Rafe đứng bên bờ biển trên Trân Châu cảng nhìn ra làn nước tối sẫm. Những vì sao vẫn sáng lấp lánh trên đầu anh, nhưng anh chẳng cảm thấy chúng có ý nghĩa gì đối với mình cũng như những cảm xúc về tình yêu và cuộc sống đã tắt lịm trong anh. Cuộc sống và tình yêu, cả hai như là một, nhưng dù là hai hay một thì nó cũng đã chết rồi, tựa như mảnh sao băng anh nhìn thấy trước đó tắt lịm trong màn đêm.
Mặt biển kia hình như đã chấp nhận linh hồn của ngôi sao bạc mệnh. Biển đã nuốt chửng những gì còn lại của một ngôi sao đã từng lấp lánh trên dải ngân hà vào trong bóng tối vô tận của nó như nuốt chửng lấy linh hồn của Rafe McCawley. Một người trước đây đã từng là một phi công, một cư dân của Tennessee, một người bạn và một người tình. Một người tình đơn phương ôm ấp một tình yêu chưa bao giờ có được. Điều đó nghe có vẻ bình thường đối với người khác. Mỗi khi họ ngộ nhận và chợt tỉnh thì mọi chuyện lại đâu vào đấy.
Nhưng đối với Rafe thì khác, đối với anh tình yêu không bao giờ là ảo tưởng. Nó sống động tựa như cuộc sống xung quanh anh vậy. Khi anh đứng một mình cảm thấy cô đơn, tâm trí đeo đuổi đến những mảnh thiên thạch tắt lịm ánh sáng của ngôi sao băng kia. Anh lại chợt nhớ đến hình ảnh của những người đánh cá Na Uy đang cúi xuống cơ thể bất động và lạnh giá của anh. Lúc ấy, bầu trời sao cũng lấp lánh trên đầu họ. Hình ảnh ấy chợt về trong tâm trí Rafe. Và anh nhớ nhất cái từ anh đã thi thầm trong giây phút đó: “Evelyn”.
Rafe nhìn đăm đăm vào mặt biển vô tình tối đen như mực và cố chôn vùi những kí ức tình yêu càng sâu càng tốt để anh không bao giờ còn phải nhớ đến nó nữa, cũng không bao giờ cảm thấy nó nữa.
*
Cả hai đều không nói gì trên con đường trở về dãy nhà tập thể của những nữ y tá. Thế nhưng khi họ đến bên cửa doanh trại, Danny cất lời:
– Em đừng lo, anh sẽ tìm Rafe và nói cho ra nhẽ.
Anh ôm nàng. Vòng tay họ vẫn tha thiết như ngày nào. Nhưng giờ đây đã nhũn ra trước cảm giác tội lỗi. Sau đó, anh vội vã bước đi trên con đường mòn giữa đám cỏ dại để quay về căn cứ không quân của mình. Evelyn nghĩ: Anh ấy đang quay về doanh trại mình, cố tìm sự an ủi trong vòng tay bạn bè. Anh ấy cần sự giúp đỡ. Nàng cảm thấy buồn cho Danny, cho nỗi đau của anh trong tình trạng khó xử này. Và nàng biết, đối với nàng nỗi đau đớn, lo lắng cho Danny còn lớn hơn lo lắng cho chính mình. Với tâm tư ấy, nàng quay trở về phòng mình.
Vừa mở cửa, Evelyn đâm sầm vào Betty. Betty đang trên đường quay trở lại bệnh viện trực đêm. Nhìn thấy Evelyn, Betty thốt lên:
– Trời! Evelyn. Sao lại tái nhợt đi thế này? Có chuyện gì thế?
– À! Không có chuyện gì đâu, chỉ là một tin mừng mà thôi. Rafe vẫn còn sống.
– Trời đất, Evelyn.
Sau sự bàng hoàng hiện rõ trên khuôn mặt trẻ con của Betty là cái nhìn lạ lẫm mà Evelyn chưa từng thấy trên khuôn mặt bạn mình trước đó. Cái nhìn chín chắn và thấu hiểu hơn bất cứ ai đang hiện ra trên khuôn mặt bình thường, non nớt và búng ra sữa của Betty. Nàng đau lòng thay cho Evelyn, nỗi đau khiến mắt Betty rướm lệ:
– Ôi! Evelyn. Ôi trời ơi.
*
Những chiếc máy bay P-40 trên sân bay Picham đậu san sát vào nhau như một đàn gà con túm tụm lại tìm hơi ấm dưới ánh đèn trong lồng ấp vào một đêm lạnh giá. Những chiếc máy bay đậu san sát nhau như thế, túm tụm lại như thế sẽ dễ bảo vệ hơn. Nhưng không một anh lính bảo vệ nào trên sân bay chặn một phi công mặc thường phục người Mỹ đang lảng vảng trong sân bay lúc ấy. Cũng như không có ai nói điều gì với Danny khi anh len lỏi giữa những chiếc máy bay chiến đấu.
