Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Size 12 Không Phải Là Mập

Chương 22

Tác giả: Meg Cabot

Anh là phép màu

Phép màu với em

Em bị anh yểm bùa

Ngay cả bạn em cũng thấy

Anh là phép màu

Phép màu với em.

“Phép màu”

Trình bày: Heather Wells

Sáng tác: Dietz/ Ryder

Cartwright Records

****************

Sau khi Cooper và tôi – và cả Chris Allington – rời tiệc Hoa Bướm, Rachel Walcott đã được tặng thưởng một chiếc huy chương Hoa Bướm cho những cống hiến mẫu mực với nhà trường.

Rachel cho tôi xem cái huy chương cài áo hình bông hoa nho nhỏ vào sáng hôm sau, lòng ự hào loé lên trong đôi mắt nâu xinh đẹp.

Rachel cài nó lên ve chiếc áo khoác linen màu đen như thể nó là một cái huân chương vì lòng dũng cảm hay sao đó.

Tôi đoán với chị ta chắc nó là như vậy. Ý tôi là, chỉ trong có một học kỳ, chị ta đã phải đối phó với mấy bi kịch liền, nhiều hơn hẳn so với bất cứ nhà quản lý nào trong cả sự nghiệp của họ.

Tôi chưa từng đạt được cái gì đó trong đời. Ừ, thì có một cái hợp đồng thu âm, nhưng chỉ thế thôi. Tôi biết thường người ta không trao giải Grammy cho những bài như “Sugar Rush” bao giờ. Nhưng xin lỗi nha, tôi còn chưa thắng nổi cái giải khán giả bình chọn nữa kia. Thậm chí ngay cả giải do khán giải tuổi teen bình chọn cũng không nốt.

Nhưng tôi là Nữ hoàng tuổi teen một trăm phần trăm. Ít nhất là cho đến khi tôi không còn là nữ hoàng tuổi teen nữa, Hì.

Nhưng tôi cố không để Rachel thấy mình ghen tỵ với giải thưởng của chị ta. Cũng chẳng phải tôi ghen tỵ gì ghê lắm. Chỉ là, thì bạn cũng biết rồi đấy.

Tôi là người đã hì hục lôi mấy cái thùng đó ra từ tầng hầm. Những cái thùng bọn tôi đã dùng để đóng đồ đạc của Elizabeth và Roberta. Tôi cũng là người đã đóng đồ đạc vào thùng luôn. Và chính tôi đã kéo lê chúng ra bưu điện, rồi gửi chúng đi. Đáng ra tôi nên được thưởng cái gì cho điều đó chứ. Không được giải Hoa Bướm thì chí ít cũng phải được giải Hoa Bồ Công Anh chứ.

Xời! Chừng nào chứng minh được mấy đứa con gái đó chết không phải do tai nạn mà do bị sát hại, và tìm ra đích thị hung thủ là ai, có khi tôi sẽ thắng được giải Chìa khoá vào thành phố hay gì đó ấy chứ. Thật luôn! Và đích thân ngài thị trưởng sẽ trao giải thưởng cho tôi, và sẽ được truyền lên kênh New York One. Rồi thì Cooper sẽ xem và nhận ra rằng, mặc dù không phải là một giáo sư lịch sử hội hoạ hay size 0, tôi vẫn hoàn toàn thông minh và dễ thương; rồi anh sẽ rủ tôi đi chơi và chúng tôi sẽ cưới nhau, rồi hạ sinh Jack, Emily và Charlotte Wells Cartwright…

Thì, con gái cũng có quyền mơ mộng chứ, đúng không?

Và tôi mừng cho Rachel. Tôi chúc mừng và nhấp chút cà phê lúc chị ta tả lại cảm giác của mình khi được nhận cái giải thưởng danh giá ấy trước tất cả các bạn đồng liêu. Chị ta kể Ts. Jessup đã ôm hôn, và chủ tịch Allington đã đích thân cảm ơn những đóng góp vượt ngoài khuôn khổ trách nhiệm của chị ta như thế nào. Chi ta hào hứng kể lể về việc mình là viên quản lý đầu tiên trong lịch sử New York College nhận được những 7 đề cử độc lập cho giải thưởng – số lượng đề cử tối đa cho mỗi cá nhân – và đã nhận được tất cả những thứ đó chỉ trong 4 tháng đầu tiên làm việc tại đây! Rachel kể chị ta vui mừng ra sao khi đã quyết định học cao hơn thay vì lao vào kinh doanh hay làm luật, như quá nhiều bạn bè cùng khoá ờ Yale với mình.

