Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Size 12 Không Phải Là Mập

Chương 6

Tác giả: Meg Cabot

Kẻ ngưỡng mộ thầm lặng

Em

Là kẻ ngưỡng mộ anh thầm lặng.

Em biết anh Yêu và khát khao cô ấy

Nhường nào.

Em tự hỏi

Anh sẽ làm gì

Nếu biết

Emyêu anh?

Nếu biết

Rằng chính em

Là kẻ ngưỡng mộ anh thầm lặng.

“Kẻ ngưỡng mộ thầm lặng.”

Trình bày: Heather Wells

Sáng tác: Valdez/Caputo

Album: Sugar Rush

Cartwright Records

******************

Jordan đập cửa rầm rầm, tôi mặc kệ.

Bên trong toà nhà lát đá nâu mát lạnh toả nhẹ mùi mực in từ chiếc máy photocopy trong văn phòng của Coop. Tôi vừa lên cầu thang về phòng mình vừa nghĩ Lucy – tôi đã nhắc đến nó chưa nhỉ? Con chó của tôi ấy mà – cần được cho đi dạo một lát thì tình cờ liếc xuống sảnh và thấy mấy cành cửa kiểu Pháp thông ra sân sau đang để mở.

Thế là thay vì lên cầu thang, tôi lại đi xuống hành lang – ông nội của Cooper đã cho dán tường bằng giấy sọc trắng đen, mốt cực thịnh trong giới gay tuổi 70 – và bắt gặp ông chủ toà nhà đang ngồi trong một chiếc ghế ngoài vườn kê ở sân sau, bia trong tay, chó dưới chân (chó của tôi), cạnh là một cái xô đựng đá màu đỏ.

Anh đang nghe – như thường lệ, mỗi khi ở nhà – nhạc jazz trên radio. Cooper là thành viên duy nhất trong gia đình kiêng triệt để món gào ré của hội Easy Street và Tania Trace, và chỏ nghe những giai điệu nhẹ nhàng hơn của Coleman Hawkins với Sarah Vaughn.

“Nó đi chưa?” Cooper hỏi khi thấy tôi đứng ở cửa.

“Sớm thôi,” tôi nói. Rồi tôi chợt nhận ra, “Anh đang trốn ở đây đấy hả?”

“Trúng phóc,” Cooper nói. Anh mở nắp xô đá và lôi ra một chai bia. “Này,” anh đưa nó cho tôi. “Anh đoán em cần làm một chai.”

Tôi đón lấy cái chai mát lạnh một cách biết ơn và ngồi phịch xuống tấm nệm độn bông màu xanh lơ của chiếc ghế sắt bên cạnh. Lucy lập tức chồm qua, dụi dụi đầu vào đùi tôi và khụt khịt mũi sung sướng. Tôi xoa xoa tai nó.

Nuôi chó hay vậy đấy. Lúc nào chúng cũng tỏ ra vui mừng khi gặp chủ. Thêm nữa, hẳn bạn cũng biết rồi, lại còn có bao nhiêu là ích lợi về sức khoẻ. Huyết áp sẽ giảm khi ta nuôi một con chó. Hay thậm chí là một con mèo. Đấy là một sự thật đã được công nhận mà. Trên tạp chí People ngưởi ta đã nói như thế.

Dĩ nhiên thú nuôi không phải là thứ duy nhất có thể giữ cho huyết áp bình ổn. Ngồi thư giãn ở một nơi vô cùng yên tĩnh cũng có tác dụng tương tự. Chẳng hạn như sân sau nhà ông nội của Cooper và khu vườn liền ngay đó chính là 2 trong số những bí mật được giữ gìn cẩn thận nhất ở Manhattan này. Đầy cây lá tươi xanh, được bao bọc bởi những bức tường cao, dây leo chằng chịt, nơi đây đích thị là một ốc đảo nhỏ bé được tỉa tót nên từ một chuồng nuôi ngựa cũ kỹ từ hồi thế kỉ 18. Lại có cả một đài phun nước nhỏ ở trong vườn đã được Cooper bật lên. nước tuôn ra một cách đầy an ủi trong sự yên tĩnh của buổi chiều tà. Vuốt ve đôi tai của Lucy, tôi có thể cảm nhận nhịp tim của mình đang dần trở lại bình thường.

