Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Nhân Tướng Học

Chương 4: Phương Pháp Xem Tướng

Tác giả: Hy Trương

I- NHỮNG NGUYÊN TẮC CĂN BẢN TRONG PHƯƠNG PHÁP XEM TƯỚNG

Phương pháp xem tướng của Á Đông có tính cách toàn diện và tổng hợp. Toàn diện ở chổ tất cả các bộ vị trên khuôn mặt, trên thân mình, những nét tướng động tác và tinh thần đều phải được quan sát. Như thế,  với ý nghĩa toàn diện, ta phải quan sát từ chân lên đến đỉnh đầu, từ phía chính diện lẫn trắc diện.

Về mặt Tổng Hợp, ta chú trọng nhiều ở chỗ phối hợp tất cả các bộ vị:  Đi từ chỗ phối hợp các điều quan sát ở các bộ vị tiến tới những bộ phận lớn hơn. Từ những bộ phận kết hợp đó ta đi đến toàn thể con người. 

Tổng hợp còn có ý nghĩa là phối hợp những điều quan sát rút tỉa phần hình tướng về phẩm lẫn lượng với phần tâm tướng. Chỉ sau khi cân ưu và khuyết điểm của cả hai phần tâm tướng và hình tướng người ta mới có thể đưa ra phần nhận định có tính cách đúc kết tức thời (immédiat) về một cá nhân. Phép xem tướng Á Đông đề ra một số định tắc giản ước có tính cách hướng dẫn. Người xem tướng muốn việc quan sát được coi là đầy đủ phải hướng việc quan sát của mình vào mười trọng điểm. Trong các sách tướng ngày xưa, người ta thường mệnh danh đó là thập quan gồm các điểm trọng yếu sau đây:

– Sự uy nghi:  Nói một cách tổng quát, uy nghi là những gì con người một cá nhân tỏa ra ngoài, khiến cho người khác nhận thức được và tạo ở người khác một ấn tượng kiêng nể, không dám đem lòng khinh mạn. Thường thường sự uy nghi đường bệ này phần lớn do ánh Mắt tạo ra nhưng không chỉ  có ánh Mắt mà ở toàn thể cốt cách, cử chỉ hay nói một cách rộng rãi là tác phong của một cá nhân

– Tính cách hậu trọng và hòa cái:  Tính cách hậu trọng bao gồm cả hai lĩnh vực vật thể lẫn tinh thần và có nghĩa là thân hình vững vàng, tinh thần ổn cố gây cho người ngoài một sự tin cẩn, một cảm tưởng có thể nói là an tâm nơi mình. Ví dụ như một người lúc nào cũng giữ được tác phong ung dung thư thái trước bất cứ hoàn cảnh nào, Sắc mặt lúc nào cũng điềm đạm không hốt hoảng, hoang mang là kẻ được tướng học xem là tướng hậu trọng

Còn hòa ái là Sắc diện, cử chỉ, thái độ ngôn ngữ của ta khiến người khác được thoải mái, thích tiếp cận nhưng không dám khinh lờn hoặc vì cưỡng ép mà tới

– Thẩm định sự Thanh Trọc:  Sự Thanh Trọc nói ở đây có nghĩa là Thanh hay Trọc phải đúng mức, vì Thanh đi quá đà sẽ trở thành hàn. Trọc đi quá đà sẽ trở thành thô và chỉ khi nào có hàn và thô mới coi là xấu Nếu trong một cá nhân có cả Thanh lẫn Trọc, ta phải tìm xem đó là cách Thanh trung hữu hay cách Trọc trung hữu Thanh. Đến đây ta lại trở về các chi tiết đã trình bày ở chương nói về Thanh Trọc

– Quan sát cách cấu tạo xương đầu và trán: Đầu, dưới nhãn quang tướng học Trung Hoa,  được xem là nơi cao quý nhất của thân tướng học ít khi nói đến đầu mà lại nói đến trán. Hơn nữa phần đầu được nói đến phần nhiều lại có tính cách hoang đường chỉ có một phần nhỏ đáng lưu ý. Đại khái, muốn được coi là cát tướng thì xương não hậu phải nổi tròn, xương hai bên phía Tai phải nảy nở một cách cân xứng. Ngoài ra chiều cao và khối lượng của đầu phải tương xứng với toàn thân, không được quá lớn cũng không được quá nhỏ. Thái quá hay bất cập đều là hung tướng, dù Tam Đình có bình đẳng, Ngũ Nhạc có triều quý đi nữa, thì những sự bình đẳng, triều quý đó cũng chỉ là những cái tốt chi tiết trong một cái xấu tổng quát, chỉ được ngọn mà mất hẳn gốc.

Về trán, phần này được phân tích khá đầy đủ ở chương đầu quyển thượng, bạn đọc chỉ cần xem lại phần đó là đủ. Điểm cần nói ở đây là Trán cũng phải theo một quy tắc trung dung như trên, nghĩ là phải tương xứng thích nghi với đầu. Quá rộng hay quá thấp hẹp, đều không đưa đến hậu quả tốt đẹp thật sự vì cao quá thường lao tâm tổn thọ, quá thấp hẹp thì ngu độn vất vả

– Quan sát Ngũ Nhạc và Tam Đình:  Tam Đình và Ngũ Nhạc tuy danh xưng khác nhau nhưng thật chất lại là một. Tam Đình đứng về phương diện phân chia tổng quát khuôn mặt một cách võ đoán, còn Ngũ Nhạc là đứng về phương diện phối trí các khu vực xương nổi cao trên khuôn mặt. Tất cả những ý nghĩ chính yếu của Tam Đình, Ngũ Nhạc đã được nói khá đầy đủ quyển thượng.những điểm cần phải bổ túc về kỹ thuật sẽ được trình bày ở mục III, khi chúng ta đề cập đến kỹ thuật xem tướng theo thời gian ở những trang sau. Ở đây bạn đọc chỉ cần nhớ lại một vài điểm yếu sau đây mà thôi:

