Trong Nghĩa trang Quốc gia Arlington, Percy Bates rảo bước từ trung tâm khách tham quan lên con đường lát đá dẫn đến Nhà Custis-Lee. Sau khi tướng Robert E. Lee 1 quyết định ủng hộ quê hương Virginia của mình ly khai khỏi Hợp chủng quốc Hoa Kỳ và đồng ý trở thành người đứng đầu quân đội Miền Nam thay vì đứng dưới lá cờ Sao và Sọc lúc Nội chiến bắt đầu, chính phủ liên bang đã tịch thu ngôi nhà của ông. Giai thoại lịch sử nói rằng chính phủ Tổng thống Lincoln đã đề nghị trả lại điền trang này cho vị tướng Miền Nam ngay trong lúc chiến tranh diễn ra. Tất cả những gì ông phải làm chỉ là đến và nộp tiền thuế cũ. Đến một mình. Tất nhiên là Lee phớt lờ đề nghị của tổng thống Lincoln nên sau đó điền trang này được chuyển thành nghĩa trang danh giá nhất của nước Mỹ. Mẩu chuyện lịch sử đó lúc nào cũng làm cho Bates, vốn sinh trưởng ở bang Michigan, mỉm cười, mặc dù phải nói rằng ngôi nhà giờ đây cũng đã trở thành một nơi để tưởng nhớ tướng Lee và thường được nhắc đến với tên gọi Nhà Arlington.
Bates đến trước Nhà Arlington và phóng tầm mắt nhìn bao quát khắp nơi mà nhiều người đánh giá là phong cảnh đẹp nhất Washington và thậm chí là đẹp nhất cả nước. Từ đây, có thể thấy trọn vẹn thành phố thủ đô của nước Mỹ ngay dưới chân mình. Bates tự hỏi không biết ngày xưa viên tướng Lee già lão có nghĩ vậy mỗi buổi sáng thức dậy và đứng ở đây nhìn ra xung quanh không.
Nghĩa trang trải rộng trên một diện tích là hơn 600 mẫu Anh 2, rải rác khắp nơi là những bia mộ giống hệt nhau bằng đá cẩm thạch trắng. Ngoài ra còn một số công trình tưởng niệm rất trang nhã dành cho những người đã khuất, do những người còn sống hoặc những người biết ơn dựng lên. Tuy nhiên điều ấn tượng nhất với tất cả mọi người mỗi khi đến thăm nơi này chính là biển mộ chí bằng đá cẩm thạch trắng rộng mênh mông, nhìn từ xa trông như mặt đất phủ tuyết trắng xóa ngay cả giữa mùa hè. Nghĩa trang Quốc gia Arlington là nơi an nghỉ cuối cùng của những người lính Mỹ hy sinh khi chiến đấu vì tổ quốc, những vị tướng năm sao, một Tổng thống bị ám sát, bảy vị Chánh án Tòa án tối cao, những nhà thám hiểm, những nhà đấu tranh vì quyền lợi thiểu số tên tuổi, và rất nhiều người khác được xem là đủ tiêu chuẩn được mai táng ở đây. Có tất cả khoảng hai trăm ngàn ngôi mộ và con số đó vẫn tăng với tốc độ mười tám ngôi mộ mới mỗi ngày.
Bates đã đến đây không biết bao nhiêu lần. Đã vài lần anh tham dự tang lễ của bạn bè và đồng nghiệp. Những lần khác anh đến với tư cách là hướng dẫn viên du lịch khi gia đình có khách đến chơi. Một trong những điều anh thích nhất ở đây là xem nghi lễ đổi gác của các quân nhân Sư đoàn ba của Lục quân Hoa Kỳ, họ có nhiệm vụ canh gác suốt ngày đêm bên cạnh mộ những Liệt sĩ Vô danh. Bates kiểm tra đồng hồ. Anh ta sẽ đến kịp nếu khẩn trương.
Khi mới bước vào khu vực những ngôi mộ, Bates có thể thấy là đám đông mỗi lúc một lớn dần, chủ yếu là khách du lịch từ nơi khác đến, lỉnh kỉnh máy ảnh và trẻ con. Người lính gác tại đây đang thực hiện nghi thức cực kỳ chuẩn xác thường ngày của mình: bước đều 21 bước, dừng lại 21 giây, đổi súng từ vai nọ sang vai kia, rồi quay lại theo con đường cũ.
Bates đã nhiều lần tự hỏi không biết khẩu súng trên vai những người lính gác có nạp đạn không. Tuy nhiên, Bates tin rằng nếu có kẻ nào định phá hoại hoặc làm vấy bẩn những ngôi mộ này, thì chắc chắn hắn sẽ nhận được sự trừng trị đích đáng ngay lập tức. Nếu có nơi nào đó đáng được gọi là thiêng liêng trên đất nước này thì phải là đây. Nghĩa trang Quốc gia Arlington có vị trí không kém gì Trân Châu Cảng.
Khi nghi thức đổi gác bắt đầu và đám đông đổ xô lại chụp ảnh. Bates liếc ngang về phía bên trái mình và bắt đầu len lỏi qua những hàng khách du lịch và xuôi xuống những bậc đá. Đổi gác là một nghi lễ rất trang nghiêm, cầu kỳ và tốn khá nhiều thời gian. Khung cảnh đó thu hút sự chú ý của tất cả mọi người, nhưng không phải Percy Bates.
Anh bước xung quanh khu Hý trường Tưởng niệm (Memorial Amphitheater) rộng lớn xây sát gần khu mộ. Bates tiếp tục rảo bước ngang qua Đường Tưởng niệm và đi vòng qua Đài Tưởng niệm Tàu vũ trụ con thoi Challenger. Sau đó anh quay lại và bước vào trong Hý trường. Anh bước tới khu vực sân khấu, nơi có những hàng cột lớn, những trán tường và hàng lan can; tiến sát một bức tường, rút trong túi ra tấm bản đồ, giơ lên và chăm chú tìm kiếm.
