Một vài ngày sau đó, tôi thức dậy vào khoảng giữa trưa rồi lái xe sang nhà Isaac. Cậu ấy tự mình ra mở cửa. “Mẹ đưa Graham đi xem phim rồi,” cậu ấy nói.
“Chúng ta nên vào làm gì đó,” tôi nói.
“Gì đó nghĩa là ngồi trên sofa chơi điện tử dành cho người mù được không?”
“Ừ, chính là gì đó tớ đã nghĩ trong đầu.”
Thế rồi chúng tôi ngồi đó trong mấy tiếng đồng hồ cùng nhau nói chuyện với cái màn hình, mò mẫm trong một cái hang rối rắm vô hình không một tia ánh sáng. Phần hay ho nhất của trò chơi là cố gắng dẫn cái máy tính vào cuộc trò chuyện hài hước của chúng tôi:
Tôi: “Chạm vào vách hang.”
Máy tính: “Bạn chạm vào vách hang. Nó rất ẩm ướt.”
Isaac: “Liếm vào vách hang.”
Máy tính: “Tôi không hiểu. Xin nhắc lại.”
Tôi: “Ấy với vách hang ẩm ướt.”
Máy tính: “Bạn thử nhảy lên. Bạn bị cộc đầu.”
Isaac: “Không phải nhảy. ẤY.”
Máy tính: “Tôi không hiểu.”
Isaac: “Anh bạn, tôi đã cô đơn trong bóng tối của cái hang này hàng tuần rồi và tôi cần được giải thoát. ẤY CÁI VÁCH HANG.”
Máy tính: “Bạn thử nhả–”
Tôi: “Hẩy mông vào vách hang.”
Máy tính: “Tôi không–”
Isaac: “Hãy đắm đuối với vách hang.”
Máy tính: “Tôi không–”
Tôi: “THÔI ĐƯỢC. Men theo lối bên trái.”
Máy tính: “Bạn men theo lối bên trái. Lối đi hẹp dần.”
Tôi: “Bò xuống.”
Máy tính: “Bạn bò được khoảng gần một trăm mét. Lối đi hẹp dần.”
Tôi: “Trườn xuống.”
Máy tính: “Bạn trườn đi khoảng ba mươi mét. Có một dòng nước chảy xuống người bạn. Bạn gặp một đống đá nhỏ chắn ngang lối đi.”
Tôi: “Giờ thì tôi ấy được chứ?”
Máy tính: “Bạn không thể nhảy lên mà không đứng dậy.”
Isaac: “Tôi không thích phải sống trong một thế giới không có Augustus
Waters.”
Máy tính: “Tôi không hiểu –”
Isaac: “Tôi cũng thế. Tạm dừng.”
Cậu ấy thả cái điều khiển xuống cái ghế chỗ giữa chúng tôi và hỏi, “Cậu có biết là nó có đau hay sao không?”
“Cậu ấy chắc đã rất khó nhọc mới thở được, tớ đoán thế,” tôi nói. “Cậu ấy cuối cùng cũng hôn mê, nhưng nó nghe như, ừm, nó chẳng tốt đẹp gì cả. Chết đi lúc nào cũng tệ.”
“Ừ,” Isaac đáp. Rồi một lúc lâu sau, “Không thể cứ như thế được.”
“Lúc nào cũng vậy mà,” tôi nói.
“Cậu như đang giận à,” cậu ấy hỏi.
“Ừ,” tôi đáp. Chúng tôi cứ ngồi yên lặng rất lâu, như vậy thật tốt, rồi tôi bắt đầu nhớ lại mọi thứ từ ban đầu khi Gus nói về nỗi sợ hãi bị lãng quên ở Trái Tim Đích Thực Của Chúa, rồi tôi bảo anh rằng anh đang sợ một nỗi sợ chung và không thể tránh được, và rồi thật ra, vấn đề không phải ở chính nỗi đau đớn hay sự lãng quên mà ở sự vô nghĩa đến tiêu cực của những chuyện này, chủ nghĩa hư vô hoàn toàn phi nhân tính về sự khổ đau. Tôi nghĩ về lời của bố nói với tôi rằng vũ trụ này muốn được chú ý. Nhưng cái chúng ta muốn lại là được vũ trụ chú ý đến, được vũ trụ quan tâm đến mọi thứ xảy đến với chúng ta – không phải để ý đến cuộc sống nhân sinh nói chung mà là mỗi người trong số chúng ta, từng người riêng lẻ.