– Chiều dài lý tưởng là ba Đình phải xấp xỉ bằng nhau và không có Đình nào được lệch lạc

– Ngũ Nhạc cần phải triều củng, nghĩa là Mũi phải ở ngay chính giữa đường phân chia khuôn mặt theo chiều dọc, không được lệch sang trái, sống Mũi phải ngay thẳng và không được sát với mặt phẳng của mặt. Chuần Đầu phải cao hơn tất cả các phần khác của Lông Mày, xương Lưỡng Quyền phải vuông vức đầy đặn không được lệch. Những điểm chính yếu sau trên về Tam Đình, Ngũ Nhạc chính là tướng thư gọi là bình đẳng và triều quy. Thông thường về mặt mạng vận của kẻ suốt đời bình an, đủ ăn, đủ mặt, ít gặp ba đào khủng khiếp

– Quan sát hình dạng, phẩm chất của Ngũ Quan và Lục Phủ:  Trong chương đầu quyển thượng và những chương kế tiếp, soạn giả đã giới thiệu đầy đủ về các bộ vị trên, nên ở dây chỉ cần lưu ý một vài điểm kỹ thuật liên quan đến thầm định chuyên biệt mà thôi

1. Quan sát Lục Phủ muốn cho chính xác phải nhìn nghiên chứ không nên nhìn thẳng phía trước vì các phần này thuộc về phần chính diện. Do đó, việc quan sát chính diện chỉ có tính cách phụ đới nhằm bổ túc cho lối nhìn trắc diện. Trái lại, trong phép quan sát Ngũ Quan (trừ cặp Tai không đáng kể), trắc diện chỉ có tính cách bổ túc, chính diện quan sát mới đóng vai trò quan trọng

2. Tuy người ta nói rằng Lục Phủ cần phải nảy nở, Ngũ Quan thì phải toàn mỹ, kỵ lộ nhưng những điều đó chỉ có giá trị tương đối không hoàn toàn chính xác trong mọi trường hợp, ví dụ như:

– Về Mắt, chỉ có người Mộc, người Kim, người Thổ mới kỵ lộ nhãn, còn người Hỏa thì lại không kỵ miễn là đừng lộ thần là được

– Về Tai, Người Mộc không kỵ tại Mộc, Tai. Viễn Vũ nhĩ cho người Hỏa thì Tai phản nhỉ, Tai Hỏa càng lộ bao nhiêu thì tốt bấy nhiêu

– Về Mũi, người Mộc không kỵ các loại Mũi gầy miền là không được thấp gãy, người Hỏa không hề kỵ Mũi lộ khổng

– Về Miệng, người loại Miệng cực kỳ quý đối với người Thổ, Kim, Thủy do vậy người Hỏa lại thành xấu. Trái lại, người hình Hỏa không hề kỵ lộ xỉ, lộ hầu

– Về Lông Mày, người Hỏa, người Thủy, không cần phải mi trường quá mục, lộ và đoản mi đối với người Hỏa lại là hợp cách

– Quan sát các bộ vị trên thân mình: bụng, ngực, lưng, eo, vú rốn…

– Quan sát các nét tướng tứ chi: Tất cả những nét tướng của cả hai trọng điểm kể trên đã được trình bày đầy đủ trong quyển thượng, nên ở đây miễn nhắc lại. Độc giả chỉ cần tham chiếu những đoạn liên quan hai trọng điểm trên là có đủ yếu tố để phán đoán những đặc điểm về cá tính và vận mạng của

một cá nhân qua những nét tướng về thân hình và tứ chi

– Quan sát Âm Thanh và tâm hồn:  Âm Thanh trong tướng học đóng một vai trò quan trọng trong việc đoán thọ yểu, hiền ngu, quý tiện. 

Nguồn gốc nguyên thủy của Âm Thanh là Khí. Âm Thanh hùng mạnh, ổn cố có nghĩa là Khí cũng ổn cố. Thế mà Khí, theo nhãn quang tướng học của tướng lý Á Đông là gốc rẽ của sự thọ yểu, nên Âm Thanh sung mãn thì con người đó có rất nhiều triển vọng sống lâu, Âm Thanh suy nhược, trì trệ thì hy vọng trường thọ rất mong manh. Ngoài vấn đề thọ yểu, người rành thẩm Âm có nhờ Âm lượng và Âm điệu mà đoán được phú quý bần hàn của một cá nhân nữa Đại khái tiếng nói vang dội và to lớn như tiếng sấm, trầm và ngân vang như tiếng chuông chùa, Thanh cao như tiếng khánh ngọc vui vẻ tự nhiên như tiếng ngọc reo trên mâm bạc đều là loại Âm Thanh cực quý chủ về thông minh, quý hiển. Nói tóm lại, tiếng nói đầm ấm trong trẻo, Âm lượng phong phú là dấu hiệu phú quý bất kể mặt Mũi xấu xí, bộ vị khuyết hãm hoặc thân mình nhỏ bé.