Người đàn ông đứng khuất hẳn tầm nhìn của Bates cũng như của bất kỳ ai khác. Anh ta có một khẩu súng đeo trong bao cài bên hông, một bàn tay đặt sẵn trên báng súng ngay cả khi anh ta tiến gần đến chỗ Bates đang đứng. Anh ta đã theo dõi Bates lượn khắp nghĩa trang, để chắc chắn là người đặc vụ FBI chỉ có một mình. Anh ta tiến gần hơn.
“Cứ tưởng anh không tới cho đến khi anh ra tín hiệu cho tôi ở ngoài kia,” Bates nói. Tấm bản đồ hoàn toàn che kín mặt anh. trong trường hợp có ai đó đang theo dõi.
“Phải kiểm tra xem tình hình có bảo đảm không đã,” Randall Cove nói. Anh ta vẫn đứng ẩn mình trong một góc tường.
“Tôi đã kiểm tra kỹ là không có đuôi rồi.”
“Bất kỳ những gì chúng ta có thể làm, thế nào cũng có kẻ khác làm tốt hơn.”
“Điểm đó thì đúng là khó mà cãi được. Tại sao anh lúc nào cũng thích hẹn gặp trong nghĩa trang thế nhỉ?”
“Tôi thích không khí thanh bình và yên tĩnh. Chẳng mấy nơi nào khác có được điều đó” Cove ngừng lại rồi nói tiếp, “Tôi bị gài.”
“Tôi cũng đoán thế. Nhưng ngay lúc này tôi biết đã có sáu người chết, người thứ bảy thì là một dấu hỏi to đùng. Liệu vỏ bọc của anh có bị lộ từ bên trong không? Thay vì giết anh, có lẽ nào chúng cung cấp cho anh những tin giả để gài HRT? Tôi cần những chi tiết thật rõ ràng, Randy.”
“Chính tôi đã có mặt trong tòa nhà chết tiệt đó mà. Tôi vào trong đó với tư cách là một tay chơi tiềm năng cùng với mấy thằng đó và muốn kiểm tra hoạt động của chúng. Tôi đã nhìn thấy bàn ghế, hồ sơ, máy tính, bọn ong ve chạy lăng xăng quanh những con số, tiền mặt, hàng, khắp nơi. Chính mắt tôi đã nhìn thấy mà. Tôi không bao giờ thông báo cho các anh những chuyện như vậy trừ khi tôi đã đích mục sở thị. Tôi có phải là dân mới vào nghề đâu cơ chứ.”
“Tôi biết. Nhưng lúc chúng tôi ập vào thì trong đó chẳng có gì hết. Ngoài tám khẩu súng máy bị bắn nát.”
“Đúng rồi. Bị bắn nát. Cho tôi biết về London đi. Anh có tin anh ta không?”
“Cũng nhiều như tôi tin bất kỳ ai.”
“Anh ta khai thế nào? Tại sao anh ta vẫn còn sống?”
“Tôi không cho là anh ta biết. Anh ta bảo anh ta bị cứng đờ người.”
“Mẹ kiếp, thật là đúng thời điểm quá.”
“Chính anh ta đã hạ những khẩu súng đó. Cứu cả một thằng nhóc.”
“Đó là một thằng nhóc thực sự đặc biệt đấy. Kevin Westbrook.”
“Tôi cũng biết thế.”
“Nghe này, chúng ta đã tiến hành truy lùng ngay thằng Westbrook vì các sếp ở trên nghĩ đã đến lúc hạ bệ hắn để họ có thể khoe khoang với dư luận. Nhưng càng điều tra, tôi càng nhận thấy rằng hắn chỉ là một con cá nhỏ, Perce. Hắn kiếm cũng khá nhưng cũng không phải hàng đại gia. Thằng này không bao giờ nổ súng bậy bạ, khá kín đáo.”
“Nhưng nếu không phải hắn, thì là ai?”
“Có khoảng tám tên trùm bao tiêu ma túy đường phố trong thành phố này và Westbrook chỉ là một trong số đó mà thôi. Về tổng thể bọn chúng phân phối đến cả tấn hàng này chứ không đùa. Nhưng nếu anh cứ nhân con số đó với mỗi khu vực đô thị lớn từ New York xuôi xuống Atlanta thôi thì đã thành một khối lượng khổng lồ rồi.”
“Cái gì, anh đang định nói là có một nhóm kiểm soát tất cả dòng ma túy này à? Không thể nào.”
“Không, tôi đang định nói là tôi nghĩ có một nhóm đang kiểm soát dòng vận chuyển cả Oxycontin từ các khu vực nông thôn và thành thị suốt một dải bờ biển phía Đông.”
“Oxycontin, loại thuốc bán theo đơn ấy à?”
“Chính xác. Chúng gọi nó là heroin nhà quê, vì hoạt động buôn bán trái phép loại thuốc này bắt nguồn từ vùng nông thôn. Nhưng giờ thì nó đã bắt đầu lan ra các thành phố lớn. Anh hiểu chưa. Tiền ở đó mà ra chứ đâu. Dân chơi ở vùng nông thôn quê mùa thì làm gì có nhiều tiền bằng dân chơi thành phố. Đó là một loại morphine tổng hợp dùng cho những người bị đau mãn tính hoặc ốm nặng. Dân nghiện thường nghiền nó ra thành bột để hít, hút, hoặc chích, tác dụng cũng tương tự như heroin.”
“Đúng. Chỉ khác là nó có tác dụng từ từ, vì vậy nếu anh chơi cả một viên theo cách đó mà không chú ý đến thời gian tác dụng của nó khéo mất mạng như chơi.”