“Chẳng phải tốt sao,” chị ta hỏi tôi, “khi biết là mình đã tạo nên một sự khác biệt như vậy cho cuộc đời những người khác, hả Heather?”

“Ừm,” tôi nói. “Dĩ nhiên rồi”

Mặc dù tôi tin chắc là những cuộc đời mà tôi đang tạo ra sự khác biệt lớn nhất – bọn sinh viên phụ việc – chỉ mong Justine quay lại đây.

Khi Rachel hạ xuống từ 9 tầng mây Hoa Bướm, tôi vồ ngay lấy cái điện thoại và coi ngó một vài việc mà tôi thấy mình đã xao nhãng.

Đầu tiên, tôi gọi lên phòng Amber. Khi nghe giọng nói ngái ngủ của con bé rền rĩ cất lên, “Vâng?”, tôi nhẹ nhàng đặt ống nói xuống. Okay, Amber vẫn còn sống. Tích.

Rồi tôi gọi đến bệnh viện St. Vincent để xem Jordan thế nào. Anh ta, theo tôi được biết, đã khá hơn, nhưng họ vẫn muốn giữ lại để theo dõi một đêm nữa. Dù không thực sự muốn,nhưng tôi nghĩ mình cũng nên nói chuyện với anh ta – bạn cũng biết rồi đấy, vì chính là lỗi tại tôi nên anh ta mới bị thương như thế.

Nhưng khi bảng điện nối máy cho tôi với phòng anh ta thì giọng một phụ nữ trả lời. Tania. Mới sáng ngày ra không thể đối phó với các thể loại hôn thê được, thế nên tôi cúp máy. Tôi cũng thấy hơi tội lỗi nên đã đặt một nửa tá bóng bay mau-khoẻ-nhé từ hàng hoa gần chỗ làm, hướng dẫn họ đưa tới bệnh viện St. Vincent với một dòng tin cực kì cá nhân: Mau khoẻ nhé, Jordan. từ Heather. Chắc chắn đám bóng bay ấy sẽ mất hút trong đám quà tặng mà các fan đã gửi cho anh ta – một buổi thức đêm cầu nguyện với nến cũng đã diễn ra ngoài cổng St. Vincent – nhưng chí ít tôi cũng có thể nói mình đã có cố gắng.

Việc nghĩ tới Jordan và cái hộp sọ bị nứt của anh ta nhắc tôi nhớ đến Christopher Allington. Là một thám tử thật thụ, tôi cần phải, dĩ nhiên, nối lại cuộc trò chuyện dở dang của chúng tôi đêm hôm trước.

Thế là tôi quyết định tấn công cậu ta thêm lần nữa. Tôi bảo với Rachel mình phải đi vệ sinh một lát. Nhưng thật ra tôi đến thang máy và phi ngay lên tầng 20.

Chẳng ai cần bén mảng đến tầng 20, trừ gia đình Allington và khách của họ. Và đấy cũng là lí do vì sao tấm thảm ngoài sảnh trước nhà họ – thực chất là một thiết bị cực lớn – phát hiện chuyển động. Thiết bị ấy sẽ hoạt động ngay khi có người dẫm lên nó, kể cả gia đình Allington. Báo động này sẽ lập tức khiến cho một máy quay bật lên, sau đó truyền hình ảnh của kẻ đột nhập lên một màn hình ở bàn bảo vệ trong sảnh.

Nhưng vì người bảo vệ trực ca hôm nay là bác Pete nên tôi không quá lo sẽ bị bắt quả tang. Chúng tôi đã bắt được một số sinh viên năm nhất ở tầng 20; hầu hết đều bị bọn khoá trên láu cá lừa lên đó tìm cái “bể bơi Fischer Hall”. Cái bể bơi Fischer Hall khó kiếm ấy đã từng tồn tại, nhưng là trong tầng hầm chứ không phải trên tầng mái; và một trong những trò đùa ưa thích của bọn khoá trên là điều những đứa năm nhất ngây thơ lên tầng 20 để tìm nó, biết là bọn này sẽ báo động bộ phận phát hiện, và bị tóm vì xớ rớ trước căn hộ của gia đình ngài chủ tịch.