“Gus thực sự yêu cậu, cậu biết chứ,” cậu ấy nói.
“Tớ biết.”
“Nó chẳng bao giờ chịu ngậm mồm cả.”
“Tớ biết,” tôi nói.
“Thật bực mình.”
“Tớ không thấy bực mình,” tôi nói.
“Nó đã bao giờ đưa cậu mấy thứ nó viết chưa?” “Thứ gì cơ?”
“Phần tiếp theo của cuốn sách cậu thích gì đó.” Tôi quay sang Isaac. “Gì cơ?”
“Nó bảo nó đang làm gì đó cho cậu nhưng nó không giỏi văn đến thế.” “Cậu ấy nói thế khi nào?”
“Tớ không nhớ. Chắc là sau khi đi Amsterdam về mấy hôm.”
“Hôm nào?” tôi hỏi dồn. Chẳng nhẽ anh đã không có cơ hội để hoàn thành nó? Hay anh viết xong rồi và để nó trong máy tính hay đâu đó?
“Ừm,” Isaac thở dài. “Ừm, tớ không nhớ. Bọn tớ nói chuyện đó có một lần ở đây. Nó đã ở đây, xong rồi – ừ, bọn tớ nghịch cái máy đọc email rồi tớ nhận được thư từ bà tớ. Tớ có thể kiểm tra lại trên máy nếu cậu –”
“Ừ, ừ, nó ở đâu?”
Anh đã nói chuyện về nó một tháng trước đây. Một tháng. Không phải một tháng tốt lành gì, thật thà mà nói, nhưng vẫn là – một tháng. Từng đấy ít nhất cũng đủ thời gian cho anh viết gì đó. Vẫn có thứ gì đó của anh, hoặc ít nhất bởi anh, đang lưu lạc đâu đó quanh đây. Tôi cần nó.
“Tớ đến nhà cậu ấy bây giờ,” tôi bảo Isaac.
Tôi vội chạy ra cái xe minivan lôi cái giá bình ôxy ra bỏ lên ghế trước. Tôi khởi động máy. Tiếng nhạc hip-hop chóe lên từ dàn âm thanh, và trong khi tôi với tay để chuyển sang kênh radio khác, có ai đó bắt đầu hát rap. Bằng tiếng Thụy Điển.
Tôi xoay người lại và hét ầm lên khi thấy Peter Van Houten đang ngồi trên ghế đằng sau.
“Ta xin lỗi vì đã làm cháu giật mình,” Peter Van Houten nói át cả tiếng nhạc rap. Ông ta vẫn mặc bộ vét hôm lễ tang, gần cả tuần nay rồi. Người ông ta đầy mùi như thể mồ hôi cũng toàn là rượu. “Cháu cứ giữ cái đĩa CD,” ông ta nói. “Snook, một trong những nhóm nổi tiếng người Thụy–”
“Á á á á RA KHỎI XE CỦA TÔI.” Tôi tắt dàn âm thanh.
“Đây là xe của mẹ cháu, theo như ta hiểu,” ông ta nói. “Thêm nữa, nó cũng không khóa.”
“Ôi Chúa ơi! Ra khỏi xe mau nếu không tôi sẽ gọi chín-một-một. Ông già, ông có vấn đề sao vậy?”
“Nếu có thì chỉ một,” ông ta trầm ngâm. “Ta đến đây chỉ đơn giản để xin lỗi cháu. Cháu đã đúng khi nói ta chỉ là một kẻ nhỏ mọn đáng thương, nghiện ngập trong rượu. Ta chỉ có một người quen từng dành thời gian ở bên ta bởi ta trả lương để cô bé làm vậy – tệ hại hơn, từ khi cô bé nghỉ việc, ta chỉ còn là một linh hồn cô quạnh không thể tìm được một người ở bên dù có là dùng tiền mua chuộc. Tất cả đều đúng, Hazel. Tất cả những điều này và còn hơn thế nữa.”
“Được rồi,” tôi đáp. Bài phát biểu nghe sẽ cảm động hơn nếu lời lẽ ông ta không líu nhíu cả lại như thế.
“Cháu khiến ta nhớ đến Anna.”