“Đã có khoảng 100 người chết vì nguyên nhân này. Tác dụng của nó không mạnh bằng heroin, nhưng lại mạnh gấp đôi morphine và lại là một loại thuốc trong danh mục cho phép, do đó nhiều người tưởng rằng lạm dụng thuốc cũng không gây hại gì. Anh có thể gặp đầy người già bán lẻ từng viên trên phố để lấy tiền trang trải cho số thuốc còn lại trong đơn vì bảo hiểm của họ không thanh toán hết. Nếu không anh phải hối lộ bác sĩ để họ kê thêm thuốc, hoặc đột nhập vào các nhà thuốc và nơi ở của những bệnh nhân dùng thuốc này.”
“Tệ thật.” Bates trầm ngâm.
“Đó là lý do FBI và DEA đã triển khai lực lượng đặc nhiệm chung. Và vấn đề không chỉ là Oxycontin, mà còn cả các loại thuốc trước đây như Percocet và Percodan nữa. Dạo này chỉ cần 10 đến 15 đô là mua được một liều “Perk” ngay trên phố. Nhưng những loại này vẫn không thể sánh được với Oxycontin. Phải cần đến 16 viên Percocet mới phê bằng một viên Oxy 80mg.”
Trong suốt thời gian trò chuyện, Bates đã nhiều lần kín đáo quan sát xung quanh, để kiểm tra xem có ai đang theo dõi không, nhưng chắc chắn là không có ai. Quả thật là Cove đã chọn địa điểm liên lạc rất tốt. Bates kết luận, vì không ai có thể nhìn thấy anh, hơn nữa với cách đứng quay mặt vào tường và giơ tấm bản đồ lên, trông anh chẳng khác nào một khách du lịch bình thường đang hỏi đường.
Bates nói “Hừm, tất nhiên là chính phủ kiểm soát việc phân phối các loại thuốc gây nghiện, cho nên chỉ cần phát hiện thấy một bác sĩ và một nhà thuốc xuất ra hàng chục viên thuốc cùng loại là có dấu hiệu báo động ngay, nhưng tất nhiên là chúng hoàn toàn có thể nhập lậu hàng từ nước ngoài vào.”
“Đúng vậy.”
“Tại sao tôi lại không hề biết gì về cái vụ Oxycontin này nhỉ Randy?”
“Vì tôi cũng chỉ mới vừa phát hiện ra. Lần đầu tiên tiếp xúc, tôi không hề biết rằng tôi đang dây dưa vào một đường dây buôn bán Oxy. Tôi cứ đinh ninh đó là loại cocain hay heroin như bình thường. Nhưng rồi tôi bắt đầu mắt thấy tai nghe nhiều chuyện. Phần lớn loại ma túy này được chuyển đến trong những túi nhỏ dọc một dải Appalachia 3. Trước nay nó vẫn chỉ dừng lại ở quy mô buôn bán nhỏ lẻ, chủ yếu là giữa những bệnh nhân từng dùng thuốc rồi bị nghiện. Nhưng tôi bắt đầu cảm thấy có một thế lực duy nhất đang tìm cách thâu tóm tất cả những hoạt động này lại và vươn vòi ra những thành phố lớn. Anh hiểu chưa, đó là bước tiếp theo. Đây có thể là nguồn lợi cực kỳ béo bở và có kẻ đã nhận ra điều đó. Đưa nó lên đúng theo tiêu chí của một hoạt động buôn bán ma túy thực sự nhưng với mức lợi nhuận tăng gấp ba lần những gì mà các băng nhóm khác đang làm trong khi rủi ro lại thấp hơn nhiều. Chúng ta cần tìm bọn này. Đó thực sự chính là bọn mà tôi nghĩ đã hoạt động trong tòa nhà mà HRT tấn công vào. Tôi đã đinh ninh rằng chúng ta có thể đập tan đường dây đó nếu giữ trong tay bọn kế toán tay hòm chìa khóa của chúng. Hơn nữa việc chúng bố trí một dạng ngân hàng hoán đổi tiền trong lòng một thành phố lớn là điều hoàn toàn bình thường.”
“Vì nếu ở vùng nông thôn thì những hoạt động kiểu này sẽ bị lộ ngay,” Bates nói nốt ý nghĩ của anh ta.
“Anh hiểu đúng rồi. Hơn nữa chúng có động cơ cực lớn. Anh hoàn toàn có thể bán một triệu viên thuốc mỗi tuần với giá trị bán lẻ trên phố lên đến 100 triệu; hừm, anh hiểu ý tôi chứ.”
“Nhưng cho dù kẻ đang kiểm soát loại hàng này là ai chăng nữa thì chúng cũng chẳng có động cơ nào trong việc gài bẫy một đơn vị HRT. Hành động đó sẽ chỉ gây khó khăn không cần thiết cho chúng. Tại sao chúng phải làm vậy?”
“Tất cả những gì tôi có thể nói với anh là những hoạt động tôi chứng kiến trong tòa nhà đó chẳng liên quan gì đến Westbrook hết. Quy mô cực lớn. Cực kỳ nhiều hoạt động, tầm của hắn không thể bao quát được. Nếu tôi mà cho rằng đó chỉ là Westbrook, chẳng bao giờ tôi phải bảo các anh huy động HRT làm gì. Nếu vậy thì có chăng chúng ta cũng chỉ tóm được con cá nhỏ, cá lớn thì nhảy ra khỏi lưới rồi. Nói đi thì phải nói lại, đúng là Westbrook đang phân phối loại hàng đó ở D.C, cùng với những băng nhóm khác. Nhưng bằng chứng cụ thể thì tôi chưa có. Thằng này khôn như ma và biết rất nhiều.”
“Ừ, nhưng anh đã tiếp cận được với một thằng trong băng của hắn còn gì. Cực kỳ giá trị đấy.”
“Đúng vậy, nhưng trong công việc mà tôi đang làm hôm nay mà hớt lẻo ngày mai sẽ chết lả chuyện thường tình.”
“Vậy là có kẻ thực sự dựng lên cả một sân khấu hoành tráng là cái nhà kho đó để chứng tỏ chúng có một đường dây ma túy khổng lồ. Anh có biết gì không?”