Tóm lại, thân hình lớn mà tiếng nhỏ hoặc tiếng lớn mà không có Âm lượng, giọng rè như phèng la, khô khan chói Tai đều là dấu hiệu của kẻ tâm tính hạ tiện, ngu độn, khó mong thành đạt

Còn bàn về tâm hồn, ở đây ta chỉ muốn nói đến tâm tính hiểm độc hay thiện lương,  hẹp lượng hay bác ái do các cử chỉ, thái độ bộc lộ ra ngoài. Tâm tướng được gọi là cái gốc của hình tướng, tâm biến cải thì hình (hiểu theo nghĩa rộng là những gì có tính cách vật thể nơi con người) cũng biến đổi theo. Tướng hình cốt để qua hình mà xét đến tâm nên người xưa đặc biệt quý trọng phần tâm tướng. Vì vậy, Ma Y mới nói:  “Vì quan huỳnh mạo, tâm tướng tâm điền ” (Chưa cần quan sát hình hài, mặt Mũi hãy quan sát tâm tính trước đã). Dưới nhãn quan tướng học Á Đông, tinh thần Khí phách và Âm Thanh là phần tướng nội tại thuộc về lĩnh vực tâm tướng

– Quan sát thân hình để xem cá nhân đó thuộc loại hình gì:  Trọng diểm này bao gồm những loại hình tướng căn bản thường hay biến cách. Chính thường thì phép phân loại theo Ngũ hành hình tướng được coi là căn bản:  biến cách thì xem cá nhân đó thuộc hình dáng cầm hay thú điển hình

II. CÁC TƯỚNG PHÁI

Cũng như trong bất cứ học thuật nào khác, các tướng học gia cũng đưa ra nhiều quam điểm khác nhau về loại tướng, về phép xem tướng. Tựu trung căn cứ theo tiêu chuẩn hình tướng và tâm tướng về những điểm trọng yếu, ta thấy có hai học phái khác nhau. Về những điểm lý thuyết hầu hết đều công nhận phương pháp xem tướng không đi ra ngoài mười trọng điểm quan sát được nêu trên nhưng thứ tự ưu tiên từng trọng điểm dưới nhãn quang của từng học phái lại biến đổi tuỳ theo người xem tướng đứng về mặt cá nhân để phân tích cá nhân hay đứng trên cương vị của xã hội để lượng định khả năng cá nhân đó hầu phục vụ cho xã hội

a) Tướng phái trọng hình thức:

Người được xem như đại diện cho tướng phái này là Lã Thuần Dương một đạo sĩ nổi tiếng đời Đường. Đứng trên cương vị cá nhân để xem tướng cho một cá nhân, những điều khám phá ở một cá nhân phần lớn là qua những nét tướng vật thể nhằm phục vụ cho chính lợi ích của cá nhân người được xem tướng. Trong thiên biên khảo nhan đề Tướng pháp nhập môn. Lã Thuần Dương đã liệt kê các tiêu chuẩn về phương pháp xem tướng theo một thứ tự sau:

1. Đầu tiên phải quan sát hình tướng tổng quát để biết cá nhân đó thuộc loại gì trong ngũ hành hình tướng với tất cả những phối hợp về phẩm cũng như lượng của từng loại (thuần cách hay tạp cách, có hội đủ những điều kiện tất yếu của thuần cách hay không). Nếu là tạp cách thì sự phối hợp chủ yếu bị khắc chế hay thuận hảo. . .

2. Bước kế tiếp là quan sát sự cấu tạo của cốt cách, xem tướng của toàn thân có thuận lợi với nguyên lý Âm dương ứng dụng trong tướng học không. Sau đó là phần định thần, Khí để biết tranh Trọc

3. Bước thứ ba là quan sát khuôn mặt như Tam Đình, Ngũ Nhạc, Lục Phủ, Tứ Đậu

4. Bước thứ tư là quan sát ngôn ngữ, cử động tức quan sát con người qua những nét tướng, Âm Thanh và cách thức đi, đứng, nằm, ngồi. . . .

Tất cả những bước trên giúp cho người quan sát có 1 ý niệm bao quát về tướng cách của một cá nhân, giúp ta giải đoán được một

5. Cuối cùng để biết chi tiết về may rủi hang năm, ta phải quan sát phần Khí Sắc của bộ vị

Cũng như đại đa số các tướng thuật gia cổ điển khác, Lã Thuần Dương tin rằng Tâm năng sinh Tướng (với nghĩa tướng đặc biệt ở đây là hình tướng). Hình tướng tuy được coi

trọng là phần căn bản để từ đó suy ra tâm hồn, thông minh, đần độn quý tiện thọ yểu nhưng hình tướng theo tâm mà biến chuyển có thể từ tốt ra xấu, từ xấu ra tốt nên Lã Thuần Dương không câu nệ người ta vào các điều chỉ dẫn đại cương của ông mà phải nghĩ rằng hình tướng của một của một cá nhân nay vậy mai khác. Cho nên ta có thể nói rằng hình tướng của Lã Thuần Dương là hình tướng sinh soạn giả biến thiên theo thời gian và tâm linh, muốn theo sát sự biến chuyển của phần hình tướng không thể bỏ qua phần tâm tướng

b) Tướng phái Tinh thần Khí phách

Khởi nguyên của tướng phái này có lẽ có từ lâu đời. Ngay từ thời nhà Chu cách đây khoảng hơn 2500 năm, Tư Mã Thiên đã chép là quan đại phu nước Tấn. Cô Bố Tử Khanh có biệt tài xem tướng chỉ nhìn Khí phách con người là đủ đoán được công danh, sự nghiệp sau này của cá nhân đó.

