Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Tay súng cuối cùng

Chương 44

Tác giả: David Baldacci

Sau khi thất bại trong việc lần ra nguồn gốc của đường dây cung cấp Oxy và các loại thuốc bán theo đơn chứa chất gây nghiện khác vào khu vực D.C, Randall Cove đã thay đổi chiến lược và quyết định tấn công từ phía đầu nhận thay vì đầu cung cấp. Anh đã sử dụng những gì mà tên chỉ điểm T phun ra để bám theo một băng đảng buôn ma túy mà theo T là gần đây chúng đã chuyển sang kinh doanh các loại thuốc gây nghiện kia. Kể ra cũng thật ngỡ ngàng trước những kết quả mà bạn có thể nhận được từ một tên chỉ điểm khi bạn dốc ngược đầu hắn trên miệng vực sâu hơn ba chục mét. Cove đã suy ra rằng sẽ có lúc chúng cần nhận thêm hàng. Chiến thuật này đã đưa anh đến đây đêm nay, và anh cũng hy vọng nó sẽ sớm mang lại những kết quả khả quan nhất.

Đó là một khu rừng rậm rạp, Cove len lỏi qua những hàng cây mọc ken dày một cách cực kỳ lặng lẽ. Đến bìa rừng thì anh dừng lại, ngồi thụp xuống và quan sát địa hình phía trước. Những chiếc xe đang đỗ trên một con đường đất uốn lượn qua các vạt rừng nằm giữa ranh giới hai bang Kentucky và Virginia. Nếu như Cove có thể gọi ai đó đến yểm trợ hẳn anh đã làm rồi. Thậm chí anh đã nghĩ đến việc gọi cho Venables, nhưng những gì Sonny làm đã là quá đủ, anh ta còn có vợ con, hơn nữa chỉ một thời gian nữa là nghỉ hưu. Cove không đời nào làm hỏng viễn cảnh yên ả đó của bạn mình. Cove là đặc vụ chìm can đảm, quá quen với những tình huống nguy hiểm nhất có thể, nhưng xưa nay lúc nào cũng chỉ có một ranh giới mong manh giữa can đảm và ngu ngốc, và cho đến lúc này Cove vẫn luôn chọn đúng bên cần đứng.

Cove thụp đầu xuống thấp hơn và nhìn thấy vài tên đang túm tụm lại quanh một chiếc xe. Anh rút trong túi ra chiếc ống nhòm hồng ngoại nhìn đêm để quan sát thật rõ. Những gói nhỏ bọc nhựa mà chúng bưng trên tay càng củng cố thêm mối nghi ngờ của Cove. Đó không phải là những bánh côcain mà trông giống như hàng nghìn lọ thuốc nhỏ. Cove lấy ra chiếc máy ảnh không có đèn flash và bấm nhanh vài bức ảnh, sau đó anh phân vân không biết nên làm gì tiếp theo. Trước mặt anh lúc này có ít nhất là năm tên, tất cả đều mang vũ khí. Lao ra thực hiện việc bắt giữ chúng lúc này là quá nguy hiểm và ngu xuẩn. Trong lúc còn đang phân vân phải làm gì tiếp theo, Cove không nhận thấy một điều là gió đã hơi đổi hướng. Thật ra anh chỉ nhận ra điều đó khi con chó vẫn nằm nép mình bên chiếc xe bán tải bên ngoài tầm quan sát của Cove, hộc lên một tiếng rồi bứt khỏi chiếc xe và lao thẳng về phía anh.

Cove lầm bầm rủa thầm, quay người và lao vọt vào trong rừng. Tuy nhiên, con chó đang mỗi lúc một tiến sát phía sau Cove, và hai đầu gối từng bị đứt dây chằng của anh không còn thích hợp với trò đuổi bắt này nữa. Anh còn nghe thấy những âm thanh khác khiến hy vọng trốn thoát của anh chọi tan biến hết. Có vài con vật hai chân khác cũng đang từ trước mặt anh chạy lại.

Chúng dồn anh vào một góc rừng lầy lội. Con chó lao thẳng vào Cove, những chiếc năng của nó nhe ra trắng nhởn, Cove nâng súng lên và bắn chết con chó ngay phát đầu tiên. Nhưng đó cũng là phát súng cuối cùng anh có thể bắn, vì ngay lập tức đã có cả một biển súng ngắn chĩa thẳng vào anh. Cove giơ súng lên trời, đầu hàng.

“Thả súng xuống,” một kẻ truy đuổi anh lạnh lùng nói, và Cove thả súng xuống đất.

Bọn chúng tiến lại, thột tên lục soát người Cove, tước nốt khẩu súng anh giấu trong tay áo khoác, và lấy luôn cả chiếc máy ảnh.

Nemo Strait quỳ xuống bên con chó và dịu dàng vuốt ve nó. Sau đó hắn ngẩng đầu lên nhìn Cove với ánh mắt căm thù khiến anh có cảm giác anh vừa cắt cổ mẹ hắn thì đúng hơn. Strait từ từ nâng súng lên, bước lại gần và rít lên.

“Tao đã nuôi con Old Cuss được sáu năm nay. Một con chó khôn như quỷ!”

Cove lặng thinh. Một tên khác lấy báng súng giáng mạnh vào lưng anh nhưng Cove chỉ bật ra một tiếng rên khe khẽ.

Strait tiến sát lại và nhổ bọt vào mặt Cove. “Quỷ tha ma bắt tao đi vì đã không kiểm tra xem mày chết thật chưa khi bọn tao xô xe mày xuống triền dốc đó. Lẽ ra mày phải coi đó là ngày may mắn nhất của đời mình và biến đi mới phải.”

Cove vẫn không nói gì, nhưng anh kín đáo khẽ nhích lại gần Strait hơn một chút. Anh liếc nhìn những tên xung quanh. Bọn mua hàng đêm này đều là dân da đen từ thành phố đến. Nhưng Cove không hy vọng gì nhận được sự giúp đỡ của những kẻ có cùng màu da với mình. Trong thế giới của bọn tội phạm thì tiền vượt trên tất cả các giá trị khác.

Strait ngoái đầu lại nhìn qua vai mình, về phía chiếc rơ moóc chở ngựa với con Bobby Lee trên đó, rồi quay lại đối mặt với tù nhân của mình và mỉm cười độc địa.

“Thằng này, lúc nào mày cũng thích chĩa mũi vào chuyện của người khác thế à? Hả?” Hắn ấn khẩu súng vào má Cove và đẩy mạnh nòng súng lạnh toát vào thịt anh. “Hãy trả lời khi tao hỏi mày nào?”

Câu trả lời của Cove là một bãi nước bọt vào giữa mặt hắn.

Strait giơ tay chùi mặt và ấn nòng súng vào thái dương Cove. “Mày chết rồi con ạ.”

Mũi dao phóng thẳng ra từ chính ống tay áo mà Cove đã giấu khẩu súng thứ hai. Kinh nghiệm của anh là không kẻ nào lại mất công lục soát tìm thêm vũ khí tại chính vị trí mà hắn đã phát hiện ra một thứ trước đó.

Nhát đâm của Cove nhắm vào tim, những lớp bùn lỏng phía dưới làm anh hơi trượt chân, và Strait cũng nhanh hơn Cove tưởng, con dao chệch đi một chút và cắm ngập vào vai Strait. Hắn ngã lăn ra vũng nước bùn nhớp nháp, mang theo cả con dao cắm trong vai.

Cove đứng lạng người trừng trừng nhìn những tên đứng vây quanh mình.

Trong một khoảnh khắc chỉ một phần nghìn giây thế giới chợt như dừng lại trước mắt Cove. Anh nhìn thấy vợ và con đang chạy tới chỗ anh đang đứng giữa một cánh đồng mênh mông bát ngát hoa, nụ cười rạng rỡ trên mặt họ và những vòng tay giang rộng như xua tan tất cả những gì tồi tệ đang xảy ra với anh trong cả cuộc đời. Và có quá nhiều điều thật đáng quên đi.

Rồi súng đồng loạt nổ. Cove dính nhiều phát đạn vào người và gục xuống. Đúng lúc đó tất cả bọn kia đều ngẩng mặt lên trời vì chúng chợt nghe thấy tiếng trực thăng đang phành phạch bay tới. Vài giây sau, ánh đèn pha cực mạnh quét sáng trưng trên những ngọn cây.

Strait đứng bật dậy. “Biến khỏi đây mau.”

