Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm. Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản

Chuyện Thời Bao Cấp

Ôn Cố, Tri Tân

Tác giả: Nhiều Tác Giả

Nhân mấy ngày nghỉ cuối tuần, tiếp đến lại là ngày Giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước 30/4, rồi Quốc tế lao động 1/5, ông Huỳnh, ở mãi tận Nhã Nam (Yên Thế, Bắc Giang) gọi điện mời bằng được mấy người bạn cũ cùng cơ quan về quê ông chơi. Từ Hà Nội lên đó hơn tám chục kilomet, với đám thanh niên chỉ sau hai giờ phóng xe máy là tới, nhưng cánh già đã nghỉ hưu dăm bảy năm rồi, vượt quãng đường xa đi chơi như vậy thật không dễ dàng. Tôi còn đang băn khoăn đi lại bằng phương tiện gì, không có con trai, chẳng lẽ lại nhờ con rể hay thằng cháu ngoại lai xe máy đưa ông đi chơi, thì ông Thành gọi điện hẹn sẽ có ô tô đón. Ông ấy còn khỏe lắm, giọng cứ sang sảng, hứa hẹn chắc nịch: “Ông cứ yên tâm ở nhà chờ, trên đường đi tôi đón cụ Chùy ở Phủ Lý, rồi đến nhà ông khoảng 8-9 giờ sáng thứ bảy. Chúng mình làm một chầu cà phê Trung Nguyên ở cái quán cạnh cơ quan, rồi qua Bắc Ninh đón ông Vân, ông Chương. Hai ông ấy chính là tác giả nêu sáng kiến gặp nhau lần này đấy.” Thì ra con trai ông Vân đang làm Tổng giám đốc một công ty TNHH, có chi nhánh ở Ninh Bình. Ông Vân đã giao cho anh ấy lo toan phương tiện đưa đón mấy người bạn cũ của cha đi chơi Nhã Nam, đây là quê hương ông và cũng là nơi mà trong những năm không quân Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc, cơ quan ông đã sơ tán lên đó.

Gần giữa trưa thứ bảy, chiếc xe Innova đời mới bảy chỗ ngồi từ từ leo dốc, lượn vòng vèo, đưa chúng tôi lên đỉnh một khu đồi khá cao, mà những năm 60 của thế kỷ trước nơi đây rặt chỉ có bạch đàn. Bây giờ thì bạt ngàn vải thiều, na, cam, quýt và nhiều thứ cây quả khác. Ông bà Huỳnh đứng ngoài cổng ngôi biệt thự hai tầng, tươi cười đón chúng tôi. Ông không mời chúng tôi vào nhà ngay, mà đưa đi tham quan một vòng quanh khu nhà, giới thiệu đủ loài hoa, phong lan, cây cảnh. Thỉnh thoảng đâu đó lại có tiếng chim hót véo von. Phong cảnh thật điền viên, nên thơ, hạnh phúc. Sống trong cảnh này khác nào Từ Thức lạc vào động tiên! Trong sáu anh em, cụ Chùy là người cao tuổi nhất, rời cơ quan đầu tiên, bàn giao chức Chủ tịch công đoàn cơ sở cho ông Huỳnh. Sáu bảy năm sau đó đến lượt ông ấy nghỉ hưu, ông Thành và tôi nhận sổ hưu sau cùng, khi đã ngoài lục tuần đến bốn năm tuổi. Ấy là do lãnh đạo cơ quan vận dụng chính sách đối với những người có học vị phó tiến sĩ (nay đã được coi là tiến sĩ), vả lại ngày đó cơ quan đang thiếu cán bộ công đoàn, mà tôi và ông Thành lại đang là Chủ tịch và Phó Chủ tịch công đoàn. Thế mà đến nay cũng đã gần chục năm rồi. Mỗi người chúng tôi có một nghề chuyên môn khác nhau, nhưng tất cả đều giống nhau tích cực tham gia công tác công đoàn. Tôi thường phụ trách công tác văn thể mỹ, cũng nhẹ nhàng, đơn giản. Hàng năm vào những dịp lễ hội trọng đại tổ chức ra báo tường, thi sáng tác thơ, truyện ngắn, hội diễn văn nghệ, thi đấu các môn thể thao, thỉnh thoảng luyện tập những tiết mục tham gia hội diễn của ngành, hoặc của các cơ quan đóng trên địa bàn thủ đô. Còn hàng tháng cứ phải đôi lần mời đội chiếu bóng lưu động đưa những phim hay nhất vào chiếu ở sân cơ quan để cải thiện đời sống tinh thần cho đoàn viên và gia đình họ. Nhưng ông Thành, ông Vân thường xuyên được phân công chăm lo đời sống vật chất, nên khá bận rộn, phải giải quyết nhiều việc phức tạp, không khéo nhiều khi mất lòng người này, người nọ, chuốc vạ vào thân. Ông Chương nguyên là thủ quỹ cơ quan, được bầu vào Ban chấp hành mấy khóa liền, cũng kiêm luôn vai trò hầu bao công đoàn. Ông ấy thì chỉ luôn mồm một câu muôn thủa: “Các bố phải có kế hoạch chi tiêu, dự trù sơm sớm, lúc nào cũng đột xuất, thì nhà em xoay sao nổi!”