Tiếc rằng Cô Bố Tử Khanh không để lại một dấu vết gì về phép xem tướng độc đáo kể trên cả. Đến đời Thanh, tác giả Phạm Văn Viên đã nêu lên quan niệm Khí Phách và cho đấy mới là phần căn bản của Tướng học, hình hài bộ vị không quan trọng nhưng thủy chung ông vẫn còn đứng trên cương vị cá nhân để xem tướng cá nhân. Vào đời Thanh trung hưng, Tăng Quốc Phiên là người đứng đầu trên cương vị xã hội không lấy tinh thần và Khí phách làm trọng điểm trong việc xem tướng để lựa người có khả năng phục vụ quốc gia. Trong việc xem tướng, Tăng Quốc Phiên đã gạt hẳn những điều huyễn hoặc nhuộm màu triết lý siêu hình của tướng học cổ điển, ông không để ý đến hình hài bộ vị. Do đó, ta có thể coi Phạm Văn Viên và Tăng Quốc Phiên là các đại diện sáng giá nhất của tướng phái tinh thần Khí phách trong tướng học Á Đông hiện nay. Trong phần nói đến Khí Phách, soạn giả đã có dịp nhắc đến Phạm Văn Viên và đã thử triển khai ý niệm Khí Phách của tướng học từ cuốn Thủy kinh tập cho đến các tác phẩm trọng yếu của tướng phái Tinh Thần Khí Phách theo quan điểm của Tăng Quốc Phiên nhưng ý nghĩa gói ghém trong các trọng điểm đó. Phép xem tướng của Tăng Quốc Phiên có thể thu gọn vào sáu trọng điểm sau đây:

1. Muốn biết một cá nhân thuộc loại chính hay tà thì quan sát Mắt và Mũi.

Lòng dạ ngay thẳng hay thiên lệch phần lớn được bộc lộ ra ánh Mắt. Điều này phù hợp với những kinh nghiệm của nhân loại từ Đông sang Tây. Tục ngữ Pháp có câu:  “Con Mắt là tấm gương của tâm hồn”. Phương ngôn Trung Hoa cũng có câu nói tương tự: “Xem người ta thì xem ngay cặp Mắt”. Như vậy căn cứ vào ánh Mắt ta có thể biết được một cách khá chính xác tâm tính của một cá nhân, miễn là ta phải có tài quan sát và óc phán xét nhạy chính xác và vô tư. Ngoài ra, ngay nay cũng như ngày xưa, ai củng công nhận con ngưòi cơ thể chính thường thì thông thường tâm tính củng ở mức chính thường ít khi có những thái quá bất cập. Thế mà Mũi là bộ phận trung ương của khuôn mặt nếu không ngay ngắn cân xứng thì đựơng nhiên lệch lạc, đưa đến sự thiên lệch của tâm hồn. Kinh nghiệm ngàn xưa cho thấy, chưa từng có kẻ nào Ngũ Quan lệch lạc mà tâm tính ngay thẳng bao giờ. Dó đó muốn biết cá nhân tâm tính ra sao, ta chỉ cần quan sát nhãn quang và cấu tạo của Mũi là có tạm đủ dữ kiện để phán đoán ít khi sai lầm

2. Muốn biết tâm sự của kẻ đối thoại thực hay là hư thì quan sát cử chỉ, động tác (đặc biệt là động tác của Môi, Miệng).

Thông thường kẻ không quen nói dối khi phải dối trá thì Môi Miệng lúng túng, lập cập không được được tự nhiên như lúc bình thường. Đó thường một hiện tượng bên ngoài phản ánh nội tâm không được yên ổn. Do đó, người quan sát có cặp Mắt Sắc bén chỉ cần quan sát động tác của làn Môi, khoé

Miệng cũng có thể đoán được phần lớn thực hư của nội dung câu chuyện.

Suy rộng ra, trừ một vài trường hợp quá đặc biệt của những kẻ có bản lĩnh và đã được huấn luyện thuần thục làm chủ được động tác và tình cảm không kể, một kẻ bịa đặt ra câu chuyện trái ngược lại thật sự bao giờ cũng để lộ nhiều sơ hở trong lúc thuật chuyện qua ngôn ngữ, cữ chỉ không được tự nhiên. Chuyện càng quan trọng, càng liên quan đến quyền lợi sinh tử hay sinh mạng của đương sự bao nhiêu thì sự mất tự nhiên càng dễ lộ ra bấy nhiêu

3. Muốn biết công danh sự nghiệp tương lại thành bại như thế nào thì nên xem tinh thần, Khí phách

Khí phách hiên nganh là dấu hiệu bên ngoài của người có thực tài thực lực. Họ tự tin là với khả năng, tài trí của họ. Họ đủ sức tự tồn, tự lập nên không cần luồn cúi kẻ khác. Càng có dị tài thì thừơng hay có dị tật cũng như tướng ngựa có câu châm ngôn:  “Ngựa hay thường có chứng”. Tinh thần là nguồn động lực thúc đẩy nuôi dưỡng ý chí con người. Yù chí mạnh mẽ thì có thể suy ra tinh thần mạnh mẽ và ngược lại.