“Tôi khiến rất nhiều người nhớ về rất nhiều người,” tôi nói. “Tôi thực sự phải đi.”
“Thế thì lái đi,” ông ta nói.
“Ra ngoài.”
“Không. Cháu khiến ta nhớ đến Anna,” ông ta lặp lại. Sau một giây, tôi cài số lùi và lùi ra ngoài. Tôi không thể bắt ông ta ra ngoài được, và tôi cũng chẳng cần. Tôi sẽ lái xe đến nhà Gus, và bố mẹ Gus sẽ có thể tống ông ta ra.
“Cháu dĩ nhiên có biết,” Van Houten nói, “Antonietta Meo.”
“Ờ, không,” tôi đáp. Tôi bật dàn âm thanh lên, tiếng nhạc hip-hop Thụy Điển lại réo, nhưng tiếng Van Houten hét át cả nó.
“Cô bé có lẽ là người trẻ tuổi nhất chưa tử vì đạo được phong chân phúc bởi Giáo hội Công giáo. Cô bé mắc cùng một căn bệnh ung thư với cậu Waters, u xương ác tính. Họ đã tháo bỏ chân bên phải của cô bé. Đau đớn đến tột cùng. Trong khi Antonietta Meo nằm hấp hối ở độ tuổi mới già nửa sáu, cô bé nói với cha của mình, ‘Cơn đau cũng giống như sợi vải: Càng dai chắc bao nhiêu, càng quý giá bấy nhiêu.’ Phải thế không Hazel?”
Tôi không nhìn trực tiếp ông ta mà nhìn qua bóng tấm gương phản chiếu. “Không,” tôi hét lên để át tiếng nhạc. “Thật vớ vẩn.”
“Chẳng phải cháu cũng mong muốn nó là thật à!” ông ta gào lại. Tôi tắt tiếng nhạc. “Ta xin lỗi đã làm hỏng chuyến đi của các cháu. Các cháu còn quá trẻ. Các cháu –” Ông ta gục xuống. Như thể ông ta có quyền khóc thương cho Gus vậy. Van Houten cũng chỉ là một trong số vô tận những người khóc thương mà chẳng biết gì về anh, một lời chia buồn muộn màng khác trên trang cá nhân của anh.
“Ông chẳng làm hỏng gì chuyến đi của chúng tôi, lão già tự phụ ạ. Chúng tôi vẫn có một chuyến đi tuyệt vời.”
“Ta đang cố,” ông ta nói. “Ta đang cố. Ta thề.” Đến lúc này tôi mới chợt nhận ra Peter Van Houten cũng đã mất đi một người trong gia đình. Tôi bắt đầu để ý đến sự chân thực ông đã viết về những đứa trẻ ung thư; việc ông không thể nói chuyện với tôi ở Amsterdam ngoại trừ hỏi có phải tôi cố tình mặc quần áo giống như bạn ấy; những thứ nhảm nhí của ông ta với tôi và Augustus; những câu hỏi đau lòng của ông ta về mối liên quan giữa điểm tới hạn của cơn đau và giá trị của nó. Ông ta vẫn ngồi đó uống rượu, một lão già đã say xỉn trong nhiều năm. Tôi nghĩ về một thống kê mà tôi ước tôi chưa từng biết đến: Một nửa các cuộc hôn nhân đổ vỡ trong vòng một năm sau cái chết của đứa trẻ. Tôi ngoái lại nhìn Van Houten. Tôi đang lái xe xuống College, tôi đỗ lại sau một làn xe đang đậu rồi hỏi, “Ông có một đứa con đã qua đời?”
“Con gái của ta,” ông nói. “Con bé mới tám tuổi. Chịu đau rất giỏi. Sẽ không bao giờ được phong chân phúc.”
“Em ấy cũng mắc bệnh bạch cầu?” tôi hỏi. Ông gật đầu. “Như Anna,” tôi nói.
“Rất giống cô bé ấy, ừ.”
“Ông đã kết hôn chứ?”
“Không. Ừ, không phải khi con bé mất. Ta đã không thể chịu đựng được rất lâu trước khi chúng ta mất con bé. Buồn đau không làm thay đổi con người ta, Hazel à. Nó bộc lộ con người ta.”
“Ông sống cùng em ấy chứ?”