Tôi mạnh dạn bước lên tấm thảm khó chịu ấy và nhấn một ngón tay vào cái chuông trước cửa căn hộ nhà Allington. Tôi nghe thấy một tiếng huýt kì lạ từ sau cánh cửa, và đoán là mấy con chim của bà Allington – lũ vẹt mào mà mỗi khi uống quá nhiều là bà lại hết sức lo lắng cho chúng. Khi tôi nhấn cái chuông, tiếng huýt trở thành một tiếng rít điên rồ, và trong một thoáng, tôi phát hoảng cả lên.

Thật luôn. Tôi quên hết chuyện làm thám tử/ tiểu thuyết gia/ bác sĩ/ nhà thiết kế trang sức, và chỉ muốn chạy ngay về chỗ thang máy…

Nhưng tôi chưa kịp có cơ hội chuồn và né đi thì cánh cửa vụt mở, và bà Allington, mắt lờ mờ, mặc một cái áo dài captan bằng nhung xanh, đã chớp chớp mắt nhìn tôi.

“Sao?” bà hỏi, bằng một thái độ cực kì kém thiện chí, nhất là khi chỉ mới 2 tuần trước hay gì đó, tôi đã đỡ tay bà lúc bà phun vô cái chậu cây ở sảnh. Sau lưng bà, tôi nhác thấy một cái chuồng chim cao mét rưỡi, trong đó có 2 con chim lớn đang gào thét vào mặt tôi.

“A, xin chào,” tôi ra vẻ hồ hởi nói. “Christopher có đây không ạ?”

Hai mí mắt sưng húp của bà Allington hơi mở ra một chút, rồi lại trở về bình thường. “Cái gì?”

“Chris,” tôi lặp lại. “Con trai bà, Christopher. Cậu ấy có đây không ạ?”

Bà Allington trông cực kì khó chịu. Lúc đầu tôi nghĩ chắc tại tôi đã đánh thức bà, nhưng hoá ra đấy chỉ là một phần.

Không, điều tôi tực sự đã làm là chọc điên ý thức đạo đức của bà kìa.

Được rồi! Ai mà biết bà ấy cũng có cái ý thức đó chứ? Nhưng hoá ra bà ấy có thật.

Bà Allington nói, cẩn thận nhả từng chữ như thể tôi là người nước ngoài, “Không, Chris không có đây, Justine à. Và nếu được nuôi dạy tử tế thì cô phải biết là con gái trẻ mà đi theo đuổi đàn ông một cách bạo liệt như cô sẽ bị coi là cực kì không phù hợp đấy nhé.”

Rồi bà sập cửa đánh rầm một cái, làm mấy con chim càng hét to hơn nữa vì hoảng hồn.

Tôi đứng nhìn chằm chằm vào cái cửa đã đóng mất một phút gì đó. Phải công nhận là tôi có hơi bị tổn thương cảm xúc một chút. Ý là, tôi tưởng bà Allington với tôi thân nhau lắm kia.

Thế mà bà vẫn gọi tôi là Jusine.

Đáng ra tôi nên biến đi cho rồi, Nhưng bạn cũng biết đấy. Tôi vẫn cần phải biết Chris đang ở đâu.

Thế nên tôi với tay và lại nhấn chuông. Tiếng hét của mấy con chim dâng lên một âm cao chói lói, và khi mở cửa, trông bà Allington không chỉ phát cáu mà như sắp giết người đến nơi.

“Cái giề?” bà quát.

“Xin lỗi,” tôi nói lịch sự hết mức có thể. “Tôi thực sự không muốn làm phiền bà. Nhưng bà có thể nói cho tôi biết tôi có thể tìm Chris ở đâu không ạ?”

Khuôn mặt bà Allington có rất nhiều nếp nhăn. Mấy cú nâng mặt ở chỗ này chỗ nọ có thể giải quyết vấn đề, nhưng bà thực sự không thuộc loại véo chỗ nó thó chỗ kia. Bà giống loại Tân Tây Lan không-bao-giờ-mở-miệng-khi-nói hơn. Gần giống bà Cartwright. Chỉ có điều dễ sợ hơn.

Tóm lại là, một đám da nhăn nheo dưới cằm bà khẽ rung lúc bà trừng trừng nhìn tôi.