“Không. Sau khi chuyển tin đó cho các anh và vụ tấn công được ấn định thì chắc kẻ chơi tôi cũng đã quyết định là không cần thằng Randall Cove già nua này nữa. Tôi nghĩ là tôi đã quá may khi còn sống. Perce. Đúng ra tôi đang tự hỏi tại sao tôi còn sống.”
“Web London cũng vậy. Tôi cho là sau một vụ thảm sát thì những chuyện như thế cũng dễ hiểu.”
“‘Không, ý tôi là đã có kẻ thực sự tìm cách loại tôi sau vụ tấn công của HRT. Tôi mất toi chiếc Bucar và rạn mất vài chiếc xương sườn.”
“Lạy Chúa, sao anh không thông báo gì cho chúng tôi? Anh phái vào trong Cục thôi, Randy. Phải trình bày lại toàn bộ sự việc để chúng tôi tiến hành điều tra.” Bates lại nhìn xung quanh. Câu chuyện đang kéo dài quá lâu. Anh sẽ phải rảo bước thôi. Không thể cứ đứng mãi một chỗ với cái bản đồ Nghĩa trang nếu không muốn tạo sự nghi ngờ. Nhưng anh không muốn đi mà không có Randall Cove.
“Đừng hòng bắt tôi làm như thế, Perce,” Cove gằn giọng trả lời làm Bates bất giác phải hạ tấm bản đồ xuống. “Tôi không làm thế đâu, vì tôi biết vụ này có dính dáng rất sâu.”
“Chính xác thì ý anh là sao?” Bates hỏi, giọng anh tỏ ra hơi cáu kỉnh.
“Ý tôi là vụ này bắt đầu từ bên trong và tôi sẽ không liều giao phó mạng mình vào tay người khác trừ khi tôi biết chắc không có chuyện gì.”
“Đây là FBI, Randy, có phải KGB đâu.”
“Có thể là thế với anh. Lúc nào anh cũng là người bên trong, Perce. Còn tôi tôi gần như là người ngoài. Bây giờ tôi vào trong mà không biết chuyện gì đã xảy ra, thế rồi đột nhiên họ không bao giờ tìm thấy tôi nữa thì sao. Tôi biết thừa là đầy kẻ trong Cục nghi tôi đứng sau chuyện của HRT”
“Đúng là điên.”
“Thì cũng điên như vụ sáu anh chàng xấu số kia bỏ mạng chứ gì? Nếu không có thông tin của tôi thì làm sao họ phải chết?”
“Chuyện không may như vậy vẫn xảy ra trong công việc của chúng ta mà.”
“Ok, vậy là anh đang nói với tôi rằng anh không nhận ra chuyện gì đáng ngờ đây à? Những điệp vụ thất bại thảm hại, năm ngoái thì có hai đặc vụ chìm bị giết, những đội đột kích của Cục đến hiện trường thì hầu như chẳng còn ma nào ở lại, dân buôn ma túy đã cao chạy xa bay vì có người đánh động cho chúng. Tôi cam đoan là trong Cục có một con chuột thối tha cỡ bự đang bán rẻ mạng sống của nhiều đồng đội, trong đó có cả cái mạng của tôi đây này!”
“Đừng có mà vẽ lên những giả thuyết âm mưu hoang tưởng ấy với tôi, Randy.” Giọng Cove trở nên bình tĩnh hơn. “Tôi muốn đến để anh biết rằng tôi không hề liên quan đến vụ này. Anh cứ tin lời tôi vì ngay lúc này tôi cũng không thể chứng tỏ gì hơn được. Hy vọng là sau này sẽ có.”
“Vậy là anh đang có dự định nào đó phải không?” Bates gặng hỏi. “Nghe này, Randy, được rồi, tôi tin anh, nhưng tôi còn phải trả lời câu hỏi trước nhiều người khác. Tôi hiểu nỗi lo lắng của anh, quá nhiều chuyện tồi tệ đã xảy ra, và chúng tôi đang cố xác định nguồn tin rò rỉ, nhưng anh cũng phải hiểu cho nỗi lo lắng của tôi chứ.” Anh ngừng lại. “Mẹ kiếp. Thôi được rồi, tôi sẽ làm tất cả để cam đoan với anh rằng nếu anh quay vào Cục, tôi sẽ canh chừng cho anh như chăm bố tôi trên giường bệnh, được chưa? Hy vọng là anh cảm thấy có thể tin tôi sau tất cả những gì chúng ta đã cùng trải qua. Tôi đã phải gánh đòn cho anh nhiều rồi.” Không thấy Cove trả lời. “Được rồi, Randy, hãy cho tôi biết anh cần gì thì mới quay vào Cục và tôi sẽ xem tôi có thể làm gì cho anh.” Vẫn không thấy động tĩnh gì. Bates lầm bầm chửi và lao vọt qua bức tường. Qua khoảng trống anh nhìn thấy cánh cửa dẫn qua bên kia. Anh chạy lại, nhưng cửa đã bị khóa. Anh chạy lại, vòng quanh Hý trường và lao ra ngoài. Nghi lễ đổi gác đã xong và đám đông đã tản bớt ra khắp những lối đi và các khu mộ lớn. Bates đảo mắt nhìn khắp xung quanh, anh biết đã để mất dấu Randall Cove. Dù có vóc người khổng lồ, Cove đã có quá nhiều năm kinh nghiệm để học cách hòa lẫn vào bất kỳ khung cảnh nào.
Bates chỉ kịp nhớ láng máng là anh ta ăn mặc như một người trông coi nghĩa trang hay khách du lịch gì đó. Bates ném tấm bản đồ vào thùng rác và uể oải bỏ đi.
-
Robert E. Lee (1807-1970) Vị tướng lỗi lạc của quân đội miền Nam ly khai trong Nội chiến Mỹ (1861-1865).
-
Acre: khoảng 0,4ha.
-
Khu vực phía nam dãy núi Appalachia, trải dài từ Tây Nam bang Pennsylvania qua Tây Virginia, một phần của Kentucky và Tennessee xuống Tây Bắc Georgia.