Có lẽ sau khi vượt qua được 6 tháng thử việc, và co1 thể đăng kí học ở trường, tôi sẽ theo học tiền y khoa. Ừ, sẽ rất khó khăn khi phải vừa học vừa làm việc toàn thời gian – đấy là chưa tính chuyện phải làm hoá đơn cho Cooper nữa. Nhưng tôi sẽ có cách xoay xở thôi.

Mà biết đâu sau đó tôi có thể kiếm được học bổng hay gì đó để đi học trường y cũng nên. Rồi đến khi tốt nghiệp, hàng ngày tôi sẽ đát Lucy cùng đi thăm bệnh với mình và nó sẽ xoa dịu tất cả bệnh nhân của tôi. Tôi sẽ hoàn toàn tiệt trừ được các bện về tim mạch chỉ bằng cách cho bệnh nhân nựng nịu con chó của tôi. Tôi sẽ nổi tiếng. Như Marie Curie ấy!

Chỉ có điều tôi sẽ không bao giờ đeo uranium quanh cổ để cuối cùng chết vì phóng xạ giống bà ấy, như trong mấy cuốn sách đã nói đâu.

Tôi chẳng đả động gì đến kế hoạch mới của mình với Cooper. Chẳng hiểu sao, tôi nghĩ anh sẽ không hoàn toàn tán đồng kế hoạch đó, mặc dù anh là một người khá thoáng. Authur Cartwright, ông nội cooper, tức giận vì cách cư xử của mọi người trong gia đình sua khi ông tuyên bố mình là gay, đã để lại phần lớn số tài sản khổng lồ của mình cho viện nghiên cứu chống AIDS; ông cũng đưa tất cả bộ sưu tập tranh tầm cỡ thế giới của mình cho Sotheby bán đấu giá, với điều kiện mọi khoảng tiền thu được sẽ gửi cho hội từ thiện God’s Love We Deliver, và hầu hết của cải còn lại quyên góp cho trường cũ của ông là New York College…

… tất cả, trừ ngôi nhà đá nâu màu hồng trong Làng, ông di chúc để lại cho Cooper, cùng với một triệu đô la hoành tráng vì anh là người duy nhất trong gia đình Cartwright nói. “Miễn nội thích là được ạ!” khi nghe tin về người bạn trai mới của ông, tên là Jorge.

Nhưng Jordan và những người khác trong nhà Cartwright cũng chẳng cần phải quá lo lắng về việc bị ông Arthur cắt phần thừa kế. Vẫn còn cả đống tiền trong két của gia đình Cartwright cho tất cả mọi người thoải mái tiêu xài.

Dẫu sao, thế cũng chẳng làm cho Cooper, vốn đã là đứa con chiên ghẻ của gia đình vì tôi nhảy hết trường trung học này đến trường trung học khác, lại còn chọn học đại học thay vì hát trong ban nhạc Easy Street – đấy là chưa kể sở thích cặp kè với những bác sĩ phẫu thuật tim, hay những chủ gallery vô cùng quyến rũ như Saundra hoặc Yoki** – trở thành nhân vật được ưa thích trong dòng họ Cartwright.

Mà điều này cũng chả khiến anh có chút mảy may bận tâm. Tôi chưa từng thấy ai hài lòng với công ty riêng của mình hơn Cooper Cartwright.

Thậm chí trông anh còn chả giống ai trong gia đình, tóc anh đen trong khi những người khác tóc vàng. Tuy vậy, Cooper cũng có vẻ ngoài hút mắt và đôi mắt xnh lạnh của nhà Cartwright; và đó cũng là những điểm tương đồng duy nhất giữa anh với cậu em Jordan.

Cả 2 đều cao lênh khênh, tướng tá trông rất thể thao; thế nhưng cơ bắp của Jordan là do được tập luyện mỗi ngày nhiều giờ đồng hồ với một huấn luyện viên thể hình riêng tại phòng tập gia đình, còn Coop có được cơ bắp là nhờ những màn bóng rổ một – chọi – một quyết liệt trên sân phố Sáu và phố Ba Tây, và nhờ – mặc dù anh không thừa nhận – những cuộc chạy đua săn đuổi tốc độ cao qua ga Trung Tâm theo yêu cầu của bất cứ khách hàng nào thuê anh. Tôi biết được sự thật đó vì, với tư cách là người ghi hoá đơn tính tiền khách hàng cho anh, tôi đã tận mắt nhìn thấy các biên lai. Không cách gì một người có thể đi từ chỗ taxi – 1 cuốc taxi 6 đô kết thúc lúc 5g01 đến một quầy vé ở Metro North – vé khứ hồi đi Stamford, khởi hành lúc 5g07 – mà không phải chạy.