“Không, ban đầu thì không, mặc dù thời gian cuối chúng ta có đưa con bé đến New York, nơi ta lúc đó đang sống, cho một loạt những cơn tra tấn thí nghiệm mà chỉ gia tăng sự đau khổ cho chuỗi ngày còn lại của con bé mà không tăng thêm số ngày nào cả.”
Một lúc sau tôi nói, “Thế là ông đã cho cô bé một cuộc sống thứ hai để cô bé có thể trở thành một cô gái tuổi mới lớn.”
“Ta nghĩ đó sẽ là một nhận xét hợp lý,” ông ta nói, rồi mau chóng thêm vào, “ta chắc cháu cũng biết đến thí nghiệm tưởng tượng
[120]
của Philippa Foot về nghịch lý xe điện?”
“Và rồi tôi xuất hiện ở nhà ông và ăn mặc như cô gái ông hi vọng em ấy sẽ lớn lên và ông, như thể, tất cả mọi thứ tái hiện lại với ông bởi điều đó.”
“Có một cái xe điện bị mất lái đang chạy trên đường ray,” ông ta nói.
“Tôi không quan tâm mấy cái thí nghiệm tưởng tượng ngu ngốc đấy của ông,” tôi đáp.
“Thực ra nó là của Philippa Foot.”
“Ừ, của bà ấy cũng vậy,” tôi nói.
“Con bé không hiểu tại sao mọi chuyện lại xảy đến như thế,” ông ta nói. “Ta buộc lòng phải nói với con bé rằng nó sẽ chết. Các nhân viên công tác xã hội của con bé bảo ta phải nói với nó. Ta phải nói với con bé rằng có thể nó sẽ chết, thế nên ta đã bảo con bé rằng nó đang đi đến thiên đường. Con bé hỏi ta có ở đấy không, rồi ta đáp rằng ta sẽ không ở đó, vẫn chưa. Nhưng cuối cùng, con bé nhắc mãi nên ta đã hứa rằng có, tất nhiên rồi, rất sớm thôi. Và ta nói với con bé rằng trong lúc ấy chúng ta sẽ có một gia đình vĩ đại chăm sóc cho nó. Rồi con bé hỏi ta bao giờ ta sẽ lên trên đó, ta bảo sẽ sớm thôi. Hai mươi hai năm trước.”
“Tôi rất tiếc.”
“Ta cũng vậy.”
Một lúc sau tôi hỏi, “Chuyện gì đã xảy ra với mẹ bạn ấy?”
Ông ta mỉm cười. “Cháu vẫn mong đợi một đoạn kết, cô bé tinh quái ạ.” Tôi mỉm cười lại. “Ông nên về nhà,” tôi bảo ông ta. “Đừng uống nữa. Viết một cuốn tiểu thuyết khác. Làm những điều ông giỏi. Không nhiều người đủ may mắn để có được một năng khiếu nào đó.”
Ông ta nhìn tôi qua tấm gương một lúc lâu. “Được rồi,” ông ta nói. “Ừ. Cháu nói đúng. Cháu nói đúng.” Nhưng dù nói thế, ông ta vẫn lôi cái be rượu whiskey đã gần hết của mình ra. Ông ta uống, vặn nắp lại, rồi mở cửa xe. “Tạm biệt, Hazel.”
“Đừng nghĩ ngợi nữa, Van Houten.”
Ông ta ngồi xuống lề đường đằng sau chiếc xe. Tôi nhìn theo bóng ông ta nhỏ dần trong chiếc gương chiếu hậu, ông ta lôi chiếc be ra và trong một giây tôi đã tưởng ông ta sẽ bỏ nó lại bên vệ đường. Thế rồi ông ta lại nốc một hơi dài.
Đó là một buổi chiều nóng nực ở Indianapolis, bầu không khí đặc quánh và yên ắng như thể chúng tôi đang ở trong một đám mây. Đấy là kiểu không khí tệ hại nhất với tôi, và tôi tự nhủ mình nó chỉ là không khí thôi mà trong quãng đường cuốc bộ từ lối vào đến cửa nhà anh tưởng như dài vô tận. Tôi bấm chuông, mẹ Gus ra mở cửa.
“Ôi, Hazel,” bà nói, ôm bọc lấy tôi, òa khóc.
[121]
Bà nấu cho tôi một chút món lasagna cà tím– tôi đoán rất nhiều người đã mang đến đồ ăn gì đấy – để ăn cùng bà và bố Gus. “Cháu khỏe chứ?”