Cuối cùng bà nói, “Bọn con gái các cô không để nó yên được à? Lúc nào cũng chạy theo nói, gây khó dễ cho nó. Các cô không chạy theo đứa khác được sao? Chẳng lẽ không có đủ trai trong cái kí túc này hả?”

“Khu cư trú,” tôi sửa.

“Cái gì?”

“Đây là khu cư trú,” tôi nhắc bà. “Bà mới nói kí túc. Nhưng thực ra nó là một…”

“Đi chết đi,” bà Allington nói, dập cửa đánh sầm vào mặt tôi một lần nữa.

Oa. Dữ à nha. Thay vì cứ ra rả phân tích tâm lý tôi suốt ngày, có vẻ như Sarah nên hướng sự chú ý qua nhà Allington thì hơn. Họ có quá nhiều vấn đề.

Thở dài, tôi quay lại và nhấn nút xuống thang máy.

Dù không dám chắc, nhưng tôi nghĩ bà Allington có vẻ đã uống rượu rồi… mà còn chưa đến 10g sáng! Tôi tự hỏi không biết bà có hay nốc rượu sớm thế này không, hay đây là dịp đặc biệt. Thí dụ như để ăn mừng giải Hoa Bướm của Rachel chẳng hạn.

Lúc xuống lại khu tiền sảnh, suýt chút nữa tôi đã đâm vào một con bé gầy gò. Con bé đang hướng về văn phòng của Rachel, thế là tôi bắt đầu hỏi xem có giúp gì được không, nhưng khi con bé quay lại, tôi nhận ra đấy chính là Amber. Chính xác. Amber của Chris Allington, quê ở Idaho. Con bé tôi vừa đánh thức ban nãy.

“Ô, hi,” Amber nói khi nhận ra tôi. Tiếng chào của nó hơi kém nhiệt tình, chắc tại vẫn còn nửa tình nửa mơ. Con bé thậm chí còn đang mặc pijama. “Chị không phải là… chị không phải là quản lý khu chứ hả?”

“Không,” tôi nói. “Tôi là trợ lý của cô ấy. Sao?”

“Vì em vừa nhận được một cuộc hẹn bảo là phải xuống đây ngay sáng nay để có một cuộc họp bắt buộc với Rachel Walcott…”

Ngay lúc đấy, Rachel lộp cộp bước ra khỏi văn phòng của tôi, ôm một tập hồ sơ vào ngực.

“Ô, Heather, cô đây rồi,” chị ta nói, tỏ vẻ rạnh rỡ. “Cooper đến đấy.”

Tôi cứ ngỡ mình sẽ phải phát ra một âm thanh kiểu không thể tin nổi, bởi vì Rachel nhìn tôi tò mò và nói, “Thật mà.” Rồi sự chú ý của chị ta lập tức chuyển sang cô gái đứng kế bên tôi. “Amber?” Rachel hỏi.

“Vâng ạ,” Amber có vẻ phục tùng. Chậc, thì đứa sinh viên năm nhất 18 tuổi nào bị dựng dậy lúc 10g sáng để gặp giám đốc khu cư trú lại chẳng tỏ vẻ khúm núm kia chứ?

“Lối này, Amber.” Rachel nói, nắm lấy cùi chỏ Amber. “Heather, cô nhận dùm điện thoại của tôi trong vài phút nhé…”

“Dĩ nhiên rồi,” tôi nói và quày quả bước vào văn phòng, nơi mà, đúng thật, Cooper đang lắc đầu trước lọ bao cao su trên bàn tôi.

“Hi, Cooper,” tôi nói, hơi thận trọng. Mà như thế cũng dễ hiểu thôi, vì rằng, thì đấy, lần trước anh thò mặt đến văn phòng tôi chỉ để nói cho tôi biết bạn trai cũ của tôi đã đính hôn với người khác. Còn lần này là chuyện gì đây?