Trong Nghĩa trang Quốc gia Arlington, Percy Bates rảo bước từ trung tâm khách tham quan lên con đường lát đá dẫn đến Nhà Custis-Lee. Sau khi tướng Robert E. Lee 1 quyết định ủng hộ quê hương Virginia của mình ly khai khỏi Hợp chủng quốc Hoa Kỳ và đồng ý trở thành người đứng đầu quân đội Miền Nam thay vì đứng dưới lá cờ Sao và Sọc lúc Nội chiến bắt đầu, chính phủ liên bang đã tịch thu ngôi nhà của ông. Giai thoại lịch sử nói rằng chính phủ Tổng thống Lincoln đã đề nghị trả lại điền trang này cho vị tướng Miền Nam ngay trong lúc chiến tranh diễn ra. Tất cả những gì ông phải làm chỉ là đến và nộp tiền thuế cũ. Đến một mình. Tất nhiên là Lee phớt lờ đề nghị của tổng thống Lincoln nên sau đó điền trang này được chuyển thành nghĩa trang danh giá nhất của nước Mỹ. Mẩu chuyện lịch sử đó lúc nào cũng làm cho Bates, vốn sinh trưởng ở bang Michigan, mỉm cười, mặc dù phải nói rằng ngôi nhà giờ đây cũng đã trở thành một nơi để tưởng nhớ tướng Lee và thường được nhắc đến với tên gọi Nhà Arlington.
Bates đến trước Nhà Arlington và phóng tầm mắt nhìn bao quát khắp nơi mà nhiều người đánh giá là phong cảnh đẹp nhất Washington và thậm chí là đẹp nhất cả nước. Từ đây, có thể thấy trọn vẹn thành phố thủ đô của nước Mỹ ngay dưới chân mình. Bates tự hỏi không biết ngày xưa viên tướng Lee già lão có nghĩ vậy mỗi buổi sáng thức dậy và đứng ở đây nhìn ra xung quanh không.
Nghĩa trang trải rộng trên một diện tích là hơn 600 mẫu Anh 2, rải rác khắp nơi là những bia mộ giống hệt nhau bằng đá cẩm thạch trắng. Ngoài ra còn một số công trình tưởng niệm rất trang nhã dành cho những người đã khuất, do những người còn sống hoặc những người biết ơn dựng lên. Tuy nhiên điều ấn tượng nhất với tất cả mọi người mỗi khi đến thăm nơi này chính là biển mộ chí bằng đá cẩm thạch trắng rộng mênh mông, nhìn từ xa trông như mặt đất phủ tuyết trắng xóa ngay cả giữa mùa hè. Nghĩa trang Quốc gia Arlington là nơi an nghỉ cuối cùng của những người lính Mỹ hy sinh khi chiến đấu vì tổ quốc, những vị tướng năm sao, một Tổng thống bị ám sát, bảy vị Chánh án Tòa án tối cao, những nhà thám hiểm, những nhà đấu tranh vì quyền lợi thiểu số tên tuổi, và rất nhiều người khác được xem là đủ tiêu chuẩn được mai táng ở đây. Có tất cả khoảng hai trăm ngàn ngôi mộ và con số đó vẫn tăng với tốc độ mười tám ngôi mộ mới mỗi ngày.
Bates đã đến đây không biết bao nhiêu lần. Đã vài lần anh tham dự tang lễ của bạn bè và đồng nghiệp. Những lần khác anh đến với tư cách là hướng dẫn viên du lịch khi gia đình có khách đến chơi. Một trong những điều anh thích nhất ở đây là xem nghi lễ đổi gác của các quân nhân Sư đoàn ba của Lục quân Hoa Kỳ, họ có nhiệm vụ canh gác suốt ngày đêm bên cạnh mộ những Liệt sĩ Vô danh. Bates kiểm tra đồng hồ. Anh ta sẽ đến kịp nếu khẩn trương.
Khi mới bước vào khu vực những ngôi mộ, Bates có thể thấy là đám đông mỗi lúc một lớn dần, chủ yếu là khách du lịch từ nơi khác đến, lỉnh kỉnh máy ảnh và trẻ con. Người lính gác tại đây đang thực hiện nghi thức cực kỳ chuẩn xác thường ngày của mình: bước đều 21 bước, dừng lại 21 giây, đổi súng từ vai nọ sang vai kia, rồi quay lại theo con đường cũ.
Bates đã nhiều lần tự hỏi không biết khẩu súng trên vai những người lính gác có nạp đạn không. Tuy nhiên, Bates tin rằng nếu có kẻ nào định phá hoại hoặc làm vấy bẩn những ngôi mộ này, thì chắc chắn hắn sẽ nhận được sự trừng trị đích đáng ngay lập tức. Nếu có nơi nào đó đáng được gọi là thiêng liêng trên đất nước này thì phải là đây. Nghĩa trang Quốc gia Arlington có vị trí không kém gì Trân Châu Cảng.
Khi nghi thức đổi gác bắt đầu và đám đông đổ xô lại chụp ảnh. Bates liếc ngang về phía bên trái mình và bắt đầu len lỏi qua những hàng khách du lịch và xuôi xuống những bậc đá. Đổi gác là một nghi lễ rất trang nghiêm, cầu kỳ và tốn khá nhiều thời gian. Khung cảnh đó thu hút sự chú ý của tất cả mọi người, nhưng không phải Percy Bates.
Anh bước xung quanh khu Hý trường Tưởng niệm (Memorial Amphitheater) rộng lớn xây sát gần khu mộ. Bates tiếp tục rảo bước ngang qua Đường Tưởng niệm và đi vòng qua Đài Tưởng niệm Tàu vũ trụ con thoi Challenger. Sau đó anh quay lại và bước vào trong Hý trường. Anh bước tới khu vực sân khấu, nơi có những hàng cột lớn, những trán tường và hàng lan can; tiến sát một bức tường, rút trong túi ra tấm bản đồ, giơ lên và chăm chú tìm kiếm.