“Cháu nhớ anh ấy.”
“Ừ.”
Tôi thực sự không biết phải nói gì. Tôi chỉ muốn xuống nhà và tìm bất cứ thứ gì anh đã viết cho tôi. Thêm vào đó bầu không khí im lặng trong căn phòng làm tôi bức bối. Tôi muốn hai người nói chuyện với nhau, an ủi hoặc nắm tay nhau gì đấy. Nhưng họ chỉ ngồi đó ăn một chút rất ít lasagna, thậm chí còn chẳng nhìn nhau. “Thiên đường cũng cần một thiên thần chứ,” bố anh mở lời sau một lúc lâu.
“Cháu biết,” tôi đáp. Rồi các chị của anh và đám trẻ con nhốn nháo xuất hiện và ùa vào bếp. Tôi đứng dậy ôm cả hai chị anh rồi ngắm nhìn những đứa trẻ chạy quanh nhà bếp với lượng dư tiếng ồn và chuyển động cực kỳ cần thiết của chúng, những phân tử phấn khích va lẫn nhau
[122]
hò hét, “Em phải làm không anh phải làm không em làm rồi xong em bắt được anh em không bắt được anh em bắt trượt rồi nhưng em đang bắt được anh mà không thằng ngu đang nghỉ giải lao DANIEL KHÔNG ĐƯỢC GỌI EM CON LÀ ĐỒ NGU Mẹ nếu con không được nói thế thì làm sao mẹ nói được đồ ngu đồ ngu,” rồi đồng thanh, đồ ngu đồ ngu đồ ngu đồ ngu, giờ trên bàn bố mẹ Gus đã nắm tay nhau, khiến tôi cảm thấy thoải mái hơn nhiều.
“Isaac bảo cháu Gus đã viết gì đó, gì đó cho cháu,” tôi nói. Lũ trẻ vẫn đang hò hét cái bài hát thằng-ngu của mình.
“Chúng ta có thể xem máy tính của thằng bé,” mẹ anh đáp.
“Anh ấy không dùng nhiều lắm trong mấy tuần cuối,” tôi nói.
“Phải rồi. Bác còn không biết mọi người đã mang nó lên nhà chưa. Nó vẫn ở dưới tầng hầm đúng không, anh Mark?” “Anh cũng không biết.”
“Dạ,” tôi nói, “cháu có thể…” tôi ngoảnh đầu về phía cửa tầng hầm.
“Chúng ta vẫn chưa dọn gì,” bố anh nói. “Nhưng tất nhiên rồi, được mà, Hazel. Dĩ nhiên cháu có thể.”
Tôi xuống dưới nhà, đi qua chiếc giường bừa bộn của anh, qua mấy chiếc ghế lười dưới cái TV. Máy tính của anh vẫn bật. Tôi nhấn cái chuột để nó sáng lên rồi tìm kiếm những tập tin được chỉnh sửa gần đây nhất của anh. Chẳng có gì trong tháng cuối cùng. Thứ gần đây nhất là
[123]
một bài viết phản hồi cho tác phẩm Mắt biếc của Toni Morrison.
Có lẽ anh đã viết thứ gì đó bằng tay. Tôi bước qua giá sách của anh, tìm một quyển sổ ghi chép hay sổ tay. Chẳng có gì cả. Tôi lật qua bản Nỗi đau tột cùng của anh. Anh chẳng để lại một dấu tích nào trong đó.
Tôi bước đến chỗ chiếc bàn cạnh giường anh tiếp theo. Mayhem bất tử, phần thứ chín sau cuốn Cái giá của Bình minh, nằm trên mặt bàn cạnh cái đèn đọc sách, mép trang 138 gấp xuống. Anh chẳng bao giờ làm thế cho đến tận cuối sách. “Bật mí: Mayhem vẫn sống,” tôi đọc to lên cho anh nghe, nhỡ mà anh có thể nghe được.
Rồi tôi bò lên chiếc giường bừa bộn của anh, cuộn mình trong chăn của anh như một cái kén tằm, bao bọc mình bởi mùi hương của anh. Tôi gỡ cái ống thở ra để có thể ngửi rõ hơn, hít anh vào và thở anh ra, mùi hương phai dần cả khi tôi vẫn nằm yên ở đó, ngực tôi nóng bừng lên đến tận khi tôi không thể ý thức được những cơn đau.