Khi cái thang nhân viên đưa tôi vượt lên trên hai cái thang ấy, tôi chẳng thấy Gavin đâu cả – cả cái xác không đầu của cậu ta cũng không nốt. Không vỏ bia rỗng, cũng chẳng có tiếng cười cố nén, chẳng có gì cả. Gần như là Gavin chưa từng ở đó…

Rồi tôi thấy thót tim vì sợ khi chợt nhớ tới Marian Braithwaite. Ôi chúa ơi! Chị ta và Cooper đã làm lành, họ sắp cưới nhau, và Cooper tớ đây để báo cho tôi biết là anh cần đòi lại căn nhà vì vú em sẽ phài sống ở đó…

“hi, Heather,” Cooper nói, trông giản dị hơn nhiều trong quần jeans và áo khoác da so với lúc mặc tux. “Rảnh một phút không?”

Hi, Heather. Rảnh một phút không? Hi, Heather. Rảnh một phút không? Cái kiểu vào đầu GÌ VẬY? Có 4 từ nào hiệu nghiệm hơn “rảnh một phút không’ để đánh vào nỗi hãi hùng sâu trong tim người khác không cơ chứ? Không. Không, tôi không có một phút! Nếu anh định nói với tôi cái điều tôi nghĩ anh sắp nói đây. Tại sao lại là chị ta? TẠI SAO? Chỉ vì chị ta thông minh và thành đạt và xinh đẹp và gầy thôi á…

“Dĩ nhiên,” tôi nói, bằng cái giọng mà tôi hy vọng là rất ngầu và tự tin, nhưng đảm bảo khi thoát ra nghe chẳng khác nào tiếng dê be be. Tôi ra hiệu cho Cooper ngồi xuống, rồi thu người vào ghế của mình, ước gì có được một chai của bất cứ thứ gì bà Allington vừa nốc suốt buổi sáng nay.

“Ừm, nghe này, Heather,” Cooper nói. “Về chuyện tối qua…”

Không! Bởi vì nếu có 4 từ nào tệ hơn “rảnh một phút không?” thì chỉ có thể là “về chuyện tối qua…”

Và giờ tôi đã có cả 8 từ đó, cụm này tiếp cụm kia. Thật bất công!

Mà chuyện gì đã xảy ra tối qua chứ? Chẳng có gì cả! Tôi đã ra khỏi chiếc taxi mà Cooper tống tôi vào, rồi vào nhà ngủ ngay.

Okay, thực ra tôi đã thức một tiếng gì đó để vết một bài hát mới. và có thể bài hát đó là về anh.

Nhưng anh không thể nghe thấy được! Tôi chơi cực nhỏ. Và tôi cũng chẳng hề nghe thấy tiếng anh về. Ôi, tại sao lại là tôi? TẠI SAO LẠI LÀ TÔI?

“Anh nghĩ anh cần phải giải thích với em,” là điều bất ngờ tiếp theo thoát ra khỏi miệng anh.

Khoan đã. Tôi cần phải giải thích với em ư? Nghe có vẻ không giống với khúc dạo đầu đẩy tôi ra khỏi nhà cho lắm. Thậm chí lại nghe giống một lời xin lỗi nữa kia. Nhưng Cooper thì phải xin lỗi vì chuyện gì trên đời này cơ chứ?

“Anh đã gặp một người bạn ở văn phòng giám định tối qua sau khi ta rời bữa tiệc,” anh mở lời. “Và cô ấy nói…”

Khoan đã. Cô ấy nói? Cooper đá tôi vì một cô gái khác nữa ư?

“Hoá ra đấy là nơi anh đến à?” tôi phun ra, trước khi kịp ngăn mình lại. “Để gặp một cô gái á?”

Ôi… lạy… chúa! Con làm sao vậy chúa? Tại sao con không thể ngầu và tự tin như… ừm, như Rachel được chứ?

Tại sao lúc nào con cũng phải tệ lậu thế này?

May mà Cooper, hoàn toàn không biết gì về những kế hoạch tôi dành cho anh (thì đấy, nào là anh sẽ cưới tôi và là cha của 3 đứa con chưa ra đời của tôi, nào là nguồn cảm hứng cho sự nghiệp y khoa đoạt giải Nobel của tôi), không hiểu ra là tôi đang ghen. Có vẻ như anh nghĩ tôi vẫn còn giận vì đã bắt tôi rời buổi tiệc quá sớm.

“Anh không định nói với em,” anh nói. “Em biết đấy, đề phòng cô ta chẳng có gì để nói cả. Nhưng sự thật là, có một điều gì đó khá kì lạ về xác của mấy cô gái kia.”