Người đàn ông đứng khuất hẳn tầm nhìn của Bates cũng như của bất kỳ ai khác. Anh ta có một khẩu súng đeo trong bao cài bên hông, một bàn tay đặt sẵn trên báng súng ngay cả khi anh ta tiến gần đến chỗ Bates đang đứng. Anh ta đã theo dõi Bates lượn khắp nghĩa trang, để chắc chắn là người đặc vụ FBI chỉ có một mình. Anh ta tiến gần hơn.
“Cứ tưởng anh không tới cho đến khi anh ra tín hiệu cho tôi ở ngoài kia,” Bates nói. Tấm bản đồ hoàn toàn che kín mặt anh. trong trường hợp có ai đó đang theo dõi.
“Phải kiểm tra xem tình hình có bảo đảm không đã,” Randall Cove nói. Anh ta vẫn đứng ẩn mình trong một góc tường.
“Tôi đã kiểm tra kỹ là không có đuôi rồi.”
“Bất kỳ những gì chúng ta có thể làm, thế nào cũng có kẻ khác làm tốt hơn.”
“Điểm đó thì đúng là khó mà cãi được. Tại sao anh lúc nào cũng thích hẹn gặp trong nghĩa trang thế nhỉ?”
“Tôi thích không khí thanh bình và yên tĩnh. Chẳng mấy nơi nào khác có được điều đó” Cove ngừng lại rồi nói tiếp, “Tôi bị gài.”
“Tôi cũng đoán thế. Nhưng ngay lúc này tôi biết đã có sáu người chết, người thứ bảy thì là một dấu hỏi to đùng. Liệu vỏ bọc của anh có bị lộ từ bên trong không? Thay vì giết anh, có lẽ nào chúng cung cấp cho anh những tin giả để gài HRT? Tôi cần những chi tiết thật rõ ràng, Randy.”
“Chính tôi đã có mặt trong tòa nhà chết tiệt đó mà. Tôi vào trong đó với tư cách là một tay chơi tiềm năng cùng với mấy thằng đó và muốn kiểm tra hoạt động của chúng. Tôi đã nhìn thấy bàn ghế, hồ sơ, máy tính, bọn ong ve chạy lăng xăng quanh những con số, tiền mặt, hàng, khắp nơi. Chính mắt tôi đã nhìn thấy mà. Tôi không bao giờ thông báo cho các anh những chuyện như vậy trừ khi tôi đã đích mục sở thị. Tôi có phải là dân mới vào nghề đâu cơ chứ.”
“Tôi biết. Nhưng lúc chúng tôi ập vào thì trong đó chẳng có gì hết. Ngoài tám khẩu súng máy bị bắn nát.”
“Đúng rồi. Bị bắn nát. Cho tôi biết về London đi. Anh có tin anh ta không?”
“Cũng nhiều như tôi tin bất kỳ ai.”
“Anh ta khai thế nào? Tại sao anh ta vẫn còn sống?”
“Tôi không cho là anh ta biết. Anh ta bảo anh ta bị cứng đờ người.”
“Mẹ kiếp, thật là đúng thời điểm quá.”
“Chính anh ta đã hạ những khẩu súng đó. Cứu cả một thằng nhóc.”
“Đó là một thằng nhóc thực sự đặc biệt đấy. Kevin Westbrook.”
“Tôi cũng biết thế.”
“Nghe này, chúng ta đã tiến hành truy lùng ngay thằng Westbrook vì các sếp ở trên nghĩ đã đến lúc hạ bệ hắn để họ có thể khoe khoang với dư luận. Nhưng càng điều tra, tôi càng nhận thấy rằng hắn chỉ là một con cá nhỏ, Perce. Hắn kiếm cũng khá nhưng cũng không phải hàng đại gia. Thằng này không bao giờ nổ súng bậy bạ, khá kín đáo.”
“Nhưng nếu không phải hắn, thì là ai?”
“Có khoảng tám tên trùm bao tiêu ma túy đường phố trong thành phố này và Westbrook chỉ là một trong số đó mà thôi. Về tổng thể bọn chúng phân phối đến cả tấn hàng này chứ không đùa. Nhưng nếu anh cứ nhân con số đó với mỗi khu vực đô thị lớn từ New York xuôi xuống Atlanta thôi thì đã thành một khối lượng khổng lồ rồi.”
“Cái gì, anh đang định nói là có một nhóm kiểm soát tất cả dòng ma túy này à? Không thể nào.”
“Không, tôi đang định nói là tôi nghĩ có một nhóm đang kiểm soát dòng vận chuyển cả Oxycontin từ các khu vực nông thôn và thành thị suốt một dải bờ biển phía Đông.”
“Oxycontin, loại thuốc bán theo đơn ấy à?”
“Chính xác. Chúng gọi nó là heroin nhà quê, vì hoạt động buôn bán trái phép loại thuốc này bắt nguồn từ vùng nông thôn. Nhưng giờ thì nó đã bắt đầu lan ra các thành phố lớn. Anh hiểu chưa. Tiền ở đó mà ra chứ đâu. Dân chơi ở vùng nông thôn quê mùa thì làm gì có nhiều tiền bằng dân chơi thành phố. Đó là một loại morphine tổng hợp dùng cho những người bị đau mãn tính hoặc ốm nặng. Dân nghiện thường nghiền nó ra thành bột để hít, hút, hoặc chích, tác dụng cũng tương tự như heroin.”
“Đúng. Chỉ khác là nó có tác dụng từ từ, vì vậy nếu anh chơi cả một viên theo cách đó mà không chú ý đến thời gian tác dụng của nó khéo mất mạng như chơi.”