Người có Khí phách hiên ngang, tinh thần cương nghị và nhẫn nại điềm đạm thì sẽ hội đủ điều kiện chủ quan tất yếu thi thố được chí nguyện bình sinh của mình, từ việc nhỏ đến việc lớn. Do đó, họ có rất nhiều triển vọng thành đạt trong bất cứ công việc gì đang làm hay sẽ làm. Những kẻ có tinh thần Khí phách như vậy nếu có đủ điều kiện khách quan tối thiểu sẽ chắc chắn thành công trên bước đường mưu cầu công danh sự nghiệp. Sách Nhân Luân đại thống nhất của Trương Hành Giản đời Minh đã dựa trên lập luận này khi viết: “Thành bại tại ư quyết đoán chí trung”. Chính vì cho rằng tinh thần Khí phách là các yếu tố căn bản của phép xem tướng đoán người nên tướng học đã có câu châm ngôn:  “Có Khí phách thì tạo ra được công danh sự nghiệp”. Câu nói đó hàm ý có Khí phách hiên ngang hoang dại, tinh thần vững mạnh thì sẽ thành công

4. Xem xét cách xử trí công việc không gì bằng quan sát ngôn ngữ

Ngôn ngữ có công dụng là biểu lộ nội tâm của mình cho người khác hiểu. Càng có chức vụ thì muốn cho công việc mà mình được giao phó sứ mạng điều khiển đôn đốc được hoàn hảo thì người đó càng phải sử dụng ngôn ngữ cho minh bạch để diễn tả được đúng đắn và đầy đủ ý muốn cho thuộc cấp hiểu thấu. Ngôn ngữ thiếu thứ tự, mạch lạc, chứng tỏ ý tưởng lộn xộn, tâm tính thiếu minh bạch quyết đoán thì làm sao thực thi đúng mức

Nói tóm lại muốn xem xét một kẻ nào đó có biết cách xử trí công việc hay nói cho dễ hiểu là liệu xem công việc có thành tựu được không chỉ cần nghe ngôn ngữ của kẻ đó:  trình bày công tác định làm có rõ ràng, đầy đủ hay hồ đồ, hứng khởi hay uể oải, cương quyết hay do dự, khái quát hay tỉ mỉ… Chỉ căn cứ vào đấy, người rành quan sát tâm lý và tinh thần Khí phách có thể đoán trước được là công việc sẽ thành hay hỏng

5. Muốn biết cuộc đời có thường hay bị chìm nổi hay không thì xem chân cẳng

Chân cẳng có liên hệ mật thiết tới Khí lực:  Khí lực sung mãn thì chân cẳng vững vàng, tinh thần ổn cố. Sự chìm nổi cuộc đời có nghĩa là công việc thường hay vấp váp thất bại là vì tinh thần hốt hoảng, đầu óc không tỉnh táo, không vững tâm bền chí,  không biết quyết đoán. Tất cả những dữ kiện này bắt nguồn từ Khí lực bất túc.

Qua ý nghĩa của các sách vở, Khí lực là căn nguyên của tinh thần Khí phách. Trong đoạn luận về Thần hữu dư của Ma Y đã nói: “Đi vững vàng Thanh thản như nước chảy, đứng chắc chắn như ngọn núi sừng sững giữa đồng là một trong các dấu hiệu chỉ về thần Khí sung mãn”. Kẻ thần Khí sung mãn thì lâm sự cương nghị, lúc nào cũng bình tĩnh sáng suốt, không biến đổi tiết tháo. Như vậy trong việc mưu tìm công danh, đại sự ít khi lâm vào cảnh thất bại

6. Muốn biết thọ yểu nên xem móng tay

Người trường thọ tất nhiên huyết dịch sung mãn:  sự tương quan giữa sự sung mãn của huyết dịch với hình thể và máu Sắc của móng tay là rất mật thiết. Ở đây ta chỉ đứng về phương diện màu Sắc của móng tay mà xét

Đại khái, móng tay có những vết nhỏ chứng tỏ rằng huyết dịch bất túc. Màu xanh xám hoặc đen là dấu hiệu Khí huyết suy nhược trầm trọng, các vệt bất thường hoặc hồng lẫn lộn là biểu hiện bề ngoài của của Khí huyết bất túc. Toàn thể cả móng tay đều xanh xám là Khí Sắc bề ngoài của huyết dịch thiếu thốn trầm trọng. Sắc càng xấu thì dấu hiệu suy nhược càng rõ. Do đó đã là người như thế không thể sống lâu.

Ngược lại móng tay hồng nhuận đều khắp một cách tự nhiên là dấu hiệu chắc chắn của Khí lực tiềm tàng sung mãn, huyết

dịch tốt đương nhiên trường thọ.

Nói một cách khác đây là quan điểm độc đáo về tướng học của Tăng Quốc Phiên và công dụng của phép đoán Khí Sắc được dùng một cách khoa học trong lĩnh vực tương quan giữa Khí Sắc và con người ở một lĩnh vực mà tướng học cổ điển chưa đề cập đầy đủ. Mọi ý nghĩa thần bí về vận mạng qua Khí Sắc của người xưa đều bị gạt bỏ. Quan điểm này của Tăng rất phù hợp với kiến thức y học hiện đại và vô tình giữa nhận định của khoa tướng của Tây Phương hiện nay và nhận xét của Tăng cách hơn một thế kỷ giống như một cách kỳ lạ, gần như phóng tác nhau vậy

III. KỸ THUẬT XEM TƯỚNG THEO TIÊU CHUẨN THỜI GIAN

a) Quan sát vận mệnh hàng năm

Danh từ vận mệnh ở đây bao gồm mọi sự may mắn hoặc rủi ro về công danh sự nghiệp, gia đạo tiền bạc sức khỏe của cá nhân cũng như của một số người thân thuộc của họ như cha mẹ, vợ con, anh em ruột.