Dù vết thương khá nặng, Strait vẫn đủ sức bê con chó chết của hắn lên và đưa nó đi. Chưa đến một phút sau toàn bộ chỗ đó đã trống trơn không một bóng người. Chiếc trực thăng bay vọt qua, rõ ràng là phi hành đoàn trên đó hoàn toàn không hay biết những gì diễn ra bên dưới. Hóa ra Strait đã bị thần hồn nát thần tính – chiếc trực thăng chỉ đang vận chuyển một nhóm doanh nhân trở về nhà sau một cuộc họp muộn.

Khi khung cảnh khu rừng ban đêm đã yên ắng trở lại, trong bóng tối đen đặc bỗng bật lên một tiếng rên khe khẽ. Randall Cove cố gượng dậy, nhưng mặc dù là người khỏe như voi, anh cũng không nhúc nhích được thêm chút nào. Chiếc áo giáp anh mặc trong người đã hứng trọn ba trong số năm viên đạn. Hai viên còn lại đã xuyên vào trong người anh. Cove ngã vật xuống đất, máu từ các vết thương ứa ra nhuộm đỏ cả vũng nước xung quanh.

°

Claire Daniels đang làm việc rất khuya trong văn phòng. Cửa ngoài đã khóa, hơn nữa tòa nhà lại có nhân viên an ninh bảo vệ, nên dù sao cô cũng cảm thấy ở đây còn an toàn hơn so với khách sạn nơi cô đang ở. Người bạn dược sĩ vừa thông báo cho cô về kết quả phân tích viên thuốc lạ lẫm mà cô lấy từ chỗ Web. Claire cứ đinh ninh đó phải là một loại thuốc an thần cực mạnh vì cô vẫn nghĩ rằng rất có thể việc Web bị tê liệt toàn thân trong con hẻm đó là hậu quả của sự tương tác thuốc. Bình thường thì giả thuyết này nghe có vẻ nực cười, nhưng ít nhất thì lúc này nó lại rất khớp với những gì cô có, hơn nữa cũng chẳng còn cách giải thích nào khả dĩ hơn thế cả. Tuy nhiên, cú điện thoại trả lời đã thay đổi tất cả.

“Đó chỉ là một loại thuốc trấn an 1,” người bạn đã khẳng định với cô. “Giống như những gì họ vẫn dùng cho các nhóm người tình nguyện khi thử nghiệm thuốc.”

Một loại thuốc trấn an? Claire ngỡ ngàng không tin vào tai mình. Tất cả những viên còn lại không có gì đặc biệt.

Giờ đây, ngồi trong văn phòng, Claire cố tìm câu trả lời cho tất cả. Nếu không phải do hậu quả của tương tác thuốc thì là gì mới được chứ? Cô không muốn tin rằng Kevin Westbrook đã đặt một lời nguyền lên Web với câu nói “quỷ tha ma bắt mày xuống địa ngục đi.” Tuy vậy, rõ ràng là những từ đó đã tác động tới Web. Hay chỉ vì anh đã kiệt sức?

Claire chăm chú xem lại những cuốn sổ ký họa của Westbrook mà Web đã để cô giữ. Bức vẽ có hình ảnh Kevin với chiếc điều khiển từ xa đã được chuyển thẳng cho FBI, trong những cuốn sổ còn lại không còn bức vẽ nào tương tự như vậy. Claire nghiên cứu những bức vẽ mà cô có lúc này, phải công nhận là nhiều bức tranh được vẽ rất tinh tế. Thằng bé quả là có tài năng nghệ thuật thiên bẩm.

Không thấy trang nào trong những cuốn sổ ký họa có nhắc đến dòng chữ “Quỷ tha ma bắt mày xuống địa ngục đi”. Lẽ nào lại dễ dàng đến thế, Claire nghĩ bụng. Cô lại miên man suy nghĩ về những từ đó. Nghe chúng có vẻ cổ xưa thế nào ấy – từ thời Nội chiến chăng, có khi còn trước đó cũng nên. “Quỷ tha ma bắt lũ ngư lôi đi, tăng tốc tối đa nào,” theo giai thoại thì đó là câu nói nổi tiếng của Đô đốc Farragut trong một trận giao tranh trên biển của hải quân hai miền.

Claire viết lại những từ đó trên một mảnh giấy. Vậy là Web cho rằng những từ đó có xuất xứ từ thời Nội chiến. Nô lệ, da đen và da trắng. Những kẻ cuồng tín da trắng. Cô cau mày khi ý nghĩ đó xuất hiện trong đầu, nhưng rồi đột nhiên mọi chuyện thật rõ ràng.

Bọn Hội Tự Do chăng? Quỷ tha ma bắt mày xuống địa ngục đi. Cô nhìn chăm chăm vào máy tính trên bàn. Rất có thể chứ. Thêm vài cái nhấp chuột và chỉ sau hai phút cô đã có câu trả lời. Bọn Hội Tự Do còn có hẳn một website. Một công cụ tuyên truyền kinh tởm sặc mùi thù hận mà có lẽ chúng sử dụng để tuyển mộ những tên ngu xuẩn và có tâm hồn quỷ dữ như chúng vào hàng ngũ. Và khi cô nhìn thấy nó, hơi thở của Claire như đông cứng lại nơi cổ họng.

Đúng lúc đó cả văn phòng của cô vụt tối om. Sự trùng hợp ngẫu nhiên giữa vụ mất điện và những gì Claire vừa chứng kiến khiến cô bàng hoàng hét toáng lên. Hét xong, cô vội vàng chụp lấy điện thoại và gọi xuống quầy của đội bảo vệ phía trước tòa nhà.

Giọng trả lời đầy bình tĩnh của người bảo vệ vang lên ở đầu dây bên kia, cô vội vã giải thích chuyện vừa xảy ra.

“Chắc không phải mất điện toàn tòa nhà đâu, tiến sĩ Daniels. Dưới này đèn vẫn sáng mà. Có lẽ là do cầu dao nào đó bị sập xuống thôi. Bà có muốn tôi lên đó không?”

Cô nhìn ra cửa sổ và thấy những tòa nhà xung quanh vẫn còn sáng điện. “Không, không sao đâu. Hình như tôi có một chiếc đèn pin thì phải. Nếu đúng như anh bảo thì tôi chỉ cần kéo cầu dao lên là xong.”

Cô gác máy, lục lọi trong ngăn bàn và cuối cùng cũng tìm thấy chiếc đèn pin, rồi lần mò tìm đường ra khỏi văn phòng, bước qua khu vực tiếp tân. Cô bước tới cuối hàng lang nơi có căn phòng nhỏ đặt thiết bị, bên trong là tủ điện và vặn tay nắm. Cửa bị khóa. Lạ thế nhỉ, cô nghĩ bụng, nhưng cô chợt nhớ ra là trong này còn có cả những đầu giắc cắm hệ thống điện thoại và thiết bị an ninh của cả tòa nhà, những đường dây như vậy cần được bảo vệ cẩn thận, tránh mọi sự can thiệp không cần thiết. Nhưng nếu vậy cô làm cách nào để kéo cầu dao lên bây giờ? Cô tính đến chuyện thu dọn đồ đạc và quay về khách sạn, nhưng toàn bộ giấy tờ ghi chép cô đều để ở văn phòng này, hơn nữa cô cũng không có máy tính xách tay để truy cập Intemet từ khách sạn.

Cô rọi đèn run lên ổ khóa. Trông nó không có vẻ gì đặc biệt. Claire vào căn bếp nhỏ dùng chung và tìm thấy một chiếc tuốc nơ vít. Cô quay ra cửa phòng thiết bị, kẹp chiếc đèn pin dưới nách và loay hoay cạy khóa tủ. Mất khoảng năm phút, chiếc khóa cũng bung ra và cô mở được cánh cửa. Cô rọi đèn vào trong và chăm chú nhìn quanh. Chỉ vài giây sau cô đã nhìn thấy chiếc tủ điện, và quả thật là cầu dao mạch điện chính đã sập xuống từ lúc nào. Cô gạt nó lên và đèn lại vụt sáng trở lại. Claire đang định đóng cánh cửa tủ thiết bị thì có gì đó khiến cô chú ý. Đó là một thiết bị nhỏ được nối vào đường dây điện chạy thẳng lên bề mặt tường. Claire cũng không biết nhiều về kỹ thuật, nhưng cô vẫn có cảm giác chi tiết này có gì đó hơi khác thường, kiểu như một con rệp nghe trộm vậy.