Nơi một chiếc máy bay đậu xa nhất, Danny nhìn thấy Rafe. Rafe đang ngồi trong buồng lái mở ngỏ của một chiếc P-40. Rafe không hề phản ứng khi Danny bước lên cánh máy bay. Và Danny nghĩ Rafe biết mình sẽ đi tìm cậu ta. Cậu ta hiểu mình đến độ chắc chắn rằng bao giờ mình cũng theo đuổi để giải quyết vấn đề cho đến tận cùng, Danny nói:
– Cậu vẫn thường ngồi trên máy bay mỗi khi cậu bực bội điều gì?
Rafe đáp trả:
– Bực bội ư? Tại sao tao phải bực bội nhỉ?
– Thôi nào! Chúng mình đi uống thứ gì đi! Việc này có thể dàn xếp được nếu chúng ta nói chuyện như những người đàn ông với nhau. Nhưng mà nếu cậu sợ không dám nói chuyện thì thôi, tớ cũng không ép.
Rafe lừ mắt và bắt gặp cặp mắt cứng cỏi của Danny đang nhìn mình.
Món nước uống có tên Núi Lửa của quán Mai-Tais được mang đến và người hầu bàn dộng mạnh chiếc ly xuống bàn nghe đánh rầm. Rafe nhìn cái thứ nước giải khát màu hồng hồng có điểm mấy cánh hoa nhiệt đới phía trên như nhìn một vật thể lạ. Anh nhíu mày:
– Tao sợ uống thứ nước này thì biến thành đàn bà mất.
– Thôi nào uống đi, rồi còn có chuyện để nói nữa đấy.
Rafe trừng trừng nhìn Danny, nhưng rồi cũng chấp nhận lời thách thức. Anh uống một ngụm lớn bằng chiếc ống cắm trên thứ chất lỏng màu hồng kia. Họ cứ nồi uống như vậy một lúc lâu, không ai nói với ai điều gì. Vào những giây phút như thế này khiến cả hai đau lòng. Nhưng không ai dám cất lời trước phá vỡ sự im lặng ấy. Cuối cùng, Rafe quăng chiếc ống hút xuống đất như thể một người đánh cá ném cái xiên cắm phụp xuống mặt biển sâu. Anh ngả người trên ghế và gào lên với người ngồi sau quầy:
– Cho 4 ly bia đi!
Nói xong, anh quay sang nhìn Danny.
– Tao không thể uống cái thứ nước tởm lợm này thêm một miếng nào nữa.
Danny hỏi:
– 4 ly bia cơ à? Mày trở thành tay nghiện ngập từ khi nào vậy?
– Tao đầu có nát rượu đến thế! Một ly cho mày đấy.
Một cô hầu bàn người bản xứ lầm lũi tiến tới mang theo 4 ly bia. Và khi nàng ta dằn mạnh chúng xuống bàn thì cửa phòng bar mở rộng mang theo không khí nhộn nhịp của trung tâm đảo Oahu vào bên trong. Billy, Anthony và Red cùng bước vào, Danny đang chờ họ. Khi nhờ ba người bạn thân thiết toả đi tìm kiếm Rafe anh đã bảo họ rằng: nếu không tìm thấy Rafe ở đâu thì hãy đến đây. Giờ thì Danny chỉ muốn họ đi khỏi. Anh lắc đầu nhè nhẹ, nhưng niềm vui được gặp lại Rafe quá to lớn nên họ không nhận ra cái lắc đầu báo trước của Danny. Họ lao đến bên Rafe, vỗ vai anh, vò đầu anh và gào lên:
– Ồ! Cậu còn sống. Đồ quỷ! Té ra là còn sống cơ đấy.
Hai giờ sau, bọn họ đã uống đến ly Núi Lửa Mai-Tais thứ ba. Còn Rafe thì cầm những can bia đã uống cạn giả làm những máy bay chiến đấu để biểu diễn trò cút bắt trên không nơi vịnh Mancher cho bạn mình nghe.
– Đây nhé! Bọn Đức sẽ bay luồn xuống dưới bụng máy bay của quân Anh. Bởi vì máy bay của chúng bay nhanh hơn. Và thế rồi chúng chạy thoát mà không ai có thể bắt kịp.
Bàn tay anh múa những can bia rất dẻo, những bàn tay khéo léo tuyệt vời. Mặc dù lúc này tâm trí anh đã bị con ma men xâm chiếm. Rafe không sao tự chủ được lời nói. Anh lè nhè:
– Nhưng khi chúng chạy đi rồi thì chúng lại vòng trở lại và bắn trộm phía sau lưng người ta như kiểu vài người Mỹ xấu bụng thỉnh thoảng cũng làm thế đấy.