Thông dụng nhất là phương pháp lưu niên được ghi lại trong các sách Ma y tướng pháp, Thần tướng toàn biên, Tướng lý hoành chân

Theo phương pháp này, ta chia khuôn mặt thành từng khu vực nhất định, mỗi khu vực cho từng năm tuổi. Muốn biết vận mạng mỗi năm của một cá nhân ra sao ta chỉ cần căn cứ vào cách cấu tạo của mỗi bộ vị, Khí Sắc của chúng. (Trong đoạn nói về phép xem Khí Sắc hằng năm ở chương 3, quyển II, soạn giả đã ghi rõ họ tên của từng khu vực với danh xưng riêng biệt và ứng với năm tuổi nhất định cùng sơ đồ hướng dẫn đính kèm. Độc giả chỉ cần tham khảo lại phần đó là đủ tài liệu giải đoán).

Tuy nhiên cần phải lưu ý là xem bộ vị khác nữa. Dưới đây là bảng tương quan giữa bộ vị cần quan sát và bộ vị tương ứng phối hợp với nó

– Tai bên trái:  (Những năm từ 1 đến 7 tuổi) phối hợp với khu vực Thiên Thương. Tai bên phải (Những năm từ 8 đến 14 tuổi) phối hợp với khu vực địa phố. Muốn biết rõ vận hạn căn bản của hai Tai ta phải quan sát cặn kẻ khu vực Sơn Căn

– Đỉnh trán (chủ về 15 tuổi) cần phối hợp với đỉnh đầu:  Thiên Trung (16 tuổi) quan sát cần phối hợp với Tai phải. Trọng điểm quan sát phối hợp của cả đỉnh trán và Thiên Trung là Trung Chính

– Nhật giác (chủ về năm 17 tuổi). Nguyệt giác (năm 18 tuổi), cần phải phối hợp với hai Mắt và hai Tai. Đặc biệt đi sâu vào chi tiết của từng năm thì Nhật giác phải có sự hỗ trợ của cặp Mắt hơn là cặp Tai, còn Nguyệt giác thì ngược lại với Nhật giác

– Thiên đỉnh(19 tuổi) phối hợp với vị thế chân mày, phải không được xung khắc với Nhật giác và Chuần Đầu làm trọng điểm để đoán kết quả chung cuộc của năm 19 tuổi

– Tả hữu phu giác:  (còn gọi là phụ cốt), chủ về 2 tuổi 20 và 21 phải phối hợp với Thiên Thương và sống Mũi

– Tư Không (22 tuổi) phải phối hợp tương xứng với Tai trái, Sơn Căng và đặc biệt là Nhân Trung

– Bộ vị của hai tuổi 23 và 24 phối hợp đặc biệt với nhãn thần, còn cốt Khí của các bộ vị gần hai vị trí của biên Thanh đóng vai trò phụ trợ

– Trung Chính (25 tuổi) lấy hai chân mày và Sơn Căng làm bộ vị hỗ ứng

– Các bộ vị của hai tuổi 26, 27 phối hợp với thế của cặp Mắt, hai Tai nhất là Tai phải và giữa trán

– Ấn Đường (28 tuổi) phối hợp với Mũi và Miệng

– Lăng vân, Khí (31, 32 tuổi) phối hợp với Mắt và Tai đặc biệt là lấy Khí thế của sống Mũi làm căn bản

– Phồn hà, Thái hà (33, 34 tuổi), phối hợp với trán và Lông Mày

– Thái dương (giữa Mắt trái) phối hợp với Tai phải, cũng như các làm việc lân cận của Mắt như Lông Mày, xương phía trên Tai. Luận về Thái Âm (giữa Mắt phải) cũng vậy. Cả hai lấy phần xương hai bên phía trên làm trọng điểm để định vận hạn của chính các năm đó

– Trung dương:  phối hợp chặt chẽ với chân mày trái. Trung Âm phối hợp chặt chẽ với Khí thế của Mũi. Tuy nhiên, cả hai đều phải phối hợp liên hoàn với tất cả các bộ vị vừa kể và lấy Lưỡng Quyền làm trọng điểm để định vận hạn

– Thiếu dương phối hợp với Miệng, thiếu Âm phối hợp với hai Tai, tất cả lấy Ngư Vĩ làm trọng điểm thẩm định tối hậu

– Sơn Căn phối hợp chính với xương gáy (ót), phối hợp phụ với Địa Các là lấy Mắt trái làm điểm suy luận chính cho vận hạn ứng với năm tuổi tượng trưng cho Sơn Căn

– Tịnh xá phối hợp chính với trán, Quang diện phối hợp chính với cặp chân mày, cả hai lấy Ấn Đường để tìm kết quả chung cuộc

– Niên Thượng đặt nặng phần phối hợp với Mắt phải. Thọ thương đặt nặng phần phối hợp với Tai phải. Cả hai lấy Khí thế của mi cốt làm căn bản suy đoán vận hạn chính

– Lưỡng Quyền lấy Khí thế mi cốt làm trọng điểm phối hợp. Lấy phần xương sọ phía sau đầu đối xứng với Lưỡng Quyền làm căn bản suy đoán chính

– Chuần Đầu phối hợp với cặp Mắt và Lưỡng Quyền. Nếu Quyền hãm thì Chuần Đầu tối kỵ nhỏ nhọn mà cao, lấy Miệng làm tiêu chuẩn suy đoán vận hạn

– Gián dài, Đình uý lấy hai Tai và cặp Mắt làm đối tượng phối hợp với Miệng làm tiêu chuẩn suy đoán vận hạn trong năm đó

– Nhân Trung phối hợp với trán và cặp Tai.  Tất cả đều sáng. Bằng không một mình Nhân Trung tốt các bộ vị trên không ra gì thì không thể nói là năm 51 tuổi tốt được