Ông Huỳnh sung sướng, thể hiện sự vui mừng, mãn nguyện ra mặt. Ông bảo từ ngày nghỉ hưu khỏe hẳn ra, sống trên đỉnh đồi cao, hòa nhập vào thiên nhiên không khí trong lành, lại thường xuyên luyện tập khí công dưỡng sinh, hình như mọi bệnh tật đều biến mất. Hơn mười năm ông bà Huỳnh một tay gây dựng nên cái trang trại phong phú, trù mật này. Các con ông đều đã trưởng thành, ở riêng, có biệt thự trên tỉnh lỵ, riêng anh con trai út có trang trại ngay gần bố mẹ. Ông giới thiệu các món ăn trên bàn tiệc, toàn là những thứ tự tay ông trồng, tự tay ông chăn nuôi. Gà sẵn trong chuồng, cá sẵn trong hồ, cam quýt trong vườn, rượu nếp ông tự ủ rồi chưng cất,     rau dưa thì thích ăn gì có nấy, lúc nào cũng sẵn cà chua, dưa chuột, rau thơm, kể cả mùi tàu, tía tô, húng láng… Bà Huỳnh vốn là cán bộ kỹ thuật nông nghiệp bổ sung rất chính xác: Nhưng gạo để thổi cơm, nếp đồ xôi, nấu rượu, mắm muối đều phải mua ngoài chợ, vậy là mới tự túc được 50% thôi các bác ạ! Cụ Chùy đắc ý: Các ông thấy không, cánh ta vẫn cứ chung chung, đại thể. Các bà, nhất lại là cán bộ khoa học – kỹ thuật mới là người rất chi ly, cụ thể. Ông Vân gợi ý khéo: Cụ Chùy chắc vốn còn day dứt mãi về cái vụ “chi ly” không đồng ý phân chia thuốc lá, thuốc lào cho chị em phụ nữ, để đến nỗi họ làm đơn tập thể kiện công đoàn? Thì cũng tại mấy cái “ống khói” nhà các ông to mồm cơ – cụ Chùy phản bác luôn – Chắc các ông còn nhớ chứ, ngay trên diễn đàn Đại hội công đoàn, họ lên tiếng chì chiết, nào là kim chỉ dành riêng cho các bà, mấy cái bô cũng dành cho các bà, nhân dịp 8/3 công đoàn lo được thứ gì đều ưu tiên các bà, thế thì cũng phải ưu đãi chứng tôi cái gì chứ. Ông Thành cũng chen vào: Tôi khổ sở về cái vụ “chạy” được 50 chiếc áo may-ô. Cả công đoàn có tới gần 300 đoàn viên nam, như vậy phải bốc thăm, cứ 6 người mới có một người được, thế mà chị em phụ nữ cũng đòi tham gia. Họ lập luận, chị em nữ bây giờ mùa hè cũng có thể mặc may-ô, mà nếu không thì họ mang về tặng chồng con càng tốt, chứ sao. Có người còn dẫn cả lời dạy của Bác: “Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng” để bảo vệ ý kiến của mình.