Rafe chậm chạp đặt những lon bia rỗng xuống và nhìn thẳng qua bàn xuyên vào mắt Danny. Lúc đó không ai dám lên tiếng. Billy bảo:
– Hình như tụi này nên để hai thằng bay nói chuyện riêng với nhau thì tốt hơn.
Rafe nói lớn:
– Thôi nào, có gì đâu! Không sao đâu, cứ ngồi đây đi. Để cho thằng Danny nó tự thể hiện mình nó là một tay Tennessee trung thực ra sao?
Nhưng Billy đã đứng dậy, kéo theo cả Red và Anthony đi ra ngoài quán bar. Ngoài đó, người ra đặt rải rác những chiếc ghế nhỏ để cho người ta có thể ngắm những chàng hải quân qua lại nườm nượp trên đường. Danny thách thức:
– Sao? Mày có chuyện muốn nói phải không? Thì nói đi! Bắt đầu đi chứ!
– Cả hai chúng ta phải đối mặt với sự thật chẳng dễ chịu gì.
– Phải, đó là những sự thật gì vậy?
Rafe nói:
– Tao biết ai gặp cô ấy một lần cũng đều yêu mến. Điều đó đối với tao không có gì khó hiểu. Tao không thể buộc tội mày về những chuyện đã xảy ra. Mày nghĩ tao chết rồi, cô ấy buồn bã và cố đến để an ủi Evelyn.
– Buồn bã thôi sao? Bối rối thôi sao? Rafe! Lòng Evelyn tan nát mày biết không? Cả hai chúng tao đều thế? Chính điều đó đã khiến tụi tao đến với nhau. Bởi vì cả tao và nàng đều yêu mến mày. Tao biết đó là điều mày khó tin nhất trong lúc này.
– Tất nhiên rồi. Cả mày và nàng đều yêu mến tao, thế nên giờ tụi mày ấm cúng đến thế, còn tao thì lạnh lẽo dường này phải không?
Ánh mắt Danny bắt gặp ánh mắt Rafe. Họ nhìn nhau như nảy lửa. Rafe nói tiếp:
– Nhưng mà thôi, mày thì biết cái quái gì.
– Mày vừa nói cái gì thế?
– Tao vừa nói rằng: bây giờ mày nên xéo đi cho rảnh.
Billy, Red, Anthony đứng ngoài quán bar nhưng vẫn theo dõi họ. Tuy cả ba không nghe thấy những lời qua tiếng lại của Rafe và Danny, bởi vì trong phòng bar rất ồn ào và tiếng nhạc xập xình của những vũ điệu đảo Hawaii làm điếc tai mọi người qua chiếc Radio, nhưng họ có thể thấy Danny chết sững người nhìn đăm đăm về phía trước.
Danny bảo:
– Này! Chính mày yêu cầu tao chăm sóc Evelyn đấy nhé.
– Phải! Tao yêu cầu mày chăm sóc nàng, chứ không phải lợi dụng nàng.
– Lợi dụng ư?
Cặp môi Danny tái nhợt. Môi mím chặt và hàm răng nghiến ken két. Nhưng Danny cố kiềm chế:
– Đồ sâu rượu to mồm. Tao biết mỗi khi mày cứ uống vào là nói bậy mà. Coi chừng cái miệng mày đấy.
– Tao nói bậy ư? Nghe dễ chịu quá nhỉ? Sao mày không nói thẳng ra tao là một thằng ngu?
Danny túm lấy góc bàn để khỏi nhào tới chụp lấy cổ Rafe. Anh gào lên:
– Chính mày đã bỏ nàng mà đi. Mày bỏ cô ấy vì thích đem chuông đi đánh xứ người. Chiến đấu vì những chuyện chẳng liên quan gì đến mày.
Ánh mắt của Rafe vụt tràn lên nham hiểm, mặc dù anh vốn không như thế. Anh thấy hả hê vì đã làm cho Danny nổi xung. Sau đó Rafe im lặng nói khi đã bình tâm trở lại.
– Tao không biết mình yêu nàng đến mức nào. Cho tới khi tao sắp từ giã cõi đời, khuôn mặt nàng hiện ra vào cái giây phút định mệnh ấy khiến tao không thể nào quên. Và vào giờ phút đó, tao hiểu nàng có ý nghĩa như thế nào đối với tao.
Những lời ấy khiến Danny chạnh lòng. Anh biết bạn mình nói thật, nhưng anh vẫn không thay đổi thái độ.
– Mày đi, còn tao ở lại. Và thế rồi mọi chuyện đảo lộn. Tụi tao đến với nhau, rồi mày cũng sẽ quen với sự thật này thôi.
Rafe đứng ngây ra gật đầu như thể anh đang chấp nhận sự thật. Anh thốt lên cay đắng:
– Phải! Tao sẽ quen với sự thật rằng mày với nàng, tay trong tay. Còn mày cũng quen với cái này đi.
Rafe dang tay đấm mạnh vào mặt Danny khiến anh ngã ngửa. Chiếc ghế đổ kềnh. Danny bò lồm ngồm trên nền đất dơ dáy. Anh cố đứng lên chùi máu trào ra nơi khoé miệng.
– Mày bỏ đi tỏ vẻ anh hùng với những kẻ chẳng liên quan gì đến mày, bảo tao ở lại chăm sóc nàng. Mày muốn thế, và giờ mày phải chấp nhận hiện tại thôi. Trách ai được bây giờ.
Lúc này Rafe đã đè nghiến Danny xuống đất, anh đá chiếc ghế sang bên. Danny điên tiết đạp mạnh vào đầu gối Rafe rồi cố đứng lên đã thật mạnh vào lưng bạn. Và thế là cuộc ẩu đả diễn ra. Người bảo vệ quán bar là người dân bản xứ và là người tình của nàng hầu bàn. Cú đấm của hắn to tướng và cứng như sọ dừa. Nhưng từ khi mở quán tới giờ, hắn chưa có dịp sử dụng đến nó. Khi hắn vừa định bước vào can thiệp thì Anthony đứng ngáng trước mặt và bảo:
– Cứ để chúng đánh nhau đi. Hai thằng đó cần phải choảng nhau một trận rồi mới hiểu nhau được.
Gã hộ pháp bản xứ kia gạt phắt Anthony sang một bên chỉ bằng một cái vẫy tay. Nhưng trước khi hắn kịp bước thêm một bước thì Red đã cầm một chiếc vỏ chai nước ngọt lên và đập mạnh vào xương sọ gã hộ pháp. Người bán bar chộp lấy điện thoại và quay số quân cảnh. Giữa phòng bar rộng lớn, Rafe và Danny đang đánh nhau như điên. Đám đông vây xung quanh họ nhưng vẫn dành chỗ cho cuộc ẩu đả. Đám thủy thủ ngồi bên ngoài vung ghế đẩu lên cổ vũ cho hai kẻ tình địch lao vào nhau như hai con thiêu thân. Billy, Red, Anthony nhăn mặt khi thấy họ đấm nhau như đấm bình bông, như thể chính họ đang đánh nhau vậy. Một thủy thủ đứng bên cạnh Billy đạp mạnh vào vai anh hỏi:
– Cứ để chúng đánh nhau thế hay ta nên can thiệp vào nhỉ?
Billy tức quá. Lúc này đã không chịu đựng nổi nữa điên tiết giáng cho hắn một cú đấm vào má phải. Thế là đột nhiên cả quán bar trở thành một bãi ẩu đả của nhiều đám chứ không phải chỉ dành riêng cho Rafe và Danny giải quyết chuyện riêng. Lúc này, Rafe và Danny nổi xung đến độ không còn biết đau là gì nữa. Đấm nhau đã chán tay, giờ họ lăn lộn trên sàn nhà, cào cấu nhau như thể muốn xé xác nhau ra hàng trăm mảnh. Lăn lộn đã chán, họ lồm cồm bò dậy và Rafe cố tình đá mạnh vào hạ bộ của Danny. Danny cúi gập người xuống vì đau. Rafe bảo:
– Đau không? Thiết nghĩ mày không cần phải có cái đó để làm gì.
Không nhìn lên, Danny lao thẳng vào Rafe húc vào bụng tình địch và xô mạnh anh lên tường. Nhưng vì mắt đã hoa lên rồi nên anh lao không trúng tường mà cả hai lộn nhào ra ngoài cửa sổ bổ nhào xuống vệ đường đầy cát. Cả hai còn đang lăn lộn đau đớn thì họ đã thấy mấy chiếc xe Jeep quân cảnh đang lao tới. Thế là Danny và Rafe vụt đứng lên và bỏ chạy.
Trong quán bar, nhạc vẫn xập xình như chưa hề có chuyện gì xảy ra.
*
Đã nhiều năm nay, đài truyền thanh KGMB ngưng phát vào lúc 11h đêm và chỉ phát lại vào rạng sáng ngày hôm sau. Nhưng vào cái đêm giữa ngày 6 và 7 -12-12941, nó phát suốt đêm mà không ngưng nghỉ, tín hiệu của đài này được ngầm hiểu như để giúp cho quân đội Mỹ. Vào chính đêm đó, những máy bay BM-17 đang thực hiện một chuyến bay từ đất liền ngang qua biển Thái Bình Dương rộng lớn đến một hòn đảo nhô ra mặt biển tên gọi Hawaii. Tiếng nhạc phát ra từ Radio của Ohio, là một tín hiệu bí mật và một tín hiệu an toàn báo hiệu an toàn cho đàn chim sắt khổng lồ quay trở về tổ ấm. Những máy bay ném bom của Mỹ không hề mang theo bom hoặc đạn dược, thậm chí họ còn bỏ bớt cả những khẩu súng trên máy bay để giảm trọng lượng cho chuyến bay đường trường. Trong buồng lái, những hoa tiêu nghe thứ tiếng âm nhạc của đảo Hawaii để điều chỉnh độ cao và theo tiếng nhạc phát ra từ đài KGBM của Nhật Bản đưa họ hạ cánh an toàn.
Cũng chính vào thời điểm đó, cách đảo Hawaii 320 hải lý về phía Bắc, một đội tàu lớn của Nhật Bản rù rì xuyên qua màn đêm tiến về phía biển Reiken Sea. Một đoàn tàu đông đảo tiến theo đội hình cưỡi sóng ra khơi. Trên boong con tàu chỉ huy, hay nói đúng hơn là hạm đội Akagi, tư lệnh Yamamoto nghe tiếng nhạc của đảo Hawaii, các hoa tiêu của ông ta cũng dùng chính tiếng nhạc ấy đưa chính hạm đội ấy tiến thẳng vào điểm yếu của quân đội Hoa Kỳ trên vùng biển Thái Bình Dương, đó là Trân Châu cảng.
Yamamoto cũng như nhiều viên chỉ huy quân đội xứng đáng với bộ quân phục có huy hiệu đồng tiền kim tuyến lúc này đang hết sức cảnh giác. Không phải chỉ vì trọng trách nặng nề ông được giao phó mà hơn ai hết ông hiểu sự thành bại của cuộc tấn công này đều dựa hoàn toàn vào nhân tố bất ngờ. Lực lượng chiến đấu của quân đội Mỹ tại Trân Châu cảng lớn hơn tất cả những thứ gì Yamamoto có thể tưởng tượng ra. Và nếu như họ chờ đợi để nã đạn vào ông với những khẩu súng được lắp đạn chĩa thẳng lên nền trời, những chiếc máy bay chiến đấu bình tĩnh xé toạc không trung. Những tàu chiến sắp xếp thành đội ngũ chỉnh tề, và máy bay ném bom của Mỹ đợi chờ không lực Nhật Bản đến tấn công thì những kẻ săn tìm vinh quang Nhật Bản sẽ biến thành con mồi và cuộc tấn công này sẽ trở nên thảm hoạ đối với tổ quốc Nhật Bản của Yamamoto. Ông đứng đó trên con tàu chỉ huy nghe tiếng nhạc phát ra từ đảo Hawaii và suy nghĩ: Nếu như phía Mỹ có bất cứ nghi ngờ nào thì tiếng tín hiệu mật trên Radio sẽ báo cho ta hay.
Chiếc đồng hồ mày xám đặt trên chiếc Radio chỉ đúng nửa đêm. Ngay lập tức, một sĩ quan Nhật Bản xé tờ lịch của ngày hôm trước, trước khi quay trở lại làm việc trên tàu Akagi.
Hôm ấy đúng là ngày mùng 7-12-1942. Ngày mà Franklin Roosevelt sau này ra lệnh cả nước dành làm ngày tưởng niệm cho sự nhục nhã của nước Mỹ.
Yamamoto quá lo lắng đến nỗi tâm trí dồn cả vào việc tìm cho ra một thời điểm thích hợp. Nỗi lo chính của ông trong lúc này là mối đe doạ người Mỹ sẽ phát hiện ra cuộc tấn công của Nhật. Và ông biết mối nguy hiểm to lớn của đội quân này nằm trong đội tàu ngầm có trong đội hình hành quân. Rất nhiều thành viên trong hội đồng tác chiến đã tranh cãi và thi đua dành phần trong cái mà họ cho là chiến thắng trong tầm tay và vinh quang của cuộc tấn công. Những lãnh đạo phía hải quân phản đối kế hoạch của Yamamoto bởi vì kế hoạch này đã dùng tàu của họ như một mạng lưới vận chuyển cho các máy bay chiến đấu. Họ tố cáo ông Yamamoto đã coi những tàu chiến của họ không hơn gì những chiếc phà chở hàng thông thường. Tuy nhiên không ai dám phản đối đến sự sắp xếp thông minh và đơn giản của cuộc tấn công này. Thế rồi, hội đồng tác chiến cuối cùng đã đạt được một thoả thuận rằng họ sẽ ra lênh cho tàu ngầm được phép tiến gần đến tìm kiếm mục tiêu ở trung tâm Trân Châu cảng trước khi các máy bay đến được nơi này. Yamamoto phản đối điều này, chỉ ra rằng: Nếu như người Mỹ phát hiện ra tàu ngầm thì theo ông như vậy toàn bộ kế hoạch tấn công sẽ có nguy cơ thất bại. Nhưng ý kiến của ông đã bị cấp trên bác bỏ. Đúng là tuần chay nào cũng có nước mắt, không cuộc chiến nào lại thiếu tính chất chính trị ở trong đó.
Yamamoto nhìn đồng hồ đeo tay, tàu ngầm đã đến được Trân Châu cảng vào giờ này rồi mới phải.
Phía bên ngoài Trân Châu cảng, một chiếc tàu khui trục của Mỹ có tên Shellfritze đang đi tuần. Đám lính gác dùng ống nhòm đứng trên boong tàu chăm chú quan sát kỹ làn nước tối đen như mực phía dưới. Một trong số họ sững người hỏi bạn mình đổi cho chiếc ống nhòm vì không tin vào độ chính xác của ống nhòm của mình. Sau đó, anh ta chỉ cho đồng đội thấy thứ mà anh ta vừa nhìn thấy.
Trong phòng điều khiển của tàu Shellfrize, một sĩ quan trực ban nghe một bản báo cáo từ trên boong truyền tới. Nghe xong, anh ta quay lại báo cáo với thuyền trưởng.
– Thưa ngài, lính gác cho biết có hai điểm sáng đang lướt đi bên mạn phải của con tàu. Máy phát hiện tàu ngầm của ta đã ghi rõ như thế.
Người kiểm tra thiết bị phát hiện tàu ngầm ngồi gần đó gật đầu đồng tình. Thiết bị của anh ta đã cho thấy một vật rất lớn đang tiến theo hướng mà viên sĩ quan trực ban vừa miêu tả. Thuyền trưởng hỏi người ngồi bên thiết bị phát hiện tàu ngầm.
– Vật đó lớn như thế nào?
Anh này quay trở lại màn hình để nhìn cho rõ hơn nhưng đành lắc đầu. – Giờ thì tôi lại không thấy nó đâu cả.
Thuyền trưởng bảo:
– Có lẽ đó chỉ là một con cá voi nhỏ có răng. Tôi biết loài cá này trông nó giống hệt tàu ngầm vậy.
Cũng đi tuần trong vùng biển ấy và du hành ngay đàng sau chiếc Shellfritze là một chiếc tàu khác của Mỹ có tên Grafftaboss. Lính canh trên tàu này phát hiện ra. Thuyền trưởng của tàu Grafftaboss đang đứng trên boong của tàu ông khi viên sĩ quan trực đến gần và bảo:
– Thưa ngài, Shellfritze có thông báo cho chúng ta về một hiện tượng lạ và bây giờ thiết bị phát hiện tàu ngầm của chúng ta cũng phát hiện điều lạ lùng ấy.
Viên thuyền trưởng nhìn về phía Shellfritze một lát rồi dùng ống nhòm quan sát kỹ mặt nước nơi viên sĩ quan trực chỉ tay cho ông thấy. Đúng là ông ta có thấy một thứ gì màu sẫm đang truồi dưới mặt biển. Ông phản ứng ngay tức thì, chộp lấy máy bộ đàm và gọi:
– Phòng Radio đâu, báo động cho tàu Shellfritze. Nói với chỉ huy trưởng của đội rằng chúng ta phát hiện ra một tàu ngầm và yêu cầu chỉ huy cho phép thả bom diệt tàu ngầm ấy ngay.
Ông nhìn lại cái vật đen thui đang lướt đi cách họ vài trăm bộ. Nước Mỹ cũng có tầu ngầm đi tuần trên vùng biển Thái Bình Dương. Nhưng không có tàu ngầm nào của Mỹ cố tình vi phạm hoặc bơi đến gần cảng Trân Châu và tất cả các tàu chiến đã được lệnh bắn hạ bất cứ tàu nào vi phạm vùng biển họ đang canh giữ. Viên thuyền trưởng nói với viên sĩ quan trực:
– Chúng ta chỉ còn cách Trân Châu cảng 50 hải lý, và cái tàu này tiến vào cảng ấy từ ngoài khơi. Chuẩn bị phương án tấn công nhé, cho tàu chạy ở tốc độ chiến đấu, chuẩn bị chiến đấu.
Máy bộ đàm phát tín hiệu:
– Thưa ngài, chỉ huy trưởng của đội tàu Shellfritze đã không cho phép chúng ta thả bom diệt tàu ngầm.
Viên thuyền trưởng của tàu Grafftaboss không còn tin vào tai mình nữa. Ông hỏi lại:
– Cái gì cơ?
– Từ chối rồi thưa ngài. Phòng liên lạc xác minh lại. Ông chỉ huy trưởng báo đó chỉ là một con cá voi nhỏ có răng mà thôi.
Viên thuyền trưởng cảm thấy cơn giận đang lên chặn ngang cổ họng. Ông tắt vội máy bộ đàm, quay sang nói với viên sĩ quan trực khi cả hai cùng nhìn theo cái vật thể lạ kia biến mất về phía Trân Châu cảng:
– Nếu đó là một con cá voi nhỏ có răng thì ngay lập phía sau đuôi nó chắc phải lắp động cơ của một xuồng máy khổng lồ mới có thể bơi nhanh đến thế.
*
Danny lái xe dọc theo những con đường nhỏ leo dần qua những ngọn đồi chập chùng phía trên đảo Oahu, xa lánh đám đông chen chúc trong những dòng xe cộ ngược xuôi trung tâm. Chiếc mui trần của xe được xếp lại để không khí tươi mát tràn vào buồng lái. Anh đã mua chiếc xe này của một viên đại úy không quân. Anh này nhận được lệnh thuyên chuyển đơn vị quay trở lại Mỹ trên chuyến bay vào sáng ngày hôm sau. Chiếc xe này đã cũ nhưng trông nó còn khá chỉnh tề và viên đại úy đã bán nó cho anh chỉ với một cái bắt tay và dặn với:
– Gửi cho tớ tiền khi nào cậu có đủ, và tớ sẽ gửi cho cậu giấy tờ xe.
Đó là chiếc xe đầu tiên Danny được sở hữu và anh mua nó trong một niềm hy vọng tràn trề rằng anh và Evelyn có thể cùng nhau tạo lập được cái gì chung của hai người. Một cái gì đó mang tính chất lâu dài. Đó là do Danny nghĩ thế, nhưng giờ đây, với Rafe ngồi trong xe bên cạnh anh với sống mũi dập nát và đầu gối khuỷu tay trầy sước tới cằm và ống quyển, rách lưng khi vừa trải qua một cuộc ẩu đả. Danny tuyệt vọng nghĩ đến một lần nữa mình được lái xe trong tâm trạng vui vẻ quả là rất khó.
Rafe không nói câu gì từ khi cả hai cùng rời khỏi quán bar. Bây giờ, khi họ đã lên tới đỉnh đồi và chuẩn bị leo xuống phía sườn đồi bên kia. Rafe lên tiếng:
– Lái xe khá đấy.
Cục giận chặn ngang cuống họng Danny đột nhiên sưng vù lên.
– Đó là tất cả nhũng gì cậu có thể nói được đấy à?
Rafe trịnh trọng quay đầu lại. Anh nhìn ra ghế sau như để thầm khen ngợi nội thất bọc da của chiếc xe rồi sau đó lại quay lên phía trước như thể đoán xem xe này đang lao tới đâu rồi lát sau anh lại nghiêng người sang bên phải như thầm ngắm chiếc sườn xe bóng loáng và rồi anh nôn vọt ra. Danny đạp mạnh thắng và chiếc xe rít lên lao theo đà trước khi dừng lại.
Danny mở cửa xe bên, anh nhảy xuống đường đứng đợi cho cơn ói mửa của Rafe kết thúc. Anh xoa mặt trong cơn tức giận, cảm thấy những vết bầm tím khắp nơi, trên trán, gò má, quai hàm, sau khi đánh nhau với Rafe. Danny vẫn còn tỉnh, cho nên anh cảm thấy đau vô cùng và anh biết đầu mình sẽ còn đau hơn nữa vào sáng ngày hôm sau. Rafe cố đứng thẳng nhưng một đợt nôn nao mới lại dâng trào khiến anh cúi gập người một lần nữa. Anh nấc lên qua hai đợt nôn thốc nôn tháo.
– Sao mày không bị ói hả?
Danny đáp:
– Cứ cho là tao quen rồi.
– Quen với thứ nước Mai-Tais đó hả.
Rafe lại nôn nữa, trong bụng thầm nghĩ không hiểu sao lại có người quen được với thứ nước uống chẳng ra gì kia.
– Muốn thổ tả suốt ngày! Đó là cảm giác thường trực của tao từ khi mày trở về nhà đấy.
Cơn ói mửa khiến Rafe mệt lả người, nhưng anh vẫn cố đứng lom khom chống hai tay lên đầu gối. Anh nói cay đắng:
– Mày đón tao trở về nhà mới nồng nhiệt làm sao.
Danny cấm cảu:
– Này, dẹp ngay cái trò thối tha đó đi. Mày là người thân duy nhất của tao, là thành viên duy nhát trong gia đình tao. Trên đời này, khi mày đi rồi tao rất cô đơn. Chưa bao giờ tao cô đơn đến thế và nàng cũng vậy.
Anh ngừng lại.
– Chúng ta thân thiết đến nỗi đã trở thành một phần thân thể của nhau và Evelyn là một thành viên thứ ba thân thiết chẳng kém gì tao và mày trước đây.
– Câm đi được không. Mày làm tao phát bệnh thêm.
– Đừng đổ lỗi cho cô ấy, Rafe. Mọi chuyện không giống như mày nghĩ đâu. Cô ấy yêu mày, tao biết mà.
Rafe làm như vẻ không muốn nghe, nhưng Danny biết anh bạn mình đang lắng nghe những lời anh nói. Anh nói tiếp:
– Và tao cũng biết nàng luôn yêu mày đấy.
Rafe đứng đó đối mặt với Danny. Anh biết phải rất khó khăn Danny mới nói lên được những lời như thế. Mắt Danny ướt đẫm vì xúc động. Anh muốn Rafe tha thứ cho mình. Muốn Rafe hiểu anh không hề phản bội lại bạn bè, anh nói gần như cầu xin:
– Cô ấy yêu tao một phần bởi vì cô ấy biết tao thân với mày, cô ấy yêu một phần thân thể của mày qua tao vậy. Tao bảo cô ấy thế, Rafe.
– Cảm động quá nhỉ? Có phải mày nói câu đó khi mày hối hả dành giật Evelyn của tao không?
Danny điên tiết đấm mạnh vào ngực Rafe. Rafe co người lại ho sặc sụa, nhưng anh đã nôn ra hết mật xanh mật vàng từ lâu nên bây giờ chẳng còn gì để nôn ra nữa. Danny thấy lòng hả hê vui sướng vì thụi được cho thằng bạn thân mấy đòn chí tử. Rafe đứng lên chậm chạp gật đầu như thể anh xứng với mấy quả đấm đó. Danny gần như muốn xin lỗi thì đột nhiên lần thứ hai trong đêm đó, Rafe đã mạnh vào hạ bộ Danny, Danny khuỵu xuống rên rỉ, Rafe bảo:
– Thế thì tốt hơn đấy.
Rafe bò lên ghế sau của chiếc xe. Thằng Danny vẫn còn nằm lăn ra bên vệ đường chưa ngồi lên được.
*
Cưỡi trên những ngọn sóng gào ngay trong trời mưa bão của biển Bắc Hawaii, Tư lệnh Yamamoto chỉ huy chi đoàn tàu chiến đi theo hải trình đến nơi tập kết trước khi trời rạng sáng.
Một tàu tuần tiễu khác của Mỹ, chiếc The White đang cưỡi sóng quay trở lại cảng sau một đêm tuần tiễu. Thuyền trưởng của nó đứng trên boong và đám lính canh vẫn đang chăm chú quét ống nhòm trên mặt biển. Một người phát hiện ra điều gì đó và chỉ nó cho thuyền trưởng:
– Thưa ngài, ngài có nhìn thấy cái gì kia không ạ?
Viên thuyền trưởng nâng ống nhòm lên nhìn xuống những ngọn sóng đang vỗ bên mạn tàu. Ông nhìn thấy có một thứ gì nhỏ và đen phía bên dưới. – Có, tôi có nhìn thấy một chiếc tàu ngầm chỉ huy.
– Liệu tàu ấy có phải tàu của ta không? – Sĩ quan hỏi.
– Tàu này đang định bám đuôi chúng ta vào trong cảng. Bắn chìm con tàu khốn kiếp ấy cho tôi. – thuyền trưởng trên tàu White nhận lệnh và mang súng lên boong bắn vào chiếc buồng chỉ huy của con tàu ngầm đang lộ ra dưới đáy nước. Đó là phát súng đầu tiên của nước Mỹ trong Đại chiến thế giới lần thứ II. Phát súng ấy đã bắn trượt. Viên đạn đánh vòng qua chiếc tàu địch và phát nổ mà không gây hại được ai.
Dưới tầng nước sâu, bên trong chiếc tàu ngầm của Nhật, viên chỉ huy tàu ngầm nhìn theo chiếc tàu tuần tiễu White bằng kính viễn vọng và hắn nhìn thấy một vòm lửa phụt ra trên boong tàu. Hắn biết mình đang bị đánh đuổi liền la lên cho đám thủy thủ:
– Lặn xuống ngay! Lặn xuống! Lặn sâu xuống!
Nhưng viên đạn thứ hai của con tàu The White thì không bắn trượt. Nó lao thẳng vào thân tàu ngầm, xẻ đôi con tàu như thể một lưỡi rìu bổ xuống một lon bia. Con tàu ngầm rung chuyển và lật úp. Chỉ huy tàu The White đứng trên boong nhìn chiếc tàu ngầm chìm sâu xuống lòng biển đưa ra thêm một mệnh lệnh nữa:
– Hãy mật báo bằng điện đàm về Trân Châu cảng nói rằng: Tàu White đã bắn chìm một tàu ngầm của địch đang tìm cách tiến vào Trân Châu cảng.