– Tả hữu, Tiên khố phối hợp chặt chẽ với cặp chân mày và lấy Ấn Đường làm cơ sở kết luận

– Thực thương cần ứng với Tai phải. Lộc thương cần thích nghi phối hợp với chân mày trái. Nốt ruồi, cả hai lấy Pháp Lệnh làm chuẩn về sự suy đoán vận hạn chính

– Pháp Lệnh cả hai phần của Pháp Lệnh phối hợp với Khí thế của Miệng, Mũi lấy Ấn Đường để làm cơ sở suy đoán vận hạn chính nhưng đi sâu vào chi tiết thì Pháp Lệnh bên trái đặt nặng vào sự liên hệ với Mũi còn Pháp Lệnh bên phải liên quan mật thiết với Miệng hơn

– Tả hữu, hổ nhỉ cần phối hợp thích ứng với hai Tai và hai Mắt

– Miệng phối hợp với trán, Mũi và lấy Thuỳ châu để định vận hạn về Miệng

– Thừa Tương lấy sự phối hợp đắc thế với Khí thế của chân mày và các phần trên của cặp Tai làm chủ yếu

– Địa Các phối hợp chặt chẽ với khi thế của Miệng, Mũi và lấy mục quang làm tiêu chuẩn để luận đoán sự cát hung của năm tuổi ứng với Địa Các

b) Quan sát theo chu kỳ 9 năm

Với phương pháp này ta chọn 9 bộ vị căn bản là cặp chân mày. Cặp Mắt, cặp Tai Mũi Miệng và trán làm nền tảng quan sát. Mỗi bộ vị căn bản này chủ về vận hạn của một số năm gồm năm bản vị và những năm sau đó cách quãng một thời gian 8 năm. Nói khác đi, đó là những năm tuổi tiếp theo cấp số cộng sai là 9

Chân mày bên trái:  chủ về vận hạn của năm 1 tuổi và những năm có số cộng sai là 1+9, 10+9, 19+9, 18+9, 31+9, 40+9. Nói khác đi những tuổi 1, 10, 19, 28, 37, 46, 55 thì xem chân mày bên trái. Hình thể cấu tạo phẩm chất và màu Sắc của năm đó sẽ cho biết vận hạn vào những năm tuổi đó ra sao

Tiếp tục áp dụng cách tính này cho các bộ vị khác ta có

– Mũi:  chủ về năm lên 2 tuổi và những năm 11, 20, 29, 38, 47, 56 tuổi

– Miệng:  chủ về năm lên 3 tuổi và những năm 12, 21, 30, 39, 48, 57 tuổi

– Tai bên trái:  chủ về năm lên 4 và những năm 13, 22, 31, 40, 49, 58 tuổi

– Mắt bên trái:  chủ về năm lên 5 và những năm 14, 23, 32, 41, 50, 59 tuổi

– Trán:  chủ về vận hạn của năm lên 6 và những năm 15, 24, 33, 42, 51, 60 tuổi

– Chân mày phải:  chủ về vận hạn của năm lên 7 và những năm 16, 25, 34, 43, 52, 61 tuổi

– Mắt phải:  chủ về vận hạn của năm lên 8 và những năm 16, 25, 34, 43, 52, 61 tuổi

– Tai bên phải:  chủ về vận hạn của năm lên 7 và những năm 16, 25, 34, 43, 52, 61 tuổi

c) Quan sát có tính cách khái quát chung thân

Việc quan sát vận hạn con người một cách khái quát về toàn bộ một đời người gồm sơ vận, trung vận và vãn vận, có khá nhiều phương pháp nhưng tựu trung chỉ có hai phương pháp sau đây là thông dụng nhất

1. Phương pháp căn cứ vào Tam Đình

Trong phương pháp này, tuy nói là Tam Đình nhưng thật sự chỉ căn cứ vào trán, Mũi và toàn thể Cằm (không tế phân thành những bộ vị nhỏ như trong phép đoán lưu niên hàng năm) và gia đình và nếp sống trung bình của một cá nhân là 60 tuổi. Hết 60 tuổi thì lại trở về khởi nguyên một chu trình mới. Bây giờ xin đi vào nội dung của phương pháp này:

– Trán:  chủ về 20 năm đầu của cuộc đời 60 tuổi nên cũng còn gọi là sơ vận. Trán tốt, cách cấu tạo có Khí thế, hình thể trán rộng rãi, không khuyết hãm là dấu hiệu của sơ vận tốt đẹp

– Mũi:  chủ về 20 năm kế tiếp tức là từ lúc 21 tuổi đến 40 tuổi. Hình dạng Khí thế của Mũi sẽ giúp ta biết được trung vận của một cá nhân

– Cằm:  chủ về vận hạn tức là từ năm 41 tuổi đến năm 60 tuổi. Cằm, nảy nở cân xứng, có Khí thế vững vàng là dấu hiệu vận hạn tốt đẹp. Trái lại Cằm dài nhọn lệch hãm hoặc không có Khí thế là điềm báo trước cảnh về già khốn khổ lênh đênh.