Tôi chỉ nhìn anh trừng trừng. Tôi không thể nào tin nổi. Chẳng phải vì cô “bạn” của anh ở phòng giám định đã tìm thấy điều gì đó về thu thể của Elizabeth và Roberta. Mà ngay từ đầu anh đã cất công đi tham vấn cô ta thay tôi.

“Như… nhưng,” tôi cà lăm. “Em tưởng… anh nghĩ… em chỉ đang bịa ra mọi chuyện thôi chứ. Vì nhớ cái cảm giác kích thích lúc được biểu diễn ấy…”

“Anh có nghĩ,” Cooper nói, với một cái nhún vai. “Ý là, anh đã từng nghĩ thế thật. Nhưng anh thấy hỏi một tí cũng chẳng mất gì.”

“Và?” tôi chồm về phía trước đầy hào hứng. “Chuyện gì vậy? Ma tuý à? Bọn nó bị chuốc thuốc à? Em tưởng thanh tra Canavan nói không hề có chất gây nghiện nào được phát hiện trong cơ thể hai đứa.”

“Không,” Cooper nói. “Không phải ma tuý. Mà là những vết bỏng.

Tôi tròn mắt nhìn anh, “Vết bỏng á? Vết bỏng loại gì? Như là… bỏng thuốc lá á?”

“Không,” Cooper nói. “Angie không chắc lắm.” Angie? Cooper biết một người trong văn phòng giám định tên là Angie ư? Nhưng mà anh với cô Angie này gặp nhau như thế nào mới được chứ? Angie nghe không giống kiểu tên thông thường của một chuyên viên giám định pháp y cho lắm. Một vũ công múa cột, có thể. Nhưng không phải là một bác sĩ…

“Và ta phải biết rằng mấy cái xác kia,” Cooper nói tiếp. “Ừm, khá là lộn xộn. Nhưng Angie nói bên họ có tìm thấy dấu bỏng trên lưng cả hai cô gái, những dấu vết không tài nào giải thích được. Nó chưa đủ để thay đổi phán quyết của pháp y – em biết đấy, rằng cái chết không phải do tai nạn. Nhưng chúng khá là… kì”

“Kì?” tôi lặp lại.

“Ừ, kì.” Cooper nói.

“vậy là…” tôi không dám nhìn vào mắt anh. Bởi tôi không sao tin nổi rằng anh quả tình đang coi chuyện tôi nói là nghiêm túc. Tôi, Heather Wells, một đứa nổi danh vì “Sugar Rush.”

Và chỉ mất có vài ba vụ giết người…

“Vậy không phải em đã bịa ra mọi chuyện vì những tức giận cố nén về phía mẹ mình à?” tôi hỏi.

Cooper trông có vẻ ngạc nhiên, “Anh nói thế bao giờ?”

Ồ đúng rồi. Đấy là Sarah.

“Nhưng giờ anh tin em rồi à?” tôi trêu anh. “Em không còn là cô bạn gái cũ điên rồ của em trai anh nữa à? Mà có thể là, kiểu như, một đứa có đầu óc?”

“Anh chưa từng nghĩ em là gì khác ngoài,” Cooper nói, nét bực mình thoáng ánh lên trong đôi mắt xanh. Rồi nhận thấy sắc mặt tôi, anh nói tiếp, “ừm, điên thì có thể. Nhưng anh chưa bao giờ nghĩ em là người thiếu tỉnh táo. Thật tình đấy, Heather, anh không biết em lấy đâu ra điều đó. Anh luôn nghĩ em là một trong những…”

Loài vật xinh đẹp, hấp dẫn nhất mà anh từng gặp? Người phụ nữ thông minh, mỹ miều đáng kinh ngạc mà anh quen?

Buồn thay, anh chưa kịp nói với tôi điều anh luôn nghĩ về tôi – hoặc quỵ đầu gối xuống và cầu hôn tôi (Biết rồi, khổ lắm. Nhưng con gái cũng có quyền mơ chứ!) – thì điện thoại reo.

“Đợi em một chút,” tôi nói với Cooper, và nhấc ống nghe. “Fischer Hall, Heather nghe.”

“Heather?” Là Tina, nhân viên trực bàn đang trong ca làm việc. “Chờ một chút, Julio muốn nói chuyện với chị.”

Julio nhấc máy. “Ô, Haythar, tôi xin lỗi,” anh nói. “Nhưng nó lại làm trò đó nữa rồi.”