Dân tộc ta phải tiến hành hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống giặc ngoại xâm. Suốt 30 năm hầu như mọi lực lượng tinh nhuệ, mọi sức người, sức của phải tập trung cho tiền tuyến đánh giặc, thiếu hụt trầm trọng lực lượng lao động và phương tiện sản xuất. Hơn thế nữa, kẻ thù luôn tìm cách phá hoại các nhà máy, cầu cống, ruộng đồng, các công trình kinh tế…; chúng muốn kéo nước ta trở lại thời kỳ đồ đá. Bởi vậy, ngày đó chúng ta thiếu đủ thứ. Trong cái thiếu, không thể có cách nào khác, phải phân phối, chia chác. Những ai đã sinh ra trong những năm 60, 70 của thế kỷ trước hẳn còn nhớ tới Phó Thủ tướng Lê Thanh Nghị. Hầu như năm nào ông cũng phải dẫn đầu Đoàn đại biểu Chính phủ nước ta đi thăm các nước xã hội chủ nghĩa anh em, đề nghị họ viện trợ cho cuộc kháng chiến của ta, cho nhân dân ta. Nhận được gạo, mì, ngô, bo bo thì dựa vào tiêu chuẩn sổ gạo. Sữa để phân phối cho trẻ em, thương bệnh binh và những người ốm yếu. Lụa đen dành cho phụ nữ. Nhiều mặt hàng nhu yếu phẩm khác như giày dép, quần áo, chăn mền, áo mưa, khăn mặt, xà phòng, thuốc đánh răng, bánh kẹo, đồ hộp… và ngay cả đến cái kim sợi chỉ, lưỡi dao cạo râu, đèn pin… không có thường xuyên, số lượng nhập về lại ít, thường phải phân phối tới từng cơ quan.

Đúng như lời Bác đã dạy “… chỉ sợ không công bằng”. Một khi đã không xác định được tiêu chí, tiêu chuẩn không thống nhất; một khi tồn tại cơ chế xin – cho (có người đề nghị, có người duyệt cấp), thì khó có thể đạt được công bằng, cho dù chỉ là tương đối. Chúng tôi rất hiểu điều đó. Bởi thế, một trong những tiêu chuẩn hết sức quan trọng để bầu vào Ban chấp hành Công đoàn phải là những người có mối quan hệ rộng, có nghệ thuật thuyết phục, nói kiểu gì cũng làm người đối thoại phải bùi tai. Ông Thành, ông Vân của chúng tôi chính là những người có cái tài ăn nói như thế. Chả thế mà khi đã ở độ tuổi ngoại tứ tuần, nhiều cô vẫn chết mê chết mệt về nghệ thuật nói chuyện của các ông ấy. (Tuy nhiên các ông ấy lại là người rất đúng mực, đến mức “bà xã” còn dám tuyên bố “ném ông nhà tôi vào sống giữa đám phụ nữ xinh đẹp cả tháng, trở về vẫn nguyên vẹn!”).

Hơn 20 năm tham gia công tác công đoàn, các ông Thành và Vân đã giữ được uy tín gần như tuyệt đối trong cơ quan. Công tác chuyên môn thì khỏi phải nói, ông Thành là Phó Giám đốc, ông Vân là Trưởng phòng Hành chính Quản trị, có rất nhiều sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, liên tục đạt danh hiệu chiến sĩ thi đua của cơ quan, của ngành. Về mặt công đoàn, họ là những người rất tích cực chăm lo đời sống cho cán bộ, công nhân, viên chức. Tết Nguyên đán hàng năm, những ngày lễ lớn như Giải phóng miền Nam 30/4, Quốc tế lao động 1/5, Quốc khánh 2/9… bao giờ họ cũng chạy được vài tạ thịt bò, thịt lợn, vài trăm con gà công nghiệp hay vài tạ cá trắm cỏ, rô phi để gia đình các đoàn viên có bữa ăn tươi. Rằm tháng tám thì chắc chắn trẻ em được vào cơ quan chung trăng rước cỗ, lại còn được mang về nhà phần bánh dẻo, bánh nướng và hoa quả. Ngày Quốc tế phụ nữ 8/3 thì dù hoàn cảnh có khó khăn đến mấy chị em cũng có quà. Ông Thành còn có tài liên hệ với mấy bà cửa hàng thực phẩm để chiều thứ ba, thứ năm, thứ bảy họ đưa rau vào bán trong sân cơ quan. Điều này được lòng phần lớn cán bộ, công nhân, viên chức nhưng lại bị nhiều vị lãnh đạo phê bình là làm ảnh hưởng tới công tác, vì những buổi chiều đó hầu như mọi người đều “ăn bớt” một giờ lao động, nhiều hôm nhân viên cửa hàng thực phẩm vào sớm, thì thời gian làm việc của cơ quan còn bị cắt xén nhiều hơn nữa. Dù sao, cánh cán bộ công đoàn chúng tôi vẫn ủng hộ ông Thành.