Đọc đến đây chắc độc giả sẽ thắc mắc là phần Trung đỉnh còn cặp Mắt là bộ vị trọng yếu, phần Hạ Đình còn có Miệng là phần rất quan trọng tại sao lại bỏ qua? Thực ra Mắt và Miệng tuy là các bộ vị tối quan hệ nhưng phải bỏ qua do chúng ta ở đây chỉ đứng về phương diện cốt tướng học, lấy phần có xương làm đối tượng quan sát chính theo quan điểm chung của tướng học mà điển hình là của Ma Y. Trong Thần di phú Ma Y đã nói rõ:  “Cốt cách vi nhất thế vinh khô”(Cốt

cách định được vận mạng của đời 1 con người, phú quý bần tiện đều phần lớn thể hiện qua cốt cách). Tuy nhiên nói vậy không có nghĩa là bỏ qua ý nghĩa của Mắt, Miệng. Màu Sắc và hình dáng Miệng giúp ta biết được tước lộc tổng quát của con người. Thần Khí của Mắt không phải chỉ ảnh hưởng ở trung vận mà còn suốt cuộc đời con người, liên quan đến phúc họa chung thân. Cho nên Mắt toàn hảo về hình thể cả về cách cấu tạo lẫn thần Khí thì đầu Tam Đình có bị khuyết hãm phần nào cũng không mấy tồn hại. Ngược lại nếu Tam Đình hoàn hảo về hình thể mà mục quang vô thần hay ảm đạm thì không thể quyết đoán tướng kẻ thành đạt hoặc hậu vận khả quan được

2. – Phương pháp căn cứ vào Mũi và hai Tai:

Phương pháp này cũng giả địng rằng kiếp người trung bình là 60 năm. Tai trái chủ về sơ vận và Tai phải chủ về 20 năm còn lại của cuộc đời (nếu xem tướng đàn bà thì đổi lại thứ tự của hai Tai, còn Mũi thì không thay đổi. Trong trường hợp này đàn bà lấy Tai phải chủ về sơ vận, Tai trái chủ về vãn vận).

Hết chu kỳ 60 năm ta lại trở về phần khởi nguyên của chu trình thứ 2. Nghĩa là 61 tuổi đến 80 tuổi thì căn cứ vào Tai trái mà giải đoán.

Tựu trung Tai tố, Mũi tốt thì vận tốt:  Tai xấu Mũi hỏng thì ngược lại. Sự xấu tốt của Tai, Mũi đã được trình bày rất chi tiết ở các quyển thượng nên ở đây thiết tưởng không cần nhắc lại. Nếu cá nhân có cả hai Tai thì có thể đoán một cách tổng quát là cuộc đời kẻ đó phúc thọ dồi dào, ít bị thất bại chua cay trên đường công danh sự nghiệp. Tuy nhiên, cũng như ở phương pháp thứ nhất (Căn cứ vào Tam Đình) ta cần phải chú ý đến thần, Khí và cả tâm tướng nữa. Nếu thần, Khí và tâm tính khắc bạc thì chớ vội võ đoán bất kể là hai Tai và Mũi xấu tốt thế nào.

Ba kỹ thuật trên có nhiều điểm dị biệt vì mỗi kỹ thuật dựa trên 1 giả thuyết và đều có phần sở trường, sở đoản. Kỹ thuật quan sát vận hạn hàng năm có ưu điểm là đi sâu vào chi tiết, nhưng quá chi tiết nên thiếu mất phần đại thể. Kỹ thuật thứ 2 dựa trên ức thuyết là vận số biế chuyển theo một chu trình thông thường là 9 năm, nhưng xét kỹ vẫn là chi tiết hơn là đại thể. Loại kỹ thuật thứ 3 lại chỉ chuyên về đại thể mà không thể đi vào chi tiết. Cả ba đều căn cứ vào một số kết quả thực tế thu thập được qua một thời gian là do những người khác nhau tạo dựng. 

Như vậy sự dị biệt và đôi khi mâu thuẫn giữa các quan điểm về kỹ thuật xem tướng tất nhiên phải có. Vả chăng xưa nay vấn đề Định mệnh vẫn là một vấn đề triết học còn đang được tranh luận. Phương pháp xem tướng để biết được một thời điểm hầu thì hiểu vận mạng con người trong thời điểm đó tốt xấu ra sao được căn cứ vào thuyết Định mệnh nên nó chỉ là một giả thuyết chứ không phải là định luật vạn vật chính xác như 2 với 2 là 4. Bởi vậy, về kết quả nó có thể đúng với người này mà không đúng với người kia, đúng trong thời gian này chưa hẳn đã đúng trong thời gian khác. Về căn nguyên, nó có thể phủ nhận hay được công nhận bất cứ nguyên tắt có tính giả định nào trong khoa học nhân văn này.

Theo thiển ý, tìm hiểu tương lai là tìm cách thích ứng để dự phòng bất trắc, dù là sự tìm hiểu đã được căn cứ vào một số giả thuyết vẫn hay hơn là cứ phó mặt cho sự may rủi để rồi nước tới chân không kịp nhảy. Tuy nhiên chúng ta cũng không nên vì vậy mà tin tưởng quá đáng đến chỗ lấy giả thuyết làm chân lý. Nếu chúng ta đồng ý như vậy thì phần kỹ thuật xem tướng căn cứ vào thời gian này không phải là hoàn toàn vô ích. Cũng bởi lẽ các kỹ thuật xem tướng chỉ là các phương pháp đặt nền tảng trên các giả thuyết đã được thực nghiệm hỗ trợ, nhưng vì đấy chỉ là những kết quả hữu hạn cho nên ta không nên quá thiên về một kỹ thuật nào đó, vì mỗi kỹ thuật chỉ bao quát một số lĩnh vực chứ không bao trùm hết tất cả mọi lĩnh vực liên quan đế con người. Điều hợp lý hơn hết là ta nên dùng cả 3 phương pháp để bổ túc lẫn nhau hầu phong phú hóa các dữ kiện thu thập được trong việc tìm hiểu tương lai vận mạng con người.

Bình luận
720
× sticky