Tất cả những ai làm việc trong văn phòng của Wingo đều đã được thẩm tra.”

“Những người dọn dẹp thì sao? Có thể một người trong số họ đã bôi atropine lên điện thoại của ông ta.”

“Tôi nhắc lại là chúng tôi thẩm tra tất cả rồi. Những người này đến rồi đi, nhưng chúng tôi không thấy có manh mối gì đáng ngờ cả.

“Watkins thì sao?”

“Rò rỉ gas. Đó là một ngôi nhà cũ.”

“Thôi nào, ông ta nhận được một cú điện thoại đúng lúc ông ta bước vào nhà. Lại là một trường hợp canh giờ đúng từng giây. Và bị một kẻ nắm rõ quy luật đi lại của cả ba nạn nhân. Chẳng lẽ trong máy điện thoại của ông ta lại tình cờ có cuộn Sôlênôit đủ để đánh lửa khiến ông ta nổ tan xác hay sao?”

“Tôi biết, Web, nhưng cả ba người này còn hàng đống kẻ thù khác có thừa động cơ để giết họ. Có thể một hay hai vụ giết người có liên quan, nhưng cũng có thể tất cả chỉ là trùng hợp. Ít nhất thì trong lúc này điểm chung duy nhất mà chúng ta có chính là những chiếc điện thoại và tên Ernest Free.”

“Chúng đều liên quan với nhau hết, Perce, cứ tin tôi đi.”

“Vâng, nhưng chúng ta còn phải thuyết phục cả một bồi thẩm đoàn và thời buổi này thì nhiệm vụ đó đã trở thành bất khả thi.”

Có thông tin gì về quả bom ở East Winds không?”

“Một thiết bị nổ bằng chất C4 cực kỳ tinh vi. Chúng tôi đã kiểm tra lý lịch của tất cả những người làm việc trong trang trại. Hầu hết những người làm ở đây đều đến cùng với Strait khi trang trại cũ của họ bị đóng cửa. Tất cả đều rất sạch sẽ. Tất nhiên là cũng có vài vết nhỏ, chủ yếu là say xỉn và gây mất trật tự; những sự vụ thường thấy ở một đám người lỗ mãng như họ.”

“Thế Nemo Strait thì sao?”

“Đúng như những gì ông ta kể với anh. Sinh ra và lớn lên trong một trang trại ngựa do bố ông ta quản lý. Đó chính là nơi ông ta học được nghề này. Ông ta đã chiến đấu ở Việt Nam và là một người lính cừ khôi đấy. Khá nhiều huân huy chương các loại và tham gia nhiều trận đánh ác liệt, ông ta bị bắt làm tù binh khoảng ba tháng.”

“Tay này chắc phải ghê gớm lắm mới sống sót được đấy nhỉ?”

“Ông ta làm qua vài công việc lặt vặt khi quay về Mỹ, giám thị nhà tù, kinh doanh máy tính. Trong thời gian đó ông ta đã kết hôn, sinh vài đứa con, quay lại công việc nuôi và huấn luyện ngựa rồi lại ly dị. Ông ta đến làm cho nhà Canfield đúng lúc họ vừa mua lại East Winds.”

“Thế còn tên Ernest B. Free thì sao?”

“Không thấy bóng dáng hắn đâu cả; kỳ lạ thật. Bình thường thì chúng ta sẽ nhận được khoảng vài nghìn cú điện thoại. Chín mươi chín phần trăm trong đó là thông tin không chính xác, nhưng ít ra cũng còn hơn chục đầu mối. Lần này, không gì sất.”

Web cáu kỉnh nhìn quanh. Anh lướt mắt qua cái gì đó rồi giật mình nhìn lại và dán chặt mắt vào nó. “Mẹ kiếp,” anh buột miệng.

“Cái gì? Anh bảo gì cơ, Web?” Bates ngạc nhiên hỏi.

Web chỉ tay. “Tôi nghĩ chúng ta có thêm một nhân chứng kia rồi.” Bates nhìn cột đèn giao thông đứng ở góc đường chéo với khoảng sân bốc hàng của nhà kho. Như bất kỳ cột đèn tín hiệu giao thông nào khác trong khu vực này, phía trên của nó có gắn một chiếc camera giám sát. Và giống như những chiếc camera khác mà Web đã nhìn thấy trong khu vực, cái này cũng đã bị xoay hẳn sang hướng khác, có lẽ là do thằng nhóc nghịch ngợm nào đó, nhưng ma xui quỷ khiến thế nào mà hướng đó lại trùng ngay với khoảng sân bốc hàng của nhà kho nơi mọi người đang đứng.

“Mẹ kiếp,” Bates cũng thốt lên. “Anh cũng đang nghĩ như tôi à?”

“Chứ còn sao nữa,” Web nói. “Cái camera kia trông như loại cũ dùng băng vidéo và hoạt động 24/24 chứ không như loại đời mới chỉ hoạt động khi có tín hiệu xe chạy quá tốc độ vọt qua và chỉ ghi lại biên số sau của chiếc xe.”

“Lạy Chúa, hy vọng là lực lượng cảnh sát của D.C không đặt chế độ quay gián đoạn.” Bates ra hiệu cho một đặc vụ của mình đi gọi điện sang Sở Cảnh sát ngay lập tức.

Web nói “Tôi phải quay về trang trại đây. Có lẽ Romano bắt đầu cảm thấy cô đơn rồi.”

“Thực sự tôi không thích chuyện này chút nào, Web. Chẳng may anh chết bất thình lình thì sao đây?”

“Anh còn có Cove. Anh ta cũng chứng kiến mọi chuyện.”

“Thế nếu cả anh ta cũng chết thì sao? Điều đó là hoàn toàn có thể trong tình hình như hiện nay.”

“Anh có giấy bút ở đây không?”

Web viết lại toàn bộ chi tiết về việc sát hại Toona. Tên thật của Toona là Charles Towson, Web đã được Bates cho biết như vậy. và không ai biết cái biệt danh kia ở đâu ra, nhưng tên tội phạm nào trên phố cũng phải có một cái. Chà, nếu có ai đó chẳng may vớ phải cái xác của Charlie Towson và kéo nó từ dưới sông lên, chắc chắn anh ta sẽ phải nôn thốc nôn tháo tất cả những gì có trong dạ dày. Web ghi rõ tên kẻ giết người là Francis Big F Westbrook. Anh kết thúc bằng một chữ ký không thể bay bướm hơn được nữa và đề nghị hai đặc vụ khác làm chứng cho chữ ký của mình.

“Anh đang trêu tôi đấy à? Bất kỳ luật sư bào chữa nào cũng có thể xé nát tờ giấy này,” Bates gầm lên.

“Đó là điều tốt nhất tôi có thể làm trong lúc này.” Web quay người bỏ đi.

Bình luận