Rất có thể là bởi vì những gì cô vừa phát hiện, hoặc cũng có thể là cô đột nhiên trở nên hoang tưởng, nhưng chỉ trong tích tắc, ý nghĩ đó chợt lóe lên trong đầu. Cô lao vội ra khỏi phòng thiết bị, không kịp nhìn thấy một nút bấm không dây bé xíu gắn trên khe cửa đã tự động kích hoạt mỗi khi có người mở cánh cửa phòng thiết bị.

Cô chạy về văn phòng và nhìn quanh phòng. Ánh mắt cô lướt từ sàn nhà lên các mảng tường, rồi cuối cùng là trần nhà và dừng lại. Cô chộp lấy chiếc ghế ở bàn làm việc của mình, tụt giầy và đứng lên mặt ghế để với tay lên thiết bị báo cháy gắn trên trần. Cô đã làm việc quá lâu với những bệnh nhân trong ngành thực thi luật pháp để biết rằng thiết bị báo cháy trên trần nhà là một nơi lý tưởng để cài đặt máy nghe trộm. Cô giật thiết bị báo cháy xuống, và hình như trong khoảng trống trên trần vẫn còn một đường dây điện trông có vẻ rất đáng ngờ. Liệu nó chỉ có trong văn phòng của cô, hay những người khác cũng bị cài máy nghe trộm nhỉ?

Cô để nguyên thiết bị báo cháy lủng lẳng trên trần, nhảy khỏi ghế và chạy một mạch sang văn phòng bên cạnh, đó là văn phòng của O’Bannon.

Cửa cũng khóa; tuy nhiên, đó là loại khóa giống hệt chiếc khóa cô đã phá trên cửa phòng thiết bị. Với chiếc tuốc nơvít trên tay, một lần nữa cô lại thành công. Cô bước vào trong, bật công tắc đèn và ngước lên trần. Ở đây cũng gắn một thiết bị báo cháy. Cô giật nó xuống và tìm thấy đoạn dây đáng ngờ kia. Claire đang định chạy sang văn phòng tiếp theo thì cô chợt trông thấy tập hồ sơ mở toang trên bàn.

Tất cả những bản năng và đạo đức nghề nghiệp trong Claire lúc này đều lên tiếng phản đối việc cô đọc hồ sơ của một đồng nghiệp khác, nhưng đây lại là trong hoàn cảnh cực kỳ cấp bách, cô tự nhủ.

Cô cầm tập hồ lên. Cái tên được ghi trên đó là Deborah Riner. Web đã nhắc đến tên người phụ nữ này, người vợ góa của một trong những đồng đội của anh. Cô vội vàng lia mắt qua rất nhiều trang tài liệu trong tập hồ sơ. Vậy là Riner đã đến điều trị ở chỗ O’Bannon từ khá lâu và thường xuyên. Điều khiến Claire ngạc nhiên nhất là số lượng lời chú thích cho các lần thôi miên mà hai người đã tham gia. Hóa ra hầu như lần nào người phụ nữ đến đây O’Bannon cũng đều thôi miên cô ta.

Điều gì đó cực kỳ khủng khiếp bắt đầu hiện ra trong đầu Claire khi cô nhận ra vài dấu mốc ngày tháng mà Riner đã đến đây. Một trong những mốc khiến Claire choáng váng nhất chính là thời điểm ba ngày trước khi xảy ra vụ thảm sát của đội Charlie trong con hẻm đó.

Cô đặt tập tài liệu xuống và bước đến ngăn tủ đứng hồ sơ. Ngăn tủ này cũng khóa, nhưng là loại khóa rẻ tiền và rất yếu, Claire nhanh chóng cạy tung nó ra bằng chiếc tuốc nơ vít, lần này thì cô không còn bận tâm đến đạo đức nghề nghiệp gì nữa. Claire bắt đầu lôi từng tập hồ sơ ra. Rất nhiều đặc vụ FBI và vợ hoặc chồng họ có tên trong những tập hồ sơ này, họ đến từ đủ mọi bộ phận và cơ quan trong Cục. Cô xem lướt qua vài bộ hồ sơ. Cũng giống như Riner, hầu như tất cả mọi người đều được O’Bannon thôi miên rất nhiều lần.

Những ý nghĩ vụt chạy qua trong đầu Claire. Thôi miên là một điều lạ lùng. Trong những hoàn cảnh đặc biệt và hiếm hoi, bạn có thể dùng nó để sai khiến người khác làm điều gì đó mà bình thường họ sẽ không làm.

Nhưng còn điều khác bạn cũng có thể làm là đưa người đó vào trạng thái thôi miên, giúp họ cảm thấy hoàn toàn thả lỏng, thư thái và tin tưởng để rồi khéo léo khai thác thông tin về những gì người đó hoặc đặc vụ đó đang làm – hoặc như trong trường hợp của vợ hoặc chồng của một đặc vụ thì sẽ là những gì mà chồng hoặc vợ của họ đang làm. Claire có thể hình dung ra cảnh O’Bannon quỷ quyệt đang lợi dụng một Debbie Riner yếu đuối và trầm cảm, lại ở trong trạng thái thôi miên để moi ra bất kỳ chi tiết nào cô biết về công việc của chồng mình. Bao gồm cả thông tin về những mục tiêu HRT sắp tấn công và thời điểm hành động chính xác, trong trường hợp Teddy Riner tâm sự với vợ về công việc của mình. Và trong thực tế là có rất nhiều người đàn ông làm vậy, cho dù điều đó trái với quy định của ngành. Claire biết thừa một điều rằng rất nhiều cuộc hôn nhân chẳng bao giờ đếm xỉa gì đến quy chế và chính sách, với mục đích cao nhất là giữ không khí hòa thuận trong gia đình. Hoặc cũng có thể đơn giản chỉ là một thành viên nào đó của HRT đã lỡ lời để cho vợ biết, rồi sau đó người vợ trong trạng thái bị thôi miên sẽ vô thức làm lộ thông tin đó.

Mọi chuyện trở nên quá dễ dàng đối với một chuyên gia tâm thần nhiều kinh nghiệm như Ed O’Bannon. Và, giống như cô đã làm với Web, chắc chắn lúc nào O’Bannon cũng đưa ra một câu ám thị hậu thôi miên được xây dựng thật tinh vi để xóa sạch khỏi trí nhớ của bất kỳ ai những gì đáng ngờ đã xảy ra trong trạng thái thôi miên – kể cả thực tế bản thân rằng họ đã bị ông ta thôi miên. Lạy Chúa tôi, Claire sợ hãi nghĩ thầm, rất có thể chính Debbie Riner đã vô tình tiếp tay cho việc giết chồng mình.

Và quan trọng hơn cả, chính những thiết bị nghe trộm kia đã ghi lại tất cả thông tin tuyệt mật mà các bệnh nhân đã tiết lộ khi đến đây. Những thông tin giá trị có thể được sử dụng để tống tiền họ, hoặc cài người khác vào bẫy, giống như chuyện xảy ra với đội của Web. Dù không nói rõ các chi tiết, nhưng Web đã bóng gió nói rằng tình hình trong Cục thời gian qua có nhiều bung bét vì rò rỉ thông tin. Và nếu như nhận định của Claire về điều O’Bannon đang làm là đúng thì rất có thể tay bác sĩ tâm thần kia đứng đằng sau tất cả những chuyện này.

Đang chăm chú lục lọi ngăn tủ đứng hồ sơ, Claire chợt nhận ra là trong đó thiếu một thứ. Bên dưới ngăn dành cho chữ L có vài tập hồ sơ của các bệnh nhân có họ bắt đầu với chữ cái trên. Nhưng vẫn còn một ô hồ sơ lớn nhưng trống rỗng còn để nguyên. Claire tự hỏi không biết đó có phải là chỗ từng đặt hồ sơ của Web không. Nhưng tập hồ sơ mà O’Bannon chuyển cho cô lại quá mỏng và lèo tèo, trong khi cái ô trống mà cô đang nhìn lúc này lại rất rộng, trừ phi ông ta không đưa cho cô toàn bộ tập hồ sơ. Có lẽ nào ông ta đã giấu cô phần lớn số tài liệu còn lại nhỉ? Cô biết rõ O’Bannon là một người cực kỳ tự tin, thậm chí phải nói là kiêu ngạo. Trong suy nghĩ của ông ta thì chẳng có ai là khôn ngoan hay kinh nghiệm hơn bản thân mình hết. Rất có thể ông ta đã giấu giếm thông tin để khiến cô hoang mang, lạc hướng. Nhưng biết đâu ông ta còn có một lý do khác lớn hơn, vượt trên cả sự tự phụ về nghề nghiệp, khi cứ khăng khăng đòi giữ Web làm bệnh nhân của mình?