“Ai lại làm cái gì nữa rồi?” tôi hỏi.

“Thằng nhóc đó, Gavin. Cô Walcott bảo tôi…”

“Được rồi, Julio,” tôi nói, cẩn thận không để Cooper nghe thấy, nhớ lại vụ lần trước. “Tôi sẽ gặp anh ở chỗ cũ.” Rồi tôi cúp máy.

Thật chả đúng lúc tẹo nào! Ngay khi Cooper vừa chuẩn bị nói cho tôi biết anh thật sự nghĩ gì về tôi!

Mặc dù, nghĩ lại, tôi không chắc mình đã muốn biết. Bởi vì cùng lắm sẽ là một cái gì đó đại loại như “một trong những người nhập liệu giỏi nhất anh từng biết” thôi.

“Ở yên đây nhé,” tôi nói với Cooper.

“Có chuyện gì không ổn à?” Cooper hỏi, vẻ lo lắng.

“Chẳng có chuyện gì mà em không thể xử lý trong một chớp mắt,” tôi nói. Ôi lạy chúa, tôi vừa nói “chớp mắt” à? Chậc, thôi kệ. “Em sẽ trở lại ngay.”

Cooper chưa kịp nói thêm từ nào thì tôi đã chạy bán sống bán chết khỏi văn phòng, đến thang máy dành cho nhân viên, nơi tôi bảo Julio, người gặp tôi ở đó, cầm lấy cái điều khiển, và Đi, đi đi!

Bởi vì bọn tôi càng nhanh trở về, tôi càng sớm biết liệu, thì đấy, có cơ hội nào cho tôi trong lòng Cooper không, hay tôi nên từ bỏ đàn ông luôn cho xong. Có khi New York College cũng đào tạo chuyên ngành nữ tu cũng không biết chừng. Bạn biết đấy, hoàn toàn từ bỏ đàn ông, và bước theo con đường độc thân chủ nghĩa. Bởi vì có vẻ như đấy chúnh là con đường dành cho tôi.

Khi Julio cho thang máy lên tầng 10, tôi trèo lên vách buồng thang và nhướn người qua cái nóc đang để mở. Khi đã vào giếng thang, mọi thứ lại ấm áp và yên tĩnh như thường lệ.

Chỉ có điều tôi không nghe thấy tiếng Gavin cười, không như thường lệ. Có lẽ cuối cùng cậu ta đã bị một sợi dây cáo nghiến nát đầu, như Rachel vẫn thường cảnh báo. Hoặc có lẽ cậu ta đã ngã. Ôi chúa ơi, làm ơn đừng nói với con là cậu ta đang ở dưới giếng thang…

Tôi đang nghĩ liệu mình sẽ làm gì nếu thấy trên nóc thang số 1 là thi thể không đầu của Gavin thì thang nhân viên tiến lại gần hai buồng thang còn lại, cả 2 cái thang đều đang chờ ở tầng 10.

Khi cái thang nhân viên đưa tôi vượt lên trên hai cái thang ấy, tôi chẳng thấy Gavin đâu cả – cả cái xác không đầu của cậu ta cũng không nốt. Không vỏ bia rỗng, cũng chẳng có tiếng cười cố nén, chẳng có gì cả. Gần như là Gavin chưa từng ở đó…

Điều tiếp theo tôi biết là một tiếng nổ rung trời làm chấn động thang máy, rồi tạo thành một tiếng gầm trong hai tai tôi, nghe như tiếng sóng đại dương, chỉ có điều nhân lên gấp một nghìn lần.

Tôi đứng hẳn dậy – hợi loạng choạng – để nhìn nóc hai cái thang phía dưới cho rõ hơn, và khi thấy vụ nổ như xé toạt dưới chân mình, tôi chộp đại theo bản năng – nhưng mù quáng – một cái gì đó, bất cứ thứ gì, để bám lấy.

Có cái gì đó như hàng nghìn lưỡi dao cạo cùng cứa vào tay tôi; và tôi chợt nhận ra mình đang bám vào một sợi cáp bằng kim loại đang rung chuyển dữ dội từ dư chấn của vụ nổ. Mặc kệ, tôi cố bám lấy sợi cáp bằng thép lắc lư ấy, vì đấy là cái duy nhất ngăn tôi khỏi sự quên lãng của cái giếng thang tối mò phía bên dưới. Bởi vì chẳng có gì tồn tại dưới chân tôi nữa. Một phút trước tôi còn đứng trên nóc thang nhân viên, nhưng chỉ phút sau, nóc thang đã sụm xuống dưới chân tôi, giòn rụm như một lon khoai tây chiên Pringles.