Một lúc sau tôi ngồi dậy vẫn ở trên giường rồi cắm lại cái ống của mình và hít thở một lúc trước khi đi lên nhà. Tôi chỉ lắc đầu để đáp lại ánh mắt mong đợi của bố mẹ anh. Lũ trẻ chạy ngang qua tôi. Một chị của Gus – tôi không biết ai với ai – nói, “Mẹ có muốn con dẫn lũ trẻ ra công viên hay đi chơi đâu không?”
“Không, không, chúng nó đang chơi vui mà.”
“Có chỗ nào anh ấy có thể để lại một cuốn số tay không ạ? Chẳng hạn như giường viện hay đâu đó?” Chiếc giường đã được chuyển đi, bệnh viện đã lấy về.
“Hazel à,” bố anh nói, “cháu đã ở đây mỗi ngày với các bác. Cháu – thằng bé không ở một mình nhiều đâu, cháu yêu. Thằng bé không có thời gian để viết được gì đấy. Bác biết cháu muốn…bác cũng muốn như thế. Nhưng lời nhắn thằng bé để lại cho chúng ta đến từ trên đó, Hazel à.” Ông chỉ tay lên trần nhà, như thể Gus đang lơ lửng ngay trên ngôi nhà. Có thể anh ở đấy thật. Tôi không biết nữa. Cho dù tôi không cảm nhận được sự hiện diện của anh.
“Dạ,” tôi đáp. Tôi hứa sẽ trở lại thăm họ trong mấy ngày tới.
Tôi không bao giờ gặp lại mùi hương của anh lần nữa.
Một vài ngày sau đó, tôi thức dậy vào khoảng giữa trưa rồi lái xe sang nhà Isaac. Cậu ấy tự mình ra mở cửa. “Mẹ đưa Graham đi xem phim rồi,” cậu ấy nói.
“Chúng ta nên vào làm gì đó,” tôi nói.
“Gì đó nghĩa là ngồi trên sofa chơi điện tử dành cho người mù được không?”
“Ừ, chính là gì đó tớ đã nghĩ trong đầu.”
Thế rồi chúng tôi ngồi đó trong mấy tiếng đồng hồ cùng nhau nói chuyện với cái màn hình, mò mẫm trong một cái hang rối rắm vô hình không một tia ánh sáng. Phần hay ho nhất của trò chơi là cố gắng dẫn cái máy tính vào cuộc trò chuyện hài hước của chúng tôi:
Tôi: “Chạm vào vách hang.”
Máy tính: “Bạn chạm vào vách hang. Nó rất ẩm ướt.”
Isaac: “Liếm vào vách hang.”
Máy tính: “Tôi không hiểu. Xin nhắc lại.”
Tôi: “Ấy với vách hang ẩm ướt.”
Máy tính: “Bạn thử nhảy lên. Bạn bị cộc đầu.”
Isaac: “Không phải nhảy. ẤY.”
Máy tính: “Tôi không hiểu.”
Isaac: “Anh bạn, tôi đã cô đơn trong bóng tối của cái hang này hàng tuần rồi và tôi cần được giải thoát. ẤY CÁI VÁCH HANG.”
Máy tính: “Bạn thử nhả–”
Tôi: “Hẩy mông vào vách hang.”
Máy tính: “Tôi không–”
Isaac: “Hãy đắm đuối với vách hang.”
Máy tính: “Tôi không–”
Tôi: “THÔI ĐƯỢC. Men theo lối bên trái.”
Máy tính: “Bạn men theo lối bên trái. Lối đi hẹp dần.”
Tôi: “Bò xuống.”
Máy tính: “Bạn bò được khoảng gần một trăm mét. Lối đi hẹp dần.”
Tôi: “Trườn xuống.”
Máy tính: “Bạn trườn đi khoảng ba mươi mét. Có một dòng nước chảy xuống người bạn. Bạn gặp một đống đá nhỏ chắn ngang lối đi.”
Tôi: “Giờ thì tôi ấy được chứ?”
Máy tính: “Bạn không thể nhảy lên mà không đứng dậy.”
Isaac: “Tôi không thích phải sống trong một thế giới không có Augustus
Waters.”