Suốt ba ngày ở chơi nhà ông Huỳnh, chúng tôi vừa như được đi an dưỡng, vừa như dự một tiểu hội nghị tổng kết công tác công đoàn, lại vừa được đi tham quan nhiều di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh trong tỉnh Bắc Giang, Lạng Sơn. Điều quý giá nhất là rất lâu rồi cánh già chúng tôi mới lại có dịp sum họp dài dài, khề khà trò chuyện lai rai, nhiều khi cũng chẳng nên đầu nên đũa, ôn cố tri tân ấy mà! Cả bọn chúng tôi trưởng thành trong cơ chế bao cấp, nhưng không một ai kêu ca, phàn nàn, oán thán gì về cái thời vô cùng gian khổ đó. Nhìn lại những chặng đường cả dân tộc ta vừa trải qua, chúng tôi đều thống nhất quan điểm cho rằng trong cuộc chiến tranh khốc liệt và kéo dài như thế, nếu không có chế độ bao cấp, thì không thể nào huy động hàng triệu thanh niên, trai trẻ khỏe mạnh nhất ra trận, không thể nào thực hiện được phương châm “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng!”. Nếu không có chế độ bao cấp, thì làm sao ngay từ những năm 50 của thế kỷ trước, ngay từ khi chúng ta đang còn tiến hành giai đoạn cầm cự chống thực dân Pháp, Bác Hồ, Đảng và Chính phủ ta đã chỉ thị cho các địa phương, các ngành lựa chọn những thanh niên ưu tú gửi đi đào tạo ở nước ngoài, để sau này về xây dựng đất nước. Nếu không thực hiện chế độ bao cấp, thì năm 1975 sau khi giải phóng miền Nam chúng ta không thể có đội ngũ hàng chục vạn kỹ sư, bác sĩ, cán bộ khoa học kỹ thuật và cán bộ quản lý để bắt ngay vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên quy mô cả nước và càng không thể có được những thành quả phát triển vĩ đại trong 20 năm đổi mới vừa qua.

Đến nay mọi người ý thức được rằng bao cấp cản trở sự phát triển của xã hội, bao cấp làm cho con người thiếu năng động, thiếu phát huy sáng kiến, ỷ lại, trông chờ vào cấp trên, vào người khác. Điều đó buộc chúng ta phải đổi mới, thoát ra khỏi cơ chế cũ. Đổi mới là một quá trình gian khổ, lâu dài và không thể không đau đớn. Tuy nhiên, trên quan điểm vĩ mô, chúng ta cũng thấy rõ rằng trong xã hội có những người khỏe mạnh, có những người bệnh tật, không có sức lao động; có người nhiều khả năng và thành đạt, cũng có không ít người kém may mắn, đặc biệt là chúng ta trải qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, hiện còn có rất nhiều gia đình chính sách, các bệnh binh, các bà mẹ anh hùng, cho nên đoạn tuyệt với chế độ bao cấp, nhưng phải có chính sách xã hội, chế độ phúc lợi bảo đảm cho mọi người điều kiện sống và cơ hội học tập, làm việc, cống hiến cho đất nước.

Ngô Sơn

Bình luận