Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Các triều đại Việt Nam

Phần 1. Việt Nam- Quốc Hiệu

Tác giả: Quỳnh Cư

Thời các vua Hùng (2879-258 trước công nguyên) nước ta gọi là Văn Lang. Thời Thục An Dương Vương (257-207 trước công nguyên) gọi là âu Lạc. Thời nhà Đinh (968- 980) dẹp xong loạn 12 sứ quân, lập nên một nước độc lập, lấy tên là Đại Cổ Việt. Sang thời Lý đổi là Đại Việt. Đến thời Nguyễn, vua Gia Long Nguyễn ánh, sau khi đánh bại nhà Tây Sơn, đổi tên nước là Việt Nam. Một chi tiết khá lí thú là từ gần 500 năm trước, ngay trang mở đầu tập “Trình tiên sinh quốc ngữ” của Nguyễn Bỉnh Khiêm có ghi “Việt Nam khởi tổ xây nền” khẳng định tên nước ta là Việt Nam. Một sự tiên đoán chính xác 100%.

Cư dân cổ xưa ở nước ta là người Lạc Việt. Họ từ bờ biển Phúc Kiến (Trung Quốc) di cư sang. Hàng năm, theo gió mùa, họ vượt đến các miền duyên hải ở phương Nam như Hải Nam, vùng đồng bằng sông Hồng và sông Mã (Việt Nam). Họ thường tự sánh mình với loài chim Lạc mà hàng năm, đầu mùa lạnh, chim cũng rời vùng biển Giang Nam. Vì thế, người Việt lấy chim Lạc làm vật tổ. Cái tên của vật tổ ấy trở thành tên của thị tộc. Sau nhiều năm vượt biển như vậy, người Lạc Việt đã ở lại miền Bắc Việt Nam. Họ lấn lướt và đồng hóa với người Anh-đô-nê-diêng bản địa, phát triển theo dọc các sông lớn và chiếm hầu hết những miền đất trung du Bắc Bộ, như Mê Linh, Tây Vu (Vĩnh Phú), Liên Lâu (Bắc Ninh), trung du Thanh Hóa, Nghệ An và Đông Sơn (gần Hàm Rồng Thanh Hóa).

Nước Việt Nam ở Đông Nam Châu á, Đông và Nam giáp biển, Tây giáp Lào, Cam-pu-chia, Bắc giáp Trung Quốc. Diện tích Việt Nam hiện nay khoảng 329600km2. Dân số buổi đầu dựng nước chừng 50 vạn ngời. Đến thời Lý-Trần, chừng hơn 5 triệu và nay hơn 70 triệu dân.

Việt Nam là một quốc gia gồm nhiều dân tộc. Ngoài người Kinh còn có 60 dân tộc khác nhau cùng sinh sống. Căn cứ vào ngôn ngữ, chữ viết ta có thể phân bố các thành phần dân tộc như sau:

1.Tiếng Môn – Khơme. Gồm nhiều nhóm người ở Tây Bắc, Tây Nguyên, Quảng Trị…

2.Tiếng Thái gồm người Thái Tây Bắc, Thượng du Thanh Hóa, Nghệ An, khu Việt Bắc, Quảng Ninh. Ngoài ra còn có nhóm người Giấy, Cao Lan, Lự v.v…

3.Tiếng Anh-đô-nê-diêng: Gồm người Chàm, Gia rai, ê – đê (Tây Nguyên).

4.Tiếng Mèo-Dao: Gồm người Mèo, Dao (Việt Bắc, Hòa Bình, Thanh Hóa).

5.Tiếng Tạng-Miến: Gồm người Lô Lô (Hà Giang), Hà Nhì, La Khụ, Cống, Xi La (Tây Bắc).

6.Tiếng Hán: Người Hoa (Quảng Ninh), Sán Dìu (Hà Bắc, Bắc Thái v.v…)

Thời các vua Hùng (2879-258 trước công nguyên) nước ta gọi là Văn Lang. Thời Thục An Dương Vương (257-207 trước công nguyên) gọi là âu Lạc. Thời nhà Đinh (968- 980) dẹp xong loạn 12 sứ quân, lập nên một nước độc lập, lấy tên là Đại Cổ Việt. Sang thời Lý đổi là Đại Việt. Đến thời Nguyễn, vua Gia Long Nguyễn ánh, sau khi đánh bại nhà Tây Sơn, đổi tên nước là Việt Nam. Một chi tiết khá lí thú là từ gần 500 năm trước, ngay trang mở đầu tập “Trình tiên sinh quốc ngữ” của Nguyễn Bỉnh Khiêm có ghi “Việt Nam khởi tổ xây nền” khẳng định tên nước ta là Việt Nam. Một sự tiên đoán chính xác 100%.

Cư dân cổ xưa ở nước ta là người Lạc Việt. Họ từ bờ biển Phúc Kiến (Trung Quốc) di cư sang. Hàng năm, theo gió mùa, họ vượt đến các miền duyên hải ở phương Nam như Hải Nam, vùng đồng bằng sông Hồng và sông Mã (Việt Nam). Họ thường tự sánh mình với loài chim Lạc mà hàng năm, đầu mùa lạnh, chim cũng rời vùng biển Giang Nam. Vì thế, người Việt lấy chim Lạc làm vật tổ. Cái tên của vật tổ ấy trở thành tên của thị tộc. Sau nhiều năm vượt biển như vậy, người Lạc Việt đã ở lại miền Bắc Việt Nam. Họ lấn lướt và đồng hóa với người Anh-đô-nê-diêng bản địa, phát triển theo dọc các sông lớn và chiếm hầu hết những miền đất trung du Bắc Bộ, như Mê Linh, Tây Vu (Vĩnh Phú), Liên Lâu (Bắc Ninh), trung du Thanh Hóa, Nghệ An và Đông Sơn (gần Hàm Rồng Thanh Hóa).

Nước Việt Nam ở Đông Nam Châu á, Đông và Nam giáp biển, Tây giáp Lào, Cam-pu-chia, Bắc giáp Trung Quốc. Diện tích Việt Nam hiện nay khoảng 329600km2. Dân số buổi đầu dựng nước chừng 50 vạn ngời. Đến thời Lý-Trần, chừng hơn 5 triệu và nay hơn 70 triệu dân.

Việt Nam là một quốc gia gồm nhiều dân tộc. Ngoài người Kinh còn có 60 dân tộc khác nhau cùng sinh sống. Căn cứ vào ngôn ngữ, chữ viết ta có thể phân bố các thành phần dân tộc như sau:

1.Tiếng Môn – Khơme. Gồm nhiều nhóm người ở Tây Bắc, Tây Nguyên, Quảng Trị…

2.Tiếng Thái gồm người Thái Tây Bắc, Thượng du Thanh Hóa, Nghệ An, khu Việt Bắc, Quảng Ninh. Ngoài ra còn có nhóm người Giấy, Cao Lan, Lự v.v…

3.Tiếng Anh-đô-nê-diêng: Gồm người Chàm, Gia rai, ê – đê (Tây Nguyên).

4.Tiếng Mèo-Dao: Gồm người Mèo, Dao (Việt Bắc, Hòa Bình, Thanh Hóa).

5.Tiếng Tạng-Miến: Gồm người Lô Lô (Hà Giang), Hà Nhì, La Khụ, Cống, Xi La (Tây Bắc).

6.Tiếng Hán: Người Hoa (Quảng Ninh), Sán Dìu (Hà Bắc, Bắc Thái v.v…)

Bình luận