Máy tính: “Tôi không hiểu –”
Isaac: “Tôi cũng thế. Tạm dừng.”
Cậu ấy thả cái điều khiển xuống cái ghế chỗ giữa chúng tôi và hỏi, “Cậu có biết là nó có đau hay sao không?”
“Cậu ấy chắc đã rất khó nhọc mới thở được, tớ đoán thế,” tôi nói. “Cậu ấy cuối cùng cũng hôn mê, nhưng nó nghe như, ừm, nó chẳng tốt đẹp gì cả. Chết đi lúc nào cũng tệ.”
“Ừ,” Isaac đáp. Rồi một lúc lâu sau, “Không thể cứ như thế được.”
“Lúc nào cũng vậy mà,” tôi nói.
“Cậu như đang giận à,” cậu ấy hỏi.
“Ừ,” tôi đáp. Chúng tôi cứ ngồi yên lặng rất lâu, như vậy thật tốt, rồi tôi bắt đầu nhớ lại mọi thứ từ ban đầu khi Gus nói về nỗi sợ hãi bị lãng quên ở Trái Tim Đích Thực Của Chúa, rồi tôi bảo anh rằng anh đang sợ một nỗi sợ chung và không thể tránh được, và rồi thật ra, vấn đề không phải ở chính nỗi đau đớn hay sự lãng quên mà ở sự vô nghĩa đến tiêu cực của những chuyện này, chủ nghĩa hư vô hoàn toàn phi nhân tính về sự khổ đau. Tôi nghĩ về lời của bố nói với tôi rằng vũ trụ này muốn được chú ý. Nhưng cái chúng ta muốn lại là được vũ trụ chú ý đến, được vũ trụ quan tâm đến mọi thứ xảy đến với chúng ta – không phải để ý đến cuộc sống nhân sinh nói chung mà là mỗi người trong số chúng ta, từng người riêng lẻ.
“Gus thực sự yêu cậu, cậu biết chứ,” cậu ấy nói.
“Tớ biết.”
“Nó chẳng bao giờ chịu ngậm mồm cả.”
“Tớ biết,” tôi nói.
“Thật bực mình.”
“Tớ không thấy bực mình,” tôi nói.
“Nó đã bao giờ đưa cậu mấy thứ nó viết chưa?” “Thứ gì cơ?”
“Phần tiếp theo của cuốn sách cậu thích gì đó.” Tôi quay sang Isaac. “Gì cơ?”
“Nó bảo nó đang làm gì đó cho cậu nhưng nó không giỏi văn đến thế.” “Cậu ấy nói thế khi nào?”
“Tớ không nhớ. Chắc là sau khi đi Amsterdam về mấy hôm.”
“Hôm nào?” tôi hỏi dồn. Chẳng nhẽ anh đã không có cơ hội để hoàn thành nó? Hay anh viết xong rồi và để nó trong máy tính hay đâu đó?
“Ừm,” Isaac thở dài. “Ừm, tớ không nhớ. Bọn tớ nói chuyện đó có một lần ở đây. Nó đã ở đây, xong rồi – ừ, bọn tớ nghịch cái máy đọc email rồi tớ nhận được thư từ bà tớ. Tớ có thể kiểm tra lại trên máy nếu cậu –”
“Ừ, ừ, nó ở đâu?”
Anh đã nói chuyện về nó một tháng trước đây. Một tháng. Không phải một tháng tốt lành gì, thật thà mà nói, nhưng vẫn là – một tháng. Từng đấy ít nhất cũng đủ thời gian cho anh viết gì đó. Vẫn có thứ gì đó của anh, hoặc ít nhất bởi anh, đang lưu lạc đâu đó quanh đây. Tôi cần nó.
“Tớ đến nhà cậu ấy bây giờ,” tôi bảo Isaac.
Tôi vội chạy ra cái xe minivan lôi cái giá bình ôxy ra bỏ lên ghế trước. Tôi khởi động máy. Tiếng nhạc hip-hop chóe lên từ dàn âm thanh, và trong khi tôi với tay để chuyển sang kênh radio khác, có ai đó bắt đầu hát rap. Bằng tiếng Thụy Điển.
Tôi xoay người lại và hét ầm lên khi thấy Peter Van Houten đang ngồi trên ghế đằng sau.
“Ta xin lỗi vì đã làm cháu giật mình,” Peter Van Houten nói