“Đã có khoảng 100 người chết vì nguyên nhân này. Tác dụng của nó không mạnh bằng heroin, nhưng lại mạnh gấp đôi morphine và lại là một loại thuốc trong danh mục cho phép, do đó nhiều người tưởng rằng lạm dụng thuốc cũng không gây hại gì. Anh có thể gặp đầy người già bán lẻ từng viên trên phố để lấy tiền trang trải cho số thuốc còn lại trong đơn vì bảo hiểm của họ không thanh toán hết. Nếu không anh phải hối lộ bác sĩ để họ kê thêm thuốc, hoặc đột nhập vào các nhà thuốc và nơi ở của những bệnh nhân dùng thuốc này.”
“Tệ thật.” Bates trầm ngâm.
“Đó là lý do FBI và DEA đã triển khai lực lượng đặc nhiệm chung. Và vấn đề không chỉ là Oxycontin, mà còn cả các loại thuốc trước đây như Percocet và Percodan nữa. Dạo này chỉ cần 10 đến 15 đô là mua được một liều “Perk” ngay trên phố. Nhưng những loại này vẫn không thể sánh được với Oxycontin. Phải cần đến 16 viên Percocet mới phê bằng một viên Oxy 80mg.”
Trong suốt thời gian trò chuyện, Bates đã nhiều lần kín đáo quan sát xung quanh, để kiểm tra xem có ai đang theo dõi không, nhưng chắc chắn là không có ai. Quả thật là Cove đã chọn địa điểm liên lạc rất tốt. Bates kết luận, vì không ai có thể nhìn thấy anh, hơn nữa với cách đứng quay mặt vào tường và giơ tấm bản đồ lên, trông anh chẳng khác nào một khách du lịch bình thường đang hỏi đường.
Bates nói “Hừm, tất nhiên là chính phủ kiểm soát việc phân phối các loại thuốc gây nghiện, cho nên chỉ cần phát hiện thấy một bác sĩ và một nhà thuốc xuất ra hàng chục viên thuốc cùng loại là có dấu hiệu báo động ngay, nhưng tất nhiên là chúng hoàn toàn có thể nhập lậu hàng từ nước ngoài vào.”
“Đúng vậy.”
“Tại sao tôi lại không hề biết gì về cái vụ Oxycontin này nhỉ Randy?”
“Vì tôi cũng chỉ mới vừa phát hiện ra. Lần đầu tiên tiếp xúc, tôi không hề biết rằng tôi đang dây dưa vào một đường dây buôn bán Oxy. Tôi cứ đinh ninh đó là loại cocain hay heroin như bình thường. Nhưng rồi tôi bắt đầu mắt thấy tai nghe nhiều chuyện. Phần lớn loại ma túy này được chuyển đến trong những túi nhỏ dọc một dải Appalachia 3. Trước nay nó vẫn chỉ dừng lại ở quy mô buôn bán nhỏ lẻ, chủ yếu là giữa những bệnh nhân từng dùng thuốc rồi bị nghiện. Nhưng tôi bắt đầu cảm thấy có một thế lực duy nhất đang tìm cách thâu tóm tất cả những hoạt động này lại và vươn vòi ra những thành phố lớn. Anh hiểu chưa, đó là bước tiếp theo. Đây có thể là nguồn lợi cực kỳ béo bở và có kẻ đã nhận ra điều đó. Đưa nó lên đúng theo tiêu chí của một hoạt động buôn bán ma túy thực sự nhưng với mức lợi nhuận tăng gấp ba lần những gì mà các băng nhóm khác đang làm trong khi rủi ro lại thấp hơn nhiều. Chúng ta cần tìm bọn này. Đó thực sự chính là bọn mà tôi nghĩ đã hoạt động trong tòa nhà mà HRT tấn công vào. Tôi đã đinh ninh rằng chúng ta có thể đập tan đường dây đó nếu giữ trong tay bọn kế toán tay hòm chìa khóa của chúng. Hơn nữa việc chúng bố trí một dạng ngân hàng hoán đổi tiền trong lòng một thành phố lớn là điều hoàn toàn bình thường.”
“Vì nếu ở vùng nông thôn thì những hoạt động kiểu này sẽ bị lộ ngay,” Bates nói nốt ý nghĩ của anh ta.
“Anh hiểu đúng rồi. Hơn nữa chúng có động cơ cực lớn. Anh hoàn toàn có thể bán một triệu viên thuốc mỗi tuần với giá trị bán lẻ trên phố lên đến 100 triệu; hừm, anh hiểu ý tôi chứ.”
“Nhưng cho dù kẻ đang kiểm soát loại hàng này là ai chăng nữa thì chúng cũng chẳng có động cơ nào trong việc gài bẫy một đơn vị HRT. Hành động đó sẽ chỉ gây khó khăn không cần thiết cho chúng. Tại sao chúng phải làm vậy?”
“Tất cả những gì tôi có thể nói với anh là những hoạt động tôi chứng kiến trong tòa nhà đó chẳng liên quan gì đến Westbrook hết. Quy mô cực lớn. Cực kỳ nhiều hoạt động, tầm của hắn không thể bao quát được. Nếu tôi mà cho rằng đó chỉ là Westbrook, chẳng bao giờ tôi phải bảo các anh huy động HRT làm gì. Nếu vậy thì có chăng chúng ta cũng chỉ tóm được con cá nhỏ, cá lớn thì nhảy ra khỏi lưới rồi. Nói đi thì phải nói lại, đúng là Westbrook đang phân phối loại hàng đó ở D.C, cùng với những băng nhóm khác. Nhưng bằng chứng cụ thể thì tôi chưa có. Thằng này khôn như ma và biết rất nhiều.”
“Ừ, nhưng anh đã tiếp cận được với một thằng trong băng của hắn còn gì. Cực kỳ giá trị đấy.”
“Đúng vậy, nhưng trong công việc mà tôi đang làm hôm nay mà hớt lẻo ngày mai sẽ chết lả chuyện thường tình.”
“Vậy là có kẻ thực sự dựng lên cả một sân khấu hoành tráng là cái nhà kho đó để chứng tỏ chúng có một đường dây ma túy khổng lồ. Anh có biết gì không?”