Vì tất cả những điều này – sự tốt bụng, đôi mắt, vụ chơi bóng rổ cuối tuần… chưa kể vụ nhạc jazz – dĩ nhiên tôi đã yêu Cooper mê mệt.

Nhưng tôi biết điều này sẽ chả đi đến đâu đâu. Anh đối xử với tôi bằng cái kiểu hờ hững thân tình mà người ta thường dành cho cô bạn gái của thằng em; rõ ràng đối với anh, tôi mãi mãi cũng chỉ là như thế thôi. Vì nếu đem so sánh tôi với những phụ nữ mà anh đã cặp kè, tất cả đều mình hạc xương mai, đẹp rạng ngời, đều là giáo sư dạy môn Văn học Phục Hưng hoặc nhà vật lý học vi mô, còn tôi đây chi3 như mộf cái bánh pút-đinh hay gì gì đó.

Mà ai thèm ăn bánh pút-đinh khi người ta có thể nếm crème bru^lée cơ chứ?

Tôi sẽ yêu người khác ngay khi nào có thể. Tôi thề! Nhưng trong lúc đó, tận hưởng sự có mặt của Cooper thì có gì sai trái lắm không?

Vừa hớp một ngụm dài từ chai bia, Cooper vừa ngắm nghía nóc các toà nhà xung quanh… và một trong số đó tình cờ lại chính là Fischer Hall. Nhìn từ sân sau nhà Arthur Cartwright, ta có thể thấy từ tầng 12 đến tầng 20 của Fischer Hall, kể cả tầng mái nhà ngài chủ tịch.

Và còn thấy cả những sợi dây cáp thang máy.

“Thế,” Cooper nói. “Có tệ lắm không?”

Rõ ràng Cooper không có ý nói về cuộc gặp gỡ của tôi với Jordan, vì anh đang hất đầu về hướng Fischer Hall. Tôi cũng chẳng lấy làm ngạc nhiên vì anh đã biết tin về cô gái bị chết. Hẳn anh đã nghe thấy hết hững tiếng còi hụ và thấy cả đám đông lôn xộn ở đó. Theo tôi biết, có thể anh còn có hẳn một cái ra-đa cảnh sát giấu ở đâu đó nữa ấy chứ.

“Chả hay ho gì,” tôi nói, nhấp một ngụm bia trong khi tay mát-xa đôi tay vểnh của Lucy.

Lucy là con chó lai mà tôi đã nhận nuôi ở trung tâm chó mèo lạc ngay sau khi mẹ tôi bỏ đi. Dám chắc Sarah sẽ bảo tôi nhận nuôi Lucy như kiểu để thay thế cho một thành viên trong gia đình lắm, bởi tôi đã bị tất cả người thân của mình bỏ rơi mà.

Nhưng thật ra vì phải đi lưu diễn suốt nên tôi chưa bao giờ nuôi được một con vật cưng nào cả, và đó là lúc tôi cảm thấy mình nên nuôi lấy một con. Lai giữa giống chó cô-li và một phần của giống cáo, Lucy có một khuôn mặt tươi cuời khiến tôi không sao cưỡng lại được – mặt dù Jordan muốn nuôi một con chó thuần chủng, nếu có thể, một con chó cốc gống Tây Ban Nha. Anh ta không vui vẻ gì lắm khi thay vì nuôi một tiểu thư, tôi lại tha về nhà một gã lang thang.

Nhưng thế cũng chẳng sao, vì Lucy cũng chả ưa gì Jordan, và nó đã ngay lập tức chứng tỏ điều đó bằng cách gặp nát một chiếc quần da lộn của anh ta.

Lạ thay, “con bé” chưa bao giờ tỏ ra cáu kỉnh với Cooper, tôi đoán là do Cooper chưa bao giờ ném một tờ tuần san Us vào nó vì cái tội đã gặm nát mấy cái CD của ban nhạc Dave Matthews. Thậm chí Cooper còn chẳng có cái CD nào của Dave Matthews. Anh là fan của Wynton Marsalis mà.

“Có ai biết chuyện xảy ra thế nào không?” Cooper hỏi tiếp.

“Không,” tôi nói. “Hoặc nếu có thì cũng chẳng thèm lên tiếng cung cấp thông tin.”

“Chà!” anh tợp một ngụm bia. “Bọn trẻ con ấy mà. Chắc sợ gặp rắc rối.”

“Em biết,” tôi biết. “Chỉ là… sao chúng có thể để mặc con bé nằm ở dưới đó chứ? Ý em là, con bé phải nằm ở đó hàng mấy tiếng rồi. Vậy mà bọn chúng cứ để như thế.”

“Ai để mặc nó ở đấy?”

“Thì những đứa đi cùng nó chứ ai nữa.”

“Sao em biết con bé có đi cùng ai?”

“Chả ai lại đi lướt thang máy một mình cả. Chẳng phải trò này là nguyên một đám kéo lên đỉnh thang máy qua ô sửa chữa trên trần nhà, và thách nhay nhảy khỏi đỉnh buồng thang chúng đứng, qua đỉnh một buồng thang khác đang đi qua. Nếu không có ai thách thì trò ấy còn nghĩa lí gì.”

Giải thích mọi chuyện với Cooper khá đơn giản, vì anh là một người rất biết lắng nghe. Anh chẳng bao giờ ngắt lời người khác, và luôn luôn có vẻ thực sự quan tâm đến những gì họ nói. Đây là một nét tính cách khác khiến anh chẳng giống những người còn lại trong gia đình Cartwright. Và tôi nghĩ đây cũng chính là nét tính cách đã hổ trợ anh rất nhiều trong công việc. Ta có thể học được rất nhiều thứ bằng cách cứ để cho người khác nói, và lắng nghe những gì họ nói.

“Ít ra tôi đã đọc trong một tạp chí thấy nói thế. “

Tất cả rốt cục cũng chỉ xoay quanh việc bọn nhóc thách nhau nhảy những bước dài hơn và gan hơn,” tôi nói. “Chẳng ai lướt thang máy một mình cả, cho nên nhất định con bé phải đi cùng ai đó. Trừ khi…”

Cooper nhìn tôi, “Trừ khi làm sao?”

“Thì, trừ khi con bé không hề lướt thang máy,” tôi phát biểu, cuối cùng cũng nói ra được cái điều vẫn canh cánh trong lòng suốt cả ngày hôm nay. “Ý em là, bọn con gái không chơi trò đó, nói chung là thế. Lướt thang máy ấy. Ít nhất em chưa từng nghe có vụ nào như vậy cả, chưa từng nghe ở New York College. Đấy là trò mà chỉ có bọn con trai say xỉn mới chơi thôi.”

“Thế,” Cooper rướn người tới trước trong chiếc ghế vải. “Nếu con bé không lướt thang máy, làm soa nó lại rơi xuống đáy giếng thang được? Chẳng lẽ em nghĩ cửa thang máy mở, nhưng buồng thang chưa đến, và con bé cứ bước mà chẳng nhìn để đến nỗi ngã lộn cổ sao?”

“Em không biết. Chuyện như thế làm sao xảy ra được, đúng không? Cửa sẽ không mở nếu buồng thang chưa tới. Mà nếu có xảy ra như thế thật, ai lại ngu ngốc đến độ bước mà không nhìn chứ?”

Đúng lúc đó, Cooper nói, “Biết đâu có người đã đẩy con bé.”

Tôi chớp mắt nhìn anh. Sân sau hoàn toàn yên ắng – không hề có tiếng xe cộ đi lại ở Sixth Avenue hay tiếng lỉnh kỉnh chai lọ ở Wacerly Place, nơi những người vô gia cư vẫn thường lục lọi thùng rác của chúng tôi.

Tuy nhiên, tôi vẫn nghĩ có khi mình nghe lầm.

“Đẩy con bé?” tôi lặp lại.

“Chứ không phải em đang nghĩ đến điều đó sao?” đôi mắt xanh của Cooper chẳng hề bộc lộ chút xíu cảm xúc nào.

Chính điểm này đã giúp anh trở thành một thám tử tư xuất sắc. Và một trong những lý do để tôi tiếp tục tin rằng biết đâu chuyện tình cảm giữa tôi và anh sẽ có chút hy vọng là vì tôi chưa bao giờ thấy trong mắt anh có gì khiến toi tin vào điều ngược lại.

“Có thể cô bé không trượt ngã mà bị ai đó đẩy xuống.”

Vấn đề là, đấy chính xác là điều tôi đang nghĩ.

Nhưng tôi cũng nghĩ rằng nếu mình nói ra thì nghe có vẻ… ừm, điên rồ quá.

“Đừng chối,” Cooper nói. “Đảm bảo là em đang nghĩ như thế. Nhìn mặt em là biết ngay.”

Thật nhẹ nhõm biết bao khi thốt được thành lời, “Bọn con gái không chơi lướt thang máy, anh Coop. Chắc chắn không. Ý em là có thể ở các thành phố khác thì có, nhưng không phải ở đây, không phải ở New York College này. Và con bé ấy… Elizabeth… nó còn là một preppie!”

Đến lượt Cooper chớp mắt, “Là gì?”

“Preppie, học sinh trường tư,” tôi nói. “Anh biết không, chính gốc 100%. Nữ sinh trường tư không đời nảo lại đi lướt thang máy. Và cứ cho là nó có chơi đi chăng nữa thì anh xem, chả lẽ bọn chúng lại bỏ con bé ở đó? Ai lại làm thế với bạn mình?”

“Trẻ con mà,” Cooper nói với một cái nhún vai. “

Bọn chúng không còn là trẻ con nữa,” tôi khăng khăng. “Chúng 18 tuổi rồi.”

Cooper nhún vai, “18 với anh thì cũng vẫn còn là trẻ con,” anh nói. “Nhưng cứ cho là em đúng đi. Thế em có nghĩ ra được bất cứ ai có lí đo muốn đẩy con bé xuống một cái giếng thang không… đấy là nếu họ làm được chuyện đó?”

“Thứ duy nhất lưu trong hồ sơ của cô bé,” tôi nói, “đó là mẹ nó gọi điện và yêu cầu khu cư trú chỉ cho phép nó được tiếp xúc với những bạn gái mà thôi.”

“Tại sao?” Cooper tò mò. “Cô bé có một tên bạn trai cũ côn đồ mà bà mẹ muốn cho vào danh sách KKT chăng?”

Danh sách KKT sẽ được các bác bảo vệ khu nhà phát hành khi một sinh viên cư trú – hoặc bố mẹ chúng, hoặc một nhân viên của khu – đề nghị không cho một cá nhân nào đó được vào bên trong toà nhà. Vì phải xuất trình thẻ sinh viên hay thẻ nhân viên, bằng lái hoặc hộ chiếu để vào nhà nên bảo vệ dễ dàng từ chối không cho bất cứ ai trong danh sách KKT vào. Có một lần, trong tuần đầu tiên làm việc, bọn sinh viên phụ việc đã làm một danh sách KKT giả không cho tôi vào. Để đùa cho vui thôi, chúng nói thế.

Tôi cá là chúng chưa bao giờ làm vậy với Justine.

Tôi cũng không ngờ Cooper lại chú tâm đến những lời tôi lải nhải về cơng việc điên rồ của mình tại Fischer Hall đến nỗi chả nhớ được cả KKT là cái gì.

“Không,” tôi nói, hơi đỏ mặt. “Không thấy nói đến cậu bạn trai nào cả.”

“Nhưng cũng không có nghĩa là không có cậu nào. Bọn trẻ phải đăng kí cho khách vào, đúng không?” Cooper hỏi. “Đã có ai kiểm tra xem thử tối qua Elizabeth có cho cậu bạn trai nào vào không – một cậu mà đến bà mẹ cũng không biết ấy?”

Tôi lắc đầu, không rời mắt khỏi mặt sau của Fischer Hall, lúc này đang đỏ rực trong ánh hoàng hôn.

“Elizabeth có một cô bạn cùng phòng,” tôi giải thích. “Con bé kia không đời nào lại chịu để cho một thằng con trai qua đêm với bạn cùng phòng ngay trên giường đối diện đâu.”

“Bởi vì nữ sinh trường tư thì không làm những chuyện như vậy?”

Tôi lúng túng, hơi khó chịu, “Ừ… không.”

Cooper nhún vai, “Nhưng biết đâu cô bạn cùng phòng kia cũng qua đêm với một anh chàng khác thì sao.”

Tôi chưa nghĩ đến tình huống này. “Em sẽ kiểm tra sổ đăng ký khách thăm,” tôi nói. “Cũng chẳng mất gì.”

“Ý em là,” Cooper nói, “Em sẽ báo cảnh sát để kiểm tra sổ khách đến thăm?”

“Cảnh sát?” tôi hoảng hồn. “Anh nghĩ cảnh sát sẽ tham gia vào sao?”

“Biết đâu đấy,” là câu trả lời nhẹ nhàng của Cooper. “Nếu họ cũng có ý nghĩ ’nữ sinh tường tư đời nào lại làm vậy’ giống em.”

Tôi nhăn mặt làm xấu, đúng lúc chuông cửa reo và chúng tôi nghe tiếng Jordan gào toáng lên, “Heather! thôi nào, Heather! mở cửa đi!”

Cooper thậm chí còn chẳng thèm quay đầu về hướng của chính.

“Sự hết lòng của nó đối với em thật đáng cảm động đấy,” Cooper nhận xét.

“Chẳng liên quan đến em,” tôi giải thích. “Anh ta chỉ muốn chọc điên anh thôi. Anh biết đấy, đế anh tống cổ em ra khỏi nhà. Ngày nào em còn chưa phải sống trong một cái thùng các-tông giữa phố Houston thì anh ta sẽ chưa hài lòng đâu.”

“Có vẻ giữa 2 người chẳng còn gì thật nhỉ.” Cooper nói, vẻ châm biếm.

“Không phải. Không phải anh ta còn thích em đâu. Anh ta chỉ muốn trừng trị em vì dám bỏ anh ta thôi.”

“Hoặc,” Cooper nói, “vì em đã dám hành động theo ý mình, điều mà nó không bao giờ dám.”

“Ý hay!” Cooper là một người ít nói, nhưng khi đã nói ra từ nào thì chỉ có chết từ đấy. Khi nghe tin tôi bắt quả tang Jordan và Tania, anh gọi vào di động cho tôi và bảo rằng nếu tôi đang tìm một chổ ở mới thì tầng trên toà nhà đá nâu của anh, trước đây thằng bé chạy việc của ông nội anh đã từng ở, vẫn còn trống. Khi tôi kể với anh rằng tôi sạt nghiệp như thế nào – nhờ công mẹ – Cooper nói tôi có thể kiếm tiền thuê nhà bằng cách làm hoá đơn khách hàng cho anh, nhập dữ liệu từ hàng đống biên lai rải rác khắp nhà vào Quicken, để anh khỏi trả 175 đô một giờ cho bọn kiểm toán làm việc đó.

Chỉ đơn giản vậy thôi. Thế là tôi rời căn hộ tầng mái Park Avenue mà tôi và Jordan đang sống cùng nhau, chuyển đến chỗ Cooper. Rồi chỉ sau một đêm ở chỗ Cooper, tôi đã có cảm giác như tôi và Lucy trước đó chưa từng sống ở bất cứ một nơi nào khác. dĩ nhiên, công việc chẳng dễ dàng gì.

Coop nói anh nghĩ việc làm hoá đơn chỉ mất khoảng 10 tiếng một tuần, nhưng thật ra chắc cũng phải 20 tiếng. Tôi thường mất cả ngày chủ nhật và vài đêm trong tuần mới rà soát sắp xếp được hết hàng đống giấy lộn, các ghi chép viết ngoáy trên bao diêm, và mớ hoá đơn bị vò nát trong văn phòng của anh.

Tuy nhiên, nếu so với tiền thuê nhà thì 20g một tuần chẳng là cái đinh gì. Ta đang nói về cả một tầng ở khi West Village – một nơi có giá thuê dễ dàng lên đến 3000 độ một tháng theo giá thị trường.

Và tôi biết vì sao Coop lại làm như thế. Chẳng phải vì sâu thẳm trong lòng anh âm thầm ngưỡng mộ các cựu sao nhạc pop size 12 đâu. Thực ra chuyện đó – cũng như chuyện Jordan đang đập cửa ầm ầm ngoài kia – chẳng liên quan gì đến tôi cả. Động cơ của Cooper trong việc cho tôi chuyển vào ở cùng nhà với anh là muốn thực sự chọc cho cả nhà mình điên tiết lên – chủ yếu là thằng em trai Jordan. Cooper lấy làm vo cùng thích thú khi chọc tức được Jordan, và đáp lại, Jordan cực kỳ căm ghét Cooper. Anh ta nói đó là vì Cooper vô trách nhiệm và thiếu trưởng thành.

Nhưng tôi nghĩ lí do thực sự là vì Jordan ghen tỵ với việc Cooper. Khi bị bố mẹ cố gắng gây áp lực buộc phải tham gia nhóm nhạc Easy Street bằng cách doạ sẽ cắt viện trợ tài chính, anh đã không hề tỏ ra ngại nghèo ngại khó, và đã thực sự tìm được đường đi riêng của mình mà không cần tới bất ứ sự trợ giúp nào của Cartwright Records.

Tôi đã luôn nghi ngờ rằng Jordan (dù rất thích biểu diễn) cũng ước gì mình có thể bảo thẳng với bố mẹ là mìnhphai3 đi con đường nào, giống như Cooper (và cuối cùng là cả tôi nữa) đã làm.

Cooper rõ ràng cũng có mối nghi ngờ đó giống tôi.

“Phù,” Cooper thở ra khi từ phía sau khu nhà, chúng tôi nghe tiếng Jordan kêu gào, “Nào, tôi biết 2 người đang ở trong đó mà.”

“Ngồi nghe thằng nhóc vật vã tước thềm nhà mình kể cũng thú thật, nhưng anh phải đi làm đây.”

Tôi không tài nào rời mắt khỏi Cooper được khi anh đặt chai bia xuống và đứng dậy. Cooper đúng là “hàng tuyển”. Trong ánh chiều tà, trông anh đặc biệt rám nắng. Cái rám nắng này, tôi biết, không phải thứ rám nắng nhân tạo như em trai anh. Cái rám nắng của Cooper là kết quả của việc ngồi hàng giờ sau một bờ bụi nào đó với một ống kính tê-lê chĩa thẳng vào của ra vô của một khu nhà nghỉ…

Không phải là Cooper kể với tôi chính xác anh đã làm những gì suốt cả ngày.

“Anh đi làm?” tôi hỏi, chớp mắt nhìn anh. “Vào một tối thứ 7 á? Làm gì cơ?”

Anh cười. Như một trò chơi nho nhỏ giữa hai chúng tôi, tôi cố lừa cho anh nói hớ ra anh đang điều tra vụ gì, còn anh cứ nhất quyết không chịu cắn câu.. Cooper rất coi trọng quyền bảo mật của khách hàng. Vả lại, anh nghĩ những vụ án của mình quá rùng rợn để kể cho bạn gái cũ của thằng em trai út mình biết. Với Cooper, tôi nghĩ mình sẽ mãi mãi chỉ là một con bé 15 tuổi mặc áo yếm hở lưng, để tóc đuôi ngựa, tuyên bố trên một sân khấu ở khu mua sắm rằng mình đang mắc một cơn “lên đường”.

“Suýt nữa thì lừa được nhau rồi đấy,” Cooper nói. “Thế em sẽ làm gì?”

Tôi suy nghĩ một lúc. Magda đã trực 2 ca ở quầy thu tiền trong căng-tin, chắc chắn chị sẽ muốn dông thẳng về nhà để tắm rửa, khử mùi thịt hầm trên tóc. Tôi có thể gọi cho cô bạn Patty, trước là vũ công nhảy minh hoạ cho tôi hồi đi diễn tour Sugar Rush, và cũng là một trong số rất ít những người bạn còn sót lại từ hồi tôi ở trong ngành công nghiệp biểu diễn.

Nhưng Patty đã lập gia đình và sinh con, thế nên cô ấy không có nhiều thì giờ dành cho những người bạn độc thân như tôi nữa.

Tôi nhận ra mình chắc sẽ lại trải qua buổi tối hôm nay cũng như hầu hết các buổi tối khác – hoặc nhập dữ liệu cho Cooper, hoặc nghịch cây đàn guitar, với một chiếc bút chì cùng ít nốt nhạc còn chưa viết ra hợp âm, cố sáng tác một bài hát mà, khác với Sugar Rush, nó sẽ không làm tôi muốn ói mỗi khi nghe lại.

“Ồ,” tôi nói thản nhiên. “Chẳng làm gì cả.”

“Thế thì đừng thức khuya quá mà chẳng làm gì,” Cooper nói. “Nếu lúc anh đi mà Jordan vẫn còn ở ngoài đó, anh sẽ gọi cảnh sát đến kéo cái xe Beemer của nó đi.”

Tôi mỉm cười với Cooper, vô cùng cảm động. Khi nào kiếm được cái bằng y khoa, một trong những việc đầu tiên tôi sẽ là là rủ Cooper đi chơi. Anh có vẻ như không soa cưỡng lại được những phụ nữ siêu-học-thức, thế nên ai mà biết trước được? Có khi anh sẽ đồng ý cũng nên.

“Cảm ơn,” tôi nói.

“Không cần đâu.”

Cooper đi vào nhà, mang theo chiếc radio, để lại Lucy vào tôi một mình trong bóng chiều đang dần đổ. Tôi ngồi ở đó một lúc sau khi anh đã đi, uống nốt chỗ bia, và đưa mắt lên nhìn Fischer Hall.

Toà nhà trông thật ấm cúng, thật yên bình. Khó mà tin được rằng chỉ mới cáhc đây vài giờ, ở đó đã xảy ra một cảnh tượng vô cùng buồn bã.

Mãi đến khi trời nhá nhem tối và những ngọn đèn bắt đầu bật sáng trên các ô của sổ Fischer Hall, tôi mới đi vào nhà.

Và đến lúc đó tôi mới sực nhớ ra lời cảnh cáo của Cooper nghe có vẻ khá láu cả khi tôi nói với anh là tối nay sẽ chả làm gì cả. Lẽ nào anh biết tôi làm gì mỗi tối… chứ không phải là chẳng làm gì? Ở tận tầng dưới mà anh vẫn nghe được tiếng guitar của tôi sao?

Không thể nào.

Nhưng nếu không thì tại sao anh lại nói từ chẳng làm gì như thế? Nghe rất là… tôi cũng chả biết nữa. Rất nhiều hàm nghĩa?

Thật tình tôi không tài nào biết được.

Dẫu sao thì – cứ thú nhận quách cho rồi – đàn ông lúc nào cũng là một cái gì đó bí ẩn đối với tôi.

Biết thế, nhưng đến đêm, khi lấy cây đàn của mình ra, tôi vẫn cố chơi thật nhỏ, phòng khi Cooper về nhà mà không báo trước. Tôi sẽ không để cho bất cứ ai – ngay cả Coop – nghe được mấy bài tôi mới sáng tác gần đây. Không đời nào, sau cái lần bố anh cười nhạo tôi hôm tôi chơi cho ông ta nghe, không lâu sau khi tôi và Jordan chia tay.

Thứ nhạc rock kiểu con gái quậy phá nhăn nhít – Grant Cartwright đã gọi những bài hát của tôi như thế. Sao cô không để việc viết nhạc cho bọn chuyên nghiệp và chú tâm vào những gì cô làm khá nhất đi, đó là hét những bài top 40 và các bản power ballad ấy? Mà này, cô vừa tăng cân phải không?

Rồi sẽ có một ngày tôi chứng tỏ cho Grant Cartwright thấy rằng một ca sĩ hát rock quậy phá thì sẽ trông như thế nào.

Rồi trong khi rửa mặt đi ngủ, tôi chợt nhìn qua cửa sổ và thấy Fischer Hall đèn sáng tưng bừng trên nền trời đêm. Tôi có thể thấy những dáng điệu nhỏ bé của lũ sinh viên đang đi loanh quanh trong phòng, và có thể mơ hồ nghe thấy tiếng nhạc vọng ra từ một vài phòng.

Sự thật đúng là hôm này đã có một người chết trong toà nhà ấy. Nhưng có một sự thật nữa là, đối với tất cả những người khác, cuộc sống vẫn đang tiếp diễn.

Và ngay lúc này đây nó vẫn đang tiếp diễn, khi mấy đứa con gái đang chải chuốt trước gương trong phòng tắm để chuẩn bị đi chơi, còn bọn con trai mở Rolling Rocks trong khi chờ bọn con gái.

Trong lúc đó, xuyên qua những mạch thang dọc theo toà nhà, tôi nhìn thấy những tia sáng liên tục loé lên khi các buồng thang im lặng trượt lên, trược xuống.

Và tôi không khỏi tự hỏi điều gì đã xảy ra. Cái gì đã khiến con bé làm như thế?

Hay…

Ai?

Bình luận