Hừm. Khoai tây chiên Pringles!

Thật buồn cười cho cái điều mà ta nghĩ đến ngay trước khi ta chết.

Tôi tránh được trận mưa théo từ trên ập xuống chỉ nhờ may mắn mà thôi. Sợi cáp tôi đang bám lấy bắt đầu lắc lư dữ dội, nhưng tôi đu vào nó bằng cả hai tay lẫn hai chân, quặp chặt hai chân vào nhau.

Có cái gì đó đập mạnh vào vai tôi lúc nó rơi xuống khiến tôi lỏng tay bám vào sợi cáp. Cú va đập ấy làm tôi đau đến không thở nổi.

Đúng lúc ấy tôi nhìn xuống, mắt dại đi, và chợt thấy cái thang nhân viên đã biến mất.

Ừ, không hẳn là biến mất. Nó đang rơi tự do dưới chân tôi như một lon sô-đa ai đó vứt xuống máng đổ rác; những sợi cáp đều nới lỏng – tất cả, trừ cái tôi đang bám đây – rôi ngoằn ngoèo theo sau cái buồng thang như những dải ruy băng trên mạng che mặt cô dâu.

Nó không thể rơi được, tôi chỉ thầm nghĩ có thế. Tôi đã hỏi những người thợ sửa thang máy một lần, rằng liệu chuyện trong phim Tốc độ có thể xảy ra ngoài đời thực không. Và họ đã nói là không. Bởi vì ngay cả nếu tất cả các sợi cáp nối với buồng thang có bung cùng lúc (một điều họ đã khẳng định là không bao giờ, không đời nào có thể xảy ra. Nhưng mà, hơ hơ. Xem kia kìa!), thì một đối trọng được xây vào tường cũng sẽ không bao giờ để cái buồng thang ấy lao sầm xuống đất.

Tôi cảm nhận được kết quả đinh tai nhức óc của đối trọng đó khi nó đóng sầm vào chỗ giữ cho cái buồng thang không đụng tầng hầm.

Nhưng khi những sợi cáp vỡ rơi như mưa xuống nóc buồng thang, tiếng ồn phát ra thật không sao tin nổi. Hết cú va chạm này đến cú va chạm khác làm rung chuyển giếng thang. Tôi vật lộn để giữ vững gọng kìm của mình trên sợi cáp duy nhất còn sót lại, chỉ nghĩ được là với tất cả những tiếng ồn như vậy, tôi vẫn không nghe thấy một tiếng pip mà từ Julio. Không một tiếng động. Tôi biết anh ấy vẫn đang ở trong cái buồng thang đó. Mặc dù anh đã thoát khỏi cái cảnh bị ép nát như cây đàn accordion vào sàn xi-măng của tầng hầm, nhưng những sợi cáp kia thật sự đã bè bẹp nóc buồng thang. Và anh đang ở dưới mớ sắt thép bùng nhùng đó…

Nhưng chỉ có chúa mới biết anh còn sống hay không.

Sự im lặng tiếp sau cú va chạm khi cái buồng thang rơi còn ghê sợ hơn cả tiếng động rung trời chuyển đất của những sợi cáp đứt. Tôi lúc nào cũng thích những cái giếng thang, vì nó là nơi duy nhất trong kí túc – ý tôi là khu cư trú – hoàn toàn tĩnh lặng. và giờ thì sự tĩnh lặng đó hệt như một mái vòm không cách gì xuyên nỗi giữa tôi và mặt đất. Xung quanh càng yên tĩnh, cái bong bóng cuồn loạn nhỏ bé trong tôi càng dâng cao dần. Trước đó, tôi chưa có lúc nào để sợ.

Nhưng giờ đây, khi treo lơ lửng hơn 10 tầng với 2 chân chới với trên không trung, tôi cứng người vì sợ hãi.

Đúng lúc đó cái bong bóng biến thành một chiếc vòi phun, và tôi bắt đầu hét

Bình luận