“Không. Sau khi chuyển tin đó cho các anh và vụ tấn công được ấn định thì chắc kẻ chơi tôi cũng đã quyết định là không cần thằng Randall Cove già nua này nữa. Tôi nghĩ là tôi đã quá may khi còn sống. Perce. Đúng ra tôi đang tự hỏi tại sao tôi còn sống.”
“Web London cũng vậy. Tôi cho là sau một vụ thảm sát thì những chuyện như thế cũng dễ hiểu.”
“‘Không, ý tôi là đã có kẻ thực sự tìm cách loại tôi sau vụ tấn công của HRT. Tôi mất toi chiếc Bucar và rạn mất vài chiếc xương sườn.”
“Lạy Chúa, sao anh không thông báo gì cho chúng tôi? Anh phái vào trong Cục thôi, Randy. Phải trình bày lại toàn bộ sự việc để chúng tôi tiến hành điều tra.” Bates lại nhìn xung quanh. Câu chuyện đang kéo dài quá lâu. Anh sẽ phải rảo bước thôi. Không thể cứ đứng mãi một chỗ với cái bản đồ Nghĩa trang nếu không muốn tạo sự nghi ngờ. Nhưng anh không muốn đi mà không có Randall Cove.
“Đừng hòng bắt tôi làm như thế, Perce,” Cove gằn giọng trả lời làm Bates bất giác phải hạ tấm bản đồ xuống. “Tôi không làm thế đâu, vì tôi biết vụ này có dính dáng rất sâu.”
“Chính xác thì ý anh là sao?” Bates hỏi, giọng anh tỏ ra hơi cáu kỉnh.
“Ý tôi là vụ này bắt đầu từ bên trong và tôi sẽ không liều giao phó mạng mình vào tay người khác trừ khi tôi biết chắc không có chuyện gì.”
“Đây là FBI, Randy, có phải KGB đâu.”
“Có thể là thế với anh. Lúc nào anh cũng là người bên trong, Perce. Còn tôi tôi gần như là người ngoài. Bây giờ tôi vào trong mà không biết chuyện gì đã xảy ra, thế rồi đột nhiên họ không bao giờ tìm thấy tôi nữa thì sao. Tôi biết thừa là đầy kẻ trong Cục nghi tôi đứng sau chuyện của HRT”
“Đúng là điên.”
“Thì cũng điên như vụ sáu anh chàng xấu số kia bỏ mạng chứ gì? Nếu không có thông tin của tôi thì làm sao họ phải chết?”
“Chuyện không may như vậy vẫn xảy ra trong công việc của chúng ta mà.”
“Ok, vậy là anh đang nói với tôi rằng anh không nhận ra chuyện gì đáng ngờ đây à? Những điệp vụ thất bại thảm hại, năm ngoái thì có hai đặc vụ chìm bị giết, những đội đột kích của Cục đến hiện trường thì hầu như chẳng còn ma nào ở lại, dân buôn ma túy đã cao chạy xa bay vì có người đánh động cho chúng. Tôi cam đoan là trong Cục có một con chuột thối tha cỡ bự đang bán rẻ mạng sống của nhiều đồng đội, trong đó có cả cái mạng của tôi đây này!”
“Đừng có mà vẽ lên những giả thuyết âm mưu hoang tưởng ấy với tôi, Randy.” Giọng Cove trở nên bình tĩnh hơn. “Tôi muốn đến để anh biết rằng tôi không hề liên quan đến vụ này. Anh cứ tin lời tôi vì ngay lúc này tôi cũng không thể chứng tỏ gì hơn được. Hy vọng là sau này sẽ có.”
“Vậy là anh đang có dự định nào đó phải không?” Bates gặng hỏi. “Nghe này, Randy, được rồi, tôi tin anh, nhưng tôi còn phải trả lời câu hỏi trước nhiều người khác. Tôi hiểu nỗi lo lắng của anh, quá nhiều chuyện tồi tệ đã xảy ra, và chúng tôi đang cố xác định nguồn tin rò rỉ, nhưng anh cũng phải hiểu cho nỗi lo lắng của tôi chứ.” Anh ngừng lại. “Mẹ kiếp. Thôi được rồi, tôi sẽ làm tất cả để cam đoan với anh rằng nếu anh quay vào Cục, tôi sẽ canh chừng cho anh như chăm bố tôi trên giường bệnh, được chưa? Hy vọng là anh cảm thấy có thể tin tôi sau tất cả những gì chúng ta đã cùng trải qua. Tôi đã phải gánh đòn cho anh nhiều rồi.” Không thấy Cove trả lời. “Được rồi, Randy, hãy cho tôi biết anh cần gì thì mới quay vào Cục và tôi sẽ xem tôi có thể làm gì cho anh.” Vẫn không thấy động tĩnh gì. Bates lầm bầm chửi và lao vọt qua bức tường. Qua khoảng trống anh nhìn thấy cánh cửa dẫn qua bên kia. Anh chạy lại, nhưng cửa đã bị khóa. Anh chạy lại, vòng quanh Hý trường và lao ra ngoài. Nghi lễ đổi gác đã xong và đám đông đã tản bớt ra khắp những lối đi và các khu mộ lớn. Bates đảo mắt nhìn khắp xung quanh, anh biết đã để mất dấu Randall Cove. Dù có vóc người khổng lồ, Cove đã có quá nhiều năm kinh nghiệm để học cách hòa lẫn vào bất kỳ khung cảnh nào.
Bates chỉ kịp nhớ láng máng là anh ta ăn mặc như một người trông coi nghĩa trang hay khách du lịch gì đó. Bates ném tấm bản đồ vào thùng rác và uể oải bỏ đi.
Robert E. Lee (1807-1970) Vị tướng lỗi lạc của quân đội miền Nam ly khai trong Nội chiến Mỹ (1861-1865).
Acre: khoảng 0,4ha.
Khu vực phía nam dãy núi Appalachia, trải dài từ Tây Nam bang Pennsylvania qua Tây Virginia, một phần của Kentucky và Tennessee xuống Tây Bắc Georgia.