Cô vội vàng lục lọi khắp văn phòng. Cô kiểm tra một lượt qua bàn làm việc của ông ta và bất kỳ chỗ nào có thể làm nơi cất giấu những thông tin kia nhưng vẫn không phát hiện được gì. Claire lại ngẩng đầu lên. Mọi phòng làm việc trong tòa nhà này đều có trần rỗng, bọc bằng những mảng xốp nhẹ. Cô trèo lên ghế một lần nữa, lấy đèn pin đẩy tung một tấm xốp ốp trần ra. Cô kiễng chân lên và có thể nhìn thấy phía trên mảng trần.

Claire lia đèn pin ra xung quanh khoảng trần kín bên trong và ngay lập tức cô trông thấy một chiếc hộp nhỏ được đặt trên khung kim loại của cả mảng trần. Cô dịch chiếc ghế về phía đó và nhanh chóng nhấc chiếc hộp xuống. Bên trong là tất cả những gì còn lại trong bộ hồ sơ của Web. Dù chỉ vội vàng xem lướt qua, Claire cũng nhận ra rằng cô vừa phát hiện ra cả một kho báu. Cô lắc đầu không tin nổi vào mắt mình khi với mỗi trang tài liệu lại là một phát hiện động trời.

Cô biết rằng O’Bannon là người có đầu óc tổ chức đến mức gần như máy móc, trước kia thói quen này từng là chủ đề đùa vui của hai người. Và bao giờ ông ta cũng ghi chép rất tỉ mỉ. Những bản ghi chép này, dù được viết bằng mật ngữ mà một người bình thường chắc chắn không thể nào hiểu nổi, nhưng cũng đủ cho Claire nhận ra rằng ông ta đã thôi miên Web không biết bao nhiêu lần. Và mỗi lần như vậy O’Bannon đều dùng đến một câu ám thị hậu thôi miên nào đó, giống như Claire đã làm, để chôn vùi ký ức về buổi điều trị đó khỏi ý thức của Web. Claire giật bắn người khi cô phát hiện ra rằng trong một lần bị thôi miên, Web đã tiết lộ cho O’Bannon biết toàn bộ câu chuyện xung quanh cái chết của người bố dượng. Những bản ghi chép trong phần này hầu như đều được viết bằng mật mã, nhưng Claire có thể nhận ra những từ như “Stockton,” “gác xép,” “Cục cưng của Bố” được viết bằng chữ hoa hẳn hoi, quá đủ để thuyết phục Claire rằng O’Bannon đã moi được toàn bộ câu chuyện mà cô được nghe từ miệng Web. Giờ thì cô chợt hiểu tại sao trong khi đang bị thôi miên Web lại quát lên với cô rằng, “Cô biết hết rồi còn gì nữa!”. Vậy là trước đó tiềm thức của anh đã có lần tiết lộ lại toàn bộ chuyện này, chỉ có điều là cho O’Bannon chứ không phải cô nghe. Trong này cũng nhắc đến cả việc sử dụng những viên thuốc trấn an. Claire đoán có lẽ chúng được dùng để đánh giá mức độ chắc chắn của những mệnh lệnh mà O’Bannon đã gieo vào trong vô thức của Web. Đọc kỹ hơn Claire nhận thấy là O’Bannon đã ghi chép rất chi tiết rằng những viên thuốc trấn an được kết hợp cùng câu ám thị hậu thôi miên của ông ta với Web rằng đó là những viên thuốc ngủ mạnh nhất đang được bán trên thị trường, và Web đã ngoan ngoãn báo cáo lại rằng những viên thuốc đó có tác dụng rất tốt. Web còn nói với O’Bannon về cuộc thi điên rồ giữa các thành viên HRT với những khẩu súng Taser.

Cuối cùng cô đã hiểu ra sự thật về điều đã xảy ra với Web trong con hẻm đó. Thật là một thủ đoạn quá tinh vi, cô tự nhủ, vì nó không hề mất công ép Web làm những điều anh không hề muốn làm, như giết người một cách tàn nhẫn và lạnh lùng, hơn nữa Claire cũng tin rằng điều đó là không thể, ngược lại, nó chỉ ra lệnh cho Web không được làm điều gì đó.

Cô nghĩ tới việc gọi cho Web để cho anh biết những gì cô vừa phát hiện ra và tìm kiếm sự giúp đỡ của anh ngay lập tức, nhưng không, không phải ở đây, giữa những mớ thiết bị nghe trộm tinh vi này. Cô sẽ rời văn phòng và gọi cho anh sau.

Claire tiếp tục xem lướt qua tập tài liệu. Khía cạnh ác nghiệt nhất của mối quan hệ bác sĩ – bệnh nhân này được phơi bày trên trang ghi chép cuối cùng, nó cho thấy O’Bannon đã hoàn toàn tin chắc rằng Web sẽ làm theo những gì được chỉ dẫn. O’Bannon đã viết bằng thứ mật ngữ của mình rằng ông ta đã thiết lập được mối quan hệ tin cậy gần như tuyệt đối với Web.

O’Bannon còn viết rằng một bác sĩ tâm thần (O’Bannon rất khôn ngoan không đề cập chính tên ông ta) có thể xây dựng trong tiềm thức của Web sự ám thị thôi miên rằng ông ta là bố đẻ của anh và sẽ bảo vệ Web khỏi người bố dượng. Và nếu như Web không thực hiện mệnh lệnh của người bác sĩ tâm thần, người bố dượng sẽ quay lại và giết Web; nói cách khác, chỉ có tuân thủ tất cả những gì được chỉ dẫn Web mới bảo đảm được tính mạng. O’Bannon đã kết luận rằng Web sẽ là một ứng cử viên tuyệt vời cho phép ám thị hậu thôi miên, và do đó trở thành một mối nguy lớn về an ninh. Chỉ nhờ vào chuyên môn đặc biệt của mình cùng việc hiểu rất rõ trường hợp của Web mới giúp Claire hiểu được ý nghĩa thật sự của những dòng báo cáo mà O’Bannon viết. Vì hiểu quá rõ cấu tạo tâm lý của Web nên Claire thừa biết rằng anh không thể chống lại mệnh lệnh đó. Vậy mà, bất chấp tất cả những điều đó, Web vẫn nhất thời vượt qua được sự ám thị hậu thôi miên, loạng choạng bước được vào trong khoảnh sân và nổ súng phá hủy những ụ súng máy kia, do dù trong đầu anh có một rào cản tinh thần tưởng chừng không thể vượt qua, một mệnh lệnh bắt anh phải nằm yên. Nói gì thì nói hành động đó là một nỗ lực phi thường của Web trong cái đêm định mệnh ấy. Claire phải công nhận rằng O’Bannon đã viết bản báo cáo của ông ta cực kỳ xảo quyệt, và rõ ràng là che giấu được tất cả những dấu vết, thêm một lý do nữa để cô phải hết sức thận trọng. O’Bannon đã tính đến mọi khả năng, trừ trường hợp Claire trực tiếp điều trị cho Web và phát hiện ra rằng chính O’Bannon đã khám phá tất cả những gì được chôn giấu sâu trong tiềm thức của Web, cũng như việc Claire đã phát hiện ra những thiết bị nghe trộm và tập hồ sơ này. Thảo nào O’Bannon đã kiên quyết đến thế trong việc giữ Web lại làm bệnh nhân của mình.

Đã đến lúc gọi điện cho cảnh sát, chỉ họ mới là những người biết phải giải quyết việc này như thế nào. Những chuyện sau đó hoàn toàn nằm ngoài khả năng của cô.

Claire quay người để bước về văn phòng của mình, cô sẽ lấy đồ của mình và rời khỏi tòa nhà ngay. Người đàn ông đang đứng đó trừng trừng nhìn cô. Claire giật bắn mình và giơ chiếc tuốc nơ vít lên, nhưng khẩu súng trên tay hắn đã chĩa thẳng và cô.

Nhìn Ed O’Bannon lúc này ai cũng có thể thấy là hắn sử dụng súng cực kỳ thành thạo.

Sau khi thất bại trong việc lần ra nguồn gốc của đường dây cung cấp Oxy và các loại thuốc bán theo đơn chứa chất gây nghiện khác vào khu vực D.C, Randall Cove đã thay đổi chiến lược và quyết định tấn công từ phía đầu nhận thay vì đầu cung cấp. Anh đã sử dụng những gì mà tên chỉ điểm T phun ra để bám theo một băng đảng buôn ma túy mà theo T là gần đây chúng đã chuyển sang kinh doanh các loại thuốc gây nghiện kia. Kể ra cũng thật ngỡ ngàng trước những kết quả mà bạn có thể nhận được từ một tên chỉ điểm khi bạn dốc ngược đầu hắn trên miệng vực sâu hơn ba chục mét. Cove đã suy ra rằng sẽ có lúc chúng cần nhận thêm hàng. Chiến thuật này đã đưa anh đến đây đêm nay, và anh cũng hy vọng nó sẽ sớm mang lại những kết quả khả quan nhất.

Đó là một khu rừng rậm rạp, Cove len lỏi qua những hàng cây mọc ken dày một cách cực kỳ lặng lẽ. Đến bìa rừng thì anh dừng lại, ngồi thụp xuống và quan sát địa hình phía trước. Những chiếc xe đang đỗ trên một con đường đất uốn lượn qua các vạt rừng nằm giữa ranh giới hai bang Kentucky và Virginia. Nếu như Cove có thể gọi ai đó đến yểm trợ hẳn anh đã làm rồi. Thậm chí anh đã nghĩ đến việc gọi cho Venables, nhưng những gì Sonny làm đã là quá đủ, anh ta còn có vợ con, hơn nữa chỉ một thời gian nữa là nghỉ hưu. Cove không đời nào làm hỏng viễn cảnh yên ả đó của bạn mình. Cove là đặc vụ chìm can đảm, quá quen với những tình huống nguy hiểm nhất có thể, nhưng xưa nay lúc nào cũng chỉ có một ranh giới mong manh giữa can đảm và ngu ngốc, và cho đến lúc này Cove vẫn luôn chọn đúng bên cần đứng.

Cove thụp đầu xuống thấp hơn và nhìn thấy vài tên đang túm tụm lại quanh một chiếc xe. Anh rút trong túi ra chiếc ống nhòm hồng ngoại nhìn đêm để quan sát thật rõ. Những gói nhỏ bọc nhựa mà chúng bưng trên tay càng củng cố thêm mối nghi ngờ của Cove. Đó không phải là những bánh côcain mà trông giống như hàng nghìn lọ thuốc nhỏ. Cove lấy ra chiếc máy ảnh không có đèn flash và bấm nhanh vài bức ảnh, sau đó anh phân vân không biết nên làm gì tiếp theo. Trước mặt anh lúc này có ít nhất là năm tên, tất cả đều mang vũ khí. Lao ra thực hiện việc bắt giữ chúng lúc này là quá nguy hiểm và ngu xuẩn. Trong lúc còn đang phân vân phải làm gì tiếp theo, Cove không nhận thấy một điều là gió đã hơi đổi hướng. Thật ra anh chỉ nhận ra điều đó khi con chó vẫn nằm nép mình bên chiếc xe bán tải bên ngoài tầm quan sát của Cove, hộc lên một tiếng rồi bứt khỏi chiếc xe và lao thẳng về phía anh.

Cove lầm bầm rủa thầm, quay người và lao vọt vào trong rừng. Tuy nhiên, con chó đang mỗi lúc một tiến sát phía sau Cove, và hai đầu gối từng bị đứt dây chằng của anh không còn thích hợp với trò đuổi bắt này nữa. Anh còn nghe thấy những âm thanh khác khiến hy vọng trốn thoát của anh chọi tan biến hết. Có vài con vật hai chân khác cũng đang từ trước mặt anh chạy lại.

Chúng dồn anh vào một góc rừng lầy lội. Con chó lao thẳng vào Cove, những chiếc năng của nó nhe ra trắng nhởn, Cove nâng súng lên và bắn chết con chó ngay phát đầu tiên. Nhưng đó cũng là phát súng cuối cùng anh có thể bắn, vì ngay lập tức đã có cả một biển súng ngắn chĩa thẳng vào anh. Cove giơ súng lên trời, đầu hàng.

“Thả súng xuống,” một kẻ truy đuổi anh lạnh lùng nói, và Cove thả súng xuống đất.

Bọn chúng tiến lại, thột tên lục soát người Cove, tước nốt khẩu súng anh giấu trong tay áo khoác, và lấy luôn cả chiếc máy ảnh.

Nemo Strait quỳ xuống bên con chó và dịu dàng vuốt ve nó. Sau đó hắn ngẩng đầu lên nhìn Cove với ánh mắt căm thù khiến anh có cảm giác anh vừa cắt cổ mẹ hắn thì đúng hơn. Strait từ từ nâng súng lên, bước lại gần và rít lên.

“Tao đã nuôi con Old Cuss được sáu năm nay. Một con chó khôn như quỷ!”

Cove lặng thinh. Một tên khác lấy báng súng giáng mạnh vào lưng anh nhưng Cove chỉ bật ra một tiếng rên khe khẽ.

Strait tiến sát lại và nhổ bọt vào mặt Cove. “Quỷ tha ma bắt tao đi vì đã không kiểm tra xem mày chết thật chưa khi bọn tao xô xe mày xuống triền dốc đó. Lẽ ra mày phải coi đó là ngày may mắn nhất của đời mình và biến đi mới phải.”

Cove vẫn không nói gì, nhưng anh kín đáo khẽ nhích lại gần Strait hơn một chút. Anh liếc nhìn những tên xung quanh. Bọn mua hàng đêm này đều là dân da đen từ thành phố đến. Nhưng Cove không hy vọng gì nhận được sự giúp đỡ của những kẻ có cùng màu da với mình. Trong thế giới của bọn tội phạm thì tiền vượt trên tất cả các giá trị khác.

Strait ngoái đầu lại nhìn qua vai mình, về phía chiếc rơ moóc chở ngựa với con Bobby Lee trên đó, rồi quay lại đối mặt với tù nhân của mình và mỉm cười độc địa.

“Thằng này, lúc nào mày cũng thích chĩa mũi vào chuyện của người khác thế à? Hả?” Hắn ấn khẩu súng vào má Cove và đẩy mạnh nòng súng lạnh toát vào thịt anh. “Hãy trả lời khi tao hỏi mày nào?”

Câu trả lời của Cove là một bãi nước bọt vào giữa mặt hắn.

Strait giơ tay chùi mặt và ấn nòng súng vào thái dương Cove. “Mày chết rồi con ạ.”

Mũi dao phóng thẳng ra từ chính ống tay áo mà Cove đã giấu khẩu súng thứ hai. Kinh nghiệm của anh là không kẻ nào lại mất công lục soát tìm thêm vũ khí tại chính vị trí mà hắn đã phát hiện ra một thứ trước đó.

Nhát đâm của Cove nhắm vào tim, những lớp bùn lỏng phía dưới làm anh hơi trượt chân, và Strait cũng nhanh hơn Cove tưởng, con dao chệch đi một chút và cắm ngập vào vai Strait. Hắn ngã lăn ra vũng nước bùn nhớp nháp, mang theo cả con dao cắm trong vai.

Cove đứng lạng người trừng trừng nhìn những tên đứng vây quanh mình.

Trong một khoảnh khắc chỉ một phần nghìn giây thế giới chợt như dừng lại trước mắt Cove. Anh nhìn thấy vợ và con đang chạy tới chỗ anh đang đứng giữa một cánh đồng mênh mông bát ngát hoa, nụ cười rạng rỡ trên mặt họ và những vòng tay giang rộng như xua tan tất cả những gì tồi tệ đang xảy ra với anh trong cả cuộc đời. Và có quá nhiều điều thật đáng quên đi.

Rồi súng đồng loạt nổ. Cove dính nhiều phát đạn vào người và gục xuống. Đúng lúc đó tất cả bọn kia đều ngẩng mặt lên trời vì chúng chợt nghe thấy tiếng trực thăng đang phành phạch bay tới. Vài giây sau, ánh đèn pha cực mạnh quét sáng trưng trên những ngọn cây.

Strait đứng bật dậy. “Biến khỏi đây mau.”

Dù vết thương khá nặng, Strait vẫn đủ sức bê con chó chết của hắn lên và đưa nó đi. Chưa đến một phút sau toàn bộ chỗ đó đã trống trơn không một bóng người. Chiếc trực thăng bay vọt qua, rõ ràng là phi hành đoàn trên đó hoàn toàn không hay biết những gì diễn ra bên dưới. Hóa ra Strait đã bị thần hồn nát thần tính – chiếc trực thăng chỉ đang vận chuyển một nhóm doanh nhân trở về nhà sau một cuộc họp muộn.

Khi khung cảnh khu rừng ban đêm đã yên ắng trở lại, trong bóng tối đen đặc bỗng bật lên một tiếng rên khe khẽ. Randall Cove cố gượng dậy, nhưng mặc dù là người khỏe như voi, anh cũng không nhúc nhích được thêm chút nào. Chiếc áo giáp anh mặc trong người đã hứng trọn ba trong số năm viên đạn. Hai viên còn lại đã xuyên vào trong người anh. Cove ngã vật xuống đất, máu từ các vết thương ứa ra nhuộm đỏ cả vũng nước xung quanh.

°

Claire Daniels đang làm việc rất khuya trong văn phòng. Cửa ngoài đã khóa, hơn nữa tòa nhà lại có nhân viên an ninh bảo vệ, nên dù sao cô cũng cảm thấy ở đây còn an toàn hơn so với khách sạn nơi cô đang ở. Người bạn dược sĩ vừa thông báo cho cô về kết quả phân tích viên thuốc lạ lẫm mà cô lấy từ chỗ Web. Claire cứ đinh ninh đó phải là một loại thuốc an thần cực mạnh vì cô vẫn nghĩ rằng rất có thể việc Web bị tê liệt toàn thân trong con hẻm đó là hậu quả của sự tương tác thuốc. Bình thường thì giả thuyết này nghe có vẻ nực cười, nhưng ít nhất thì lúc này nó lại rất khớp với những gì cô có, hơn nữa cũng chẳng còn cách giải thích nào khả dĩ hơn thế cả. Tuy nhiên, cú điện thoại trả lời đã thay đổi tất cả.

“Đó chỉ là một loại thuốc trấn an 1,” người bạn đã khẳng định với cô. “Giống như những gì họ vẫn dùng cho các nhóm người tình nguyện khi thử nghiệm thuốc.”

Một loại thuốc trấn an? Claire ngỡ ngàng không tin vào tai mình. Tất cả những viên còn lại không có gì đặc biệt.

Giờ đây, ngồi trong văn phòng, Claire cố tìm câu trả lời cho tất cả. Nếu không phải do hậu quả của tương tác thuốc thì là gì mới được chứ? Cô không muốn tin rằng Kevin Westbrook đã đặt một lời nguyền lên Web với câu nói “quỷ tha ma bắt mày xuống địa ngục đi.” Tuy vậy, rõ ràng là những từ đó đã tác động tới Web. Hay chỉ vì anh đã kiệt sức?

Claire chăm chú xem lại những cuốn sổ ký họa của Westbrook mà Web đã để cô giữ. Bức vẽ có hình ảnh Kevin với chiếc điều khiển từ xa đã được chuyển thẳng cho FBI, trong những cuốn sổ còn lại không còn bức vẽ nào tương tự như vậy. Claire nghiên cứu những bức vẽ mà cô có lúc này, phải công nhận là nhiều bức tranh được vẽ rất tinh tế. Thằng bé quả là có tài năng nghệ thuật thiên bẩm.

Không thấy trang nào trong những cuốn sổ ký họa có nhắc đến dòng chữ “Quỷ tha ma bắt mày xuống địa ngục đi”. Lẽ nào lại dễ dàng đến thế, Claire nghĩ bụng. Cô lại miên man suy nghĩ về những từ đó. Nghe chúng có vẻ cổ xưa thế nào ấy – từ thời Nội chiến chăng, có khi còn trước đó cũng nên. “Quỷ tha ma bắt lũ ngư lôi đi, tăng tốc tối đa nào,” theo giai thoại thì đó là câu nói nổi tiếng của Đô đốc Farragut trong một trận giao tranh trên biển của hải quân hai miền.

Claire viết lại những từ đó trên một mảnh giấy. Vậy là Web cho rằng những từ đó có xuất xứ từ thời Nội chiến. Nô lệ, da đen và da trắng. Những kẻ cuồng tín da trắng. Cô cau mày khi ý nghĩ đó xuất hiện trong đầu, nhưng rồi đột nhiên mọi chuyện thật rõ ràng.

Bọn Hội Tự Do chăng? Quỷ tha ma bắt mày xuống địa ngục đi. Cô nhìn chăm chăm vào máy tính trên bàn. Rất có thể chứ. Thêm vài cái nhấp chuột và chỉ sau hai phút cô đã có câu trả lời. Bọn Hội Tự Do còn có hẳn một website. Một công cụ tuyên truyền kinh tởm sặc mùi thù hận mà có lẽ chúng sử dụng để tuyển mộ những tên ngu xuẩn và có tâm hồn quỷ dữ như chúng vào hàng ngũ. Và khi cô nhìn thấy nó, hơi thở của Claire như đông cứng lại nơi cổ họng.

Đúng lúc đó cả văn phòng của cô vụt tối om. Sự trùng hợp ngẫu nhiên giữa vụ mất điện và những gì Claire vừa chứng kiến khiến cô bàng hoàng hét toáng lên. Hét xong, cô vội vàng chụp lấy điện thoại và gọi xuống quầy của đội bảo vệ phía trước tòa nhà.

Giọng trả lời đầy bình tĩnh của người bảo vệ vang lên ở đầu dây bên kia, cô vội vã giải thích chuyện vừa xảy ra.

“Chắc không phải mất điện toàn tòa nhà đâu, tiến sĩ Daniels. Dưới này đèn vẫn sáng mà. Có lẽ là do cầu dao nào đó bị sập xuống thôi. Bà có muốn tôi lên đó không?”

Cô nhìn ra cửa sổ và thấy những tòa nhà xung quanh vẫn còn sáng điện. “Không, không sao đâu. Hình như tôi có một chiếc đèn pin thì phải. Nếu đúng như anh bảo thì tôi chỉ cần kéo cầu dao lên là xong.”

Cô gác máy, lục lọi trong ngăn bàn và cuối cùng cũng tìm thấy chiếc đèn pin, rồi lần mò tìm đường ra khỏi văn phòng, bước qua khu vực tiếp tân. Cô bước tới cuối hàng lang nơi có căn phòng nhỏ đặt thiết bị, bên trong là tủ điện và vặn tay nắm. Cửa bị khóa. Lạ thế nhỉ, cô nghĩ bụng, nhưng cô chợt nhớ ra là trong này còn có cả những đầu giắc cắm hệ thống điện thoại và thiết bị an ninh của cả tòa nhà, những đường dây như vậy cần được bảo vệ cẩn thận, tránh mọi sự can thiệp không cần thiết. Nhưng nếu vậy cô làm cách nào để kéo cầu dao lên bây giờ? Cô tính đến chuyện thu dọn đồ đạc và quay về khách sạn, nhưng toàn bộ giấy tờ ghi chép cô đều để ở văn phòng này, hơn nữa cô cũng không có máy tính xách tay để truy cập Intemet từ khách sạn.

Cô rọi đèn run lên ổ khóa. Trông nó không có vẻ gì đặc biệt. Claire vào căn bếp nhỏ dùng chung và tìm thấy một chiếc tuốc nơ vít. Cô quay ra cửa phòng thiết bị, kẹp chiếc đèn pin dưới nách và loay hoay cạy khóa tủ. Mất khoảng năm phút, chiếc khóa cũng bung ra và cô mở được cánh cửa. Cô rọi đèn vào trong và chăm chú nhìn quanh. Chỉ vài giây sau cô đã nhìn thấy chiếc tủ điện, và quả thật là cầu dao mạch điện chính đã sập xuống từ lúc nào. Cô gạt nó lên và đèn lại vụt sáng trở lại. Claire đang định đóng cánh cửa tủ thiết bị thì có gì đó khiến cô chú ý. Đó là một thiết bị nhỏ được nối vào đường dây điện chạy thẳng lên bề mặt tường. Claire cũng không biết nhiều về kỹ thuật, nhưng cô vẫn có cảm giác chi tiết này có gì đó hơi khác thường, kiểu như một con rệp nghe trộm vậy.

Rất có thể là bởi vì những gì cô vừa phát hiện, hoặc cũng có thể là cô đột nhiên trở nên hoang tưởng, nhưng chỉ trong tích tắc, ý nghĩ đó chợt lóe lên trong đầu. Cô lao vội ra khỏi phòng thiết bị, không kịp nhìn thấy một nút bấm không dây bé xíu gắn trên khe cửa đã tự động kích hoạt mỗi khi có người mở cánh cửa phòng thiết bị.

Cô chạy về văn phòng và nhìn quanh phòng. Ánh mắt cô lướt từ sàn nhà lên các mảng tường, rồi cuối cùng là trần nhà và dừng lại. Cô chộp lấy chiếc ghế ở bàn làm việc của mình, tụt giầy và đứng lên mặt ghế để với tay lên thiết bị báo cháy gắn trên trần. Cô đã làm việc quá lâu với những bệnh nhân trong ngành thực thi luật pháp để biết rằng thiết bị báo cháy trên trần nhà là một nơi lý tưởng để cài đặt máy nghe trộm. Cô giật thiết bị báo cháy xuống, và hình như trong khoảng trống trên trần vẫn còn một đường dây điện trông có vẻ rất đáng ngờ. Liệu nó chỉ có trong văn phòng của cô, hay những người khác cũng bị cài máy nghe trộm nhỉ?

Cô để nguyên thiết bị báo cháy lủng lẳng trên trần, nhảy khỏi ghế và chạy một mạch sang văn phòng bên cạnh, đó là văn phòng của O’Bannon.

Cửa cũng khóa; tuy nhiên, đó là loại khóa giống hệt chiếc khóa cô đã phá trên cửa phòng thiết bị. Với chiếc tuốc nơvít trên tay, một lần nữa cô lại thành công. Cô bước vào trong, bật công tắc đèn và ngước lên trần. Ở đây cũng gắn một thiết bị báo cháy. Cô giật nó xuống và tìm thấy đoạn dây đáng ngờ kia. Claire đang định chạy sang văn phòng tiếp theo thì cô chợt trông thấy tập hồ sơ mở toang trên bàn.

Tất cả những bản năng và đạo đức nghề nghiệp trong Claire lúc này đều lên tiếng phản đối việc cô đọc hồ sơ của một đồng nghiệp khác, nhưng đây lại là trong hoàn cảnh cực kỳ cấp bách, cô tự nhủ.

Cô cầm tập hồ lên. Cái tên được ghi trên đó là Deborah Riner. Web đã nhắc đến tên người phụ nữ này, người vợ góa của một trong những đồng đội của anh. Cô vội vàng lia mắt qua rất nhiều trang tài liệu trong tập hồ sơ. Vậy là Riner đã đến điều trị ở chỗ O’Bannon từ khá lâu và thường xuyên. Điều khiến Claire ngạc nhiên nhất là số lượng lời chú thích cho các lần thôi miên mà hai người đã tham gia. Hóa ra hầu như lần nào người phụ nữ đến đây O’Bannon cũng đều thôi miên cô ta.

Điều gì đó cực kỳ khủng khiếp bắt đầu hiện ra trong đầu Claire khi cô nhận ra vài dấu mốc ngày tháng mà Riner đã đến đây. Một trong những mốc khiến Claire choáng váng nhất chính là thời điểm ba ngày trước khi xảy ra vụ thảm sát của đội Charlie trong con hẻm đó.

Cô đặt tập tài liệu xuống và bước đến ngăn tủ đứng hồ sơ. Ngăn tủ này cũng khóa, nhưng là loại khóa rẻ tiền và rất yếu, Claire nhanh chóng cạy tung nó ra bằng chiếc tuốc nơ vít, lần này thì cô không còn bận tâm đến đạo đức nghề nghiệp gì nữa. Claire bắt đầu lôi từng tập hồ sơ ra. Rất nhiều đặc vụ FBI và vợ hoặc chồng họ có tên trong những tập hồ sơ này, họ đến từ đủ mọi bộ phận và cơ quan trong Cục. Cô xem lướt qua vài bộ hồ sơ. Cũng giống như Riner, hầu như tất cả mọi người đều được O’Bannon thôi miên rất nhiều lần.

Những ý nghĩ vụt chạy qua trong đầu Claire. Thôi miên là một điều lạ lùng. Trong những hoàn cảnh đặc biệt và hiếm hoi, bạn có thể dùng nó để sai khiến người khác làm điều gì đó mà bình thường họ sẽ không làm.

Nhưng còn điều khác bạn cũng có thể làm là đưa người đó vào trạng thái thôi miên, giúp họ cảm thấy hoàn toàn thả lỏng, thư thái và tin tưởng để rồi khéo léo khai thác thông tin về những gì người đó hoặc đặc vụ đó đang làm – hoặc như trong trường hợp của vợ hoặc chồng của một đặc vụ thì sẽ là những gì mà chồng hoặc vợ của họ đang làm. Claire có thể hình dung ra cảnh O’Bannon quỷ quyệt đang lợi dụng một Debbie Riner yếu đuối và trầm cảm, lại ở trong trạng thái thôi miên để moi ra bất kỳ chi tiết nào cô biết về công việc của chồng mình. Bao gồm cả thông tin về những mục tiêu HRT sắp tấn công và thời điểm hành động chính xác, trong trường hợp Teddy Riner tâm sự với vợ về công việc của mình. Và trong thực tế là có rất nhiều người đàn ông làm vậy, cho dù điều đó trái với quy định của ngành. Claire biết thừa một điều rằng rất nhiều cuộc hôn nhân chẳng bao giờ đếm xỉa gì đến quy chế và chính sách, với mục đích cao nhất là giữ không khí hòa thuận trong gia đình. Hoặc cũng có thể đơn giản chỉ là một thành viên nào đó của HRT đã lỡ lời để cho vợ biết, rồi sau đó người vợ trong trạng thái bị thôi miên sẽ vô thức làm lộ thông tin đó.

Mọi chuyện trở nên quá dễ dàng đối với một chuyên gia tâm thần nhiều kinh nghiệm như Ed O’Bannon. Và, giống như cô đã làm với Web, chắc chắn lúc nào O’Bannon cũng đưa ra một câu ám thị hậu thôi miên được xây dựng thật tinh vi để xóa sạch khỏi trí nhớ của bất kỳ ai những gì đáng ngờ đã xảy ra trong trạng thái thôi miên – kể cả thực tế bản thân rằng họ đã bị ông ta thôi miên. Lạy Chúa tôi, Claire sợ hãi nghĩ thầm, rất có thể chính Debbie Riner đã vô tình tiếp tay cho việc giết chồng mình.

Và quan trọng hơn cả, chính những thiết bị nghe trộm kia đã ghi lại tất cả thông tin tuyệt mật mà các bệnh nhân đã tiết lộ khi đến đây. Những thông tin giá trị có thể được sử dụng để tống tiền họ, hoặc cài người khác vào bẫy, giống như chuyện xảy ra với đội của Web. Dù không nói rõ các chi tiết, nhưng Web đã bóng gió nói rằng tình hình trong Cục thời gian qua có nhiều bung bét vì rò rỉ thông tin. Và nếu như nhận định của Claire về điều O’Bannon đang làm là đúng thì rất có thể tay bác sĩ tâm thần kia đứng đằng sau tất cả những chuyện này.

Đang chăm chú lục lọi ngăn tủ đứng hồ sơ, Claire chợt nhận ra là trong đó thiếu một thứ. Bên dưới ngăn dành cho chữ L có vài tập hồ sơ của các bệnh nhân có họ bắt đầu với chữ cái trên. Nhưng vẫn còn một ô hồ sơ lớn nhưng trống rỗng còn để nguyên. Claire tự hỏi không biết đó có phải là chỗ từng đặt hồ sơ của Web không. Nhưng tập hồ sơ mà O’Bannon chuyển cho cô lại quá mỏng và lèo tèo, trong khi cái ô trống mà cô đang nhìn lúc này lại rất rộng, trừ phi ông ta không đưa cho cô toàn bộ tập hồ sơ. Có lẽ nào ông ta đã giấu cô phần lớn số tài liệu còn lại nhỉ? Cô biết rõ O’Bannon là một người cực kỳ tự tin, thậm chí phải nói là kiêu ngạo. Trong suy nghĩ của ông ta thì chẳng có ai là khôn ngoan hay kinh nghiệm hơn bản thân mình hết. Rất có thể ông ta đã giấu giếm thông tin để khiến cô hoang mang, lạc hướng. Nhưng biết đâu ông ta còn có một lý do khác lớn hơn, vượt trên cả sự tự phụ về nghề nghiệp, khi cứ khăng khăng đòi giữ Web làm bệnh nhân của mình?

Cô vội vàng lục lọi khắp văn phòng. Cô kiểm tra một lượt qua bàn làm việc của ông ta và bất kỳ chỗ nào có thể làm nơi cất giấu những thông tin kia nhưng vẫn không phát hiện được gì. Claire lại ngẩng đầu lên. Mọi phòng làm việc trong tòa nhà này đều có trần rỗng, bọc bằng những mảng xốp nhẹ. Cô trèo lên ghế một lần nữa, lấy đèn pin đẩy tung một tấm xốp ốp trần ra. Cô kiễng chân lên và có thể nhìn thấy phía trên mảng trần.

Claire lia đèn pin ra xung quanh khoảng trần kín bên trong và ngay lập tức cô trông thấy một chiếc hộp nhỏ được đặt trên khung kim loại của cả mảng trần. Cô dịch chiếc ghế về phía đó và nhanh chóng nhấc chiếc hộp xuống. Bên trong là tất cả những gì còn lại trong bộ hồ sơ của Web. Dù chỉ vội vàng xem lướt qua, Claire cũng nhận ra rằng cô vừa phát hiện ra cả một kho báu. Cô lắc đầu không tin nổi vào mắt mình khi với mỗi trang tài liệu lại là một phát hiện động trời.

Cô biết rằng O’Bannon là người có đầu óc tổ chức đến mức gần như máy móc, trước kia thói quen này từng là chủ đề đùa vui của hai người. Và bao giờ ông ta cũng ghi chép rất tỉ mỉ. Những bản ghi chép này, dù được viết bằng mật ngữ mà một người bình thường chắc chắn không thể nào hiểu nổi, nhưng cũng đủ cho Claire nhận ra rằng ông ta đã thôi miên Web không biết bao nhiêu lần. Và mỗi lần như vậy O’Bannon đều dùng đến một câu ám thị hậu thôi miên nào đó, giống như Claire đã làm, để chôn vùi ký ức về buổi điều trị đó khỏi ý thức của Web. Claire giật bắn người khi cô phát hiện ra rằng trong một lần bị thôi miên, Web đã tiết lộ cho O’Bannon biết toàn bộ câu chuyện xung quanh cái chết của người bố dượng. Những bản ghi chép trong phần này hầu như đều được viết bằng mật mã, nhưng Claire có thể nhận ra những từ như “Stockton,” “gác xép,” “Cục cưng của Bố” được viết bằng chữ hoa hẳn hoi, quá đủ để thuyết phục Claire rằng O’Bannon đã moi được toàn bộ câu chuyện mà cô được nghe từ miệng Web. Giờ thì cô chợt hiểu tại sao trong khi đang bị thôi miên Web lại quát lên với cô rằng, “Cô biết hết rồi còn gì nữa!”. Vậy là trước đó tiềm thức của anh đã có lần tiết lộ lại toàn bộ chuyện này, chỉ có điều là cho O’Bannon chứ không phải cô nghe. Trong này cũng nhắc đến cả việc sử dụng những viên thuốc trấn an. Claire đoán có lẽ chúng được dùng để đánh giá mức độ chắc chắn của những mệnh lệnh mà O’Bannon đã gieo vào trong vô thức của Web. Đọc kỹ hơn Claire nhận thấy là O’Bannon đã ghi chép rất chi tiết rằng những viên thuốc trấn an được kết hợp cùng câu ám thị hậu thôi miên của ông ta với Web rằng đó là những viên thuốc ngủ mạnh nhất đang được bán trên thị trường, và Web đã ngoan ngoãn báo cáo lại rằng những viên thuốc đó có tác dụng rất tốt. Web còn nói với O’Bannon về cuộc thi điên rồ giữa các thành viên HRT với những khẩu súng Taser.

Cuối cùng cô đã hiểu ra sự thật về điều đã xảy ra với Web trong con hẻm đó. Thật là một thủ đoạn quá tinh vi, cô tự nhủ, vì nó không hề mất công ép Web làm những điều anh không hề muốn làm, như giết người một cách tàn nhẫn và lạnh lùng, hơn nữa Claire cũng tin rằng điều đó là không thể, ngược lại, nó chỉ ra lệnh cho Web không được làm điều gì đó.

Cô nghĩ tới việc gọi cho Web để cho anh biết những gì cô vừa phát hiện ra và tìm kiếm sự giúp đỡ của anh ngay lập tức, nhưng không, không phải ở đây, giữa những mớ thiết bị nghe trộm tinh vi này. Cô sẽ rời văn phòng và gọi cho anh sau.

Claire tiếp tục xem lướt qua tập tài liệu. Khía cạnh ác nghiệt nhất của mối quan hệ bác sĩ – bệnh nhân này được phơi bày trên trang ghi chép cuối cùng, nó cho thấy O’Bannon đã hoàn toàn tin chắc rằng Web sẽ làm theo những gì được chỉ dẫn. O’Bannon đã viết bằng thứ mật ngữ của mình rằng ông ta đã thiết lập được mối quan hệ tin cậy gần như tuyệt đối với Web.

O’Bannon còn viết rằng một bác sĩ tâm thần (O’Bannon rất khôn ngoan không đề cập chính tên ông ta) có thể xây dựng trong tiềm thức của Web sự ám thị thôi miên rằng ông ta là bố đẻ của anh và sẽ bảo vệ Web khỏi người bố dượng. Và nếu như Web không thực hiện mệnh lệnh của người bác sĩ tâm thần, người bố dượng sẽ quay lại và giết Web; nói cách khác, chỉ có tuân thủ tất cả những gì được chỉ dẫn Web mới bảo đảm được tính mạng. O’Bannon đã kết luận rằng Web sẽ là một ứng cử viên tuyệt vời cho phép ám thị hậu thôi miên, và do đó trở thành một mối nguy lớn về an ninh. Chỉ nhờ vào chuyên môn đặc biệt của mình cùng việc hiểu rất rõ trường hợp của Web mới giúp Claire hiểu được ý nghĩa thật sự của những dòng báo cáo mà O’Bannon viết. Vì hiểu quá rõ cấu tạo tâm lý của Web nên Claire thừa biết rằng anh không thể chống lại mệnh lệnh đó. Vậy mà, bất chấp tất cả những điều đó, Web vẫn nhất thời vượt qua được sự ám thị hậu thôi miên, loạng choạng bước được vào trong khoảnh sân và nổ súng phá hủy những ụ súng máy kia, do dù trong đầu anh có một rào cản tinh thần tưởng chừng không thể vượt qua, một mệnh lệnh bắt anh phải nằm yên. Nói gì thì nói hành động đó là một nỗ lực phi thường của Web trong cái đêm định mệnh ấy. Claire phải công nhận rằng O’Bannon đã viết bản báo cáo của ông ta cực kỳ xảo quyệt, và rõ ràng là che giấu được tất cả những dấu vết, thêm một lý do nữa để cô phải hết sức thận trọng. O’Bannon đã tính đến mọi khả năng, trừ trường hợp Claire trực tiếp điều trị cho Web và phát hiện ra rằng chính O’Bannon đã khám phá tất cả những gì được chôn giấu sâu trong tiềm thức của Web, cũng như việc Claire đã phát hiện ra những thiết bị nghe trộm và tập hồ sơ này. Thảo nào O’Bannon đã kiên quyết đến thế trong việc giữ Web lại làm bệnh nhân của mình.

Đã đến lúc gọi điện cho cảnh sát, chỉ họ mới là những người biết phải giải quyết việc này như thế nào. Những chuyện sau đó hoàn toàn nằm ngoài khả năng của cô.

Claire quay người để bước về văn phòng của mình, cô sẽ lấy đồ của mình và rời khỏi tòa nhà ngay. Người đàn ông đang đứng đó trừng trừng nhìn cô. Claire giật bắn mình và giơ chiếc tuốc nơ vít lên, nhưng khẩu súng trên tay hắn đã chĩa thẳng và cô.

Nhìn Ed O’Bannon lúc này ai cũng có thể thấy là hắn sử dụng súng cực kỳ thành thạo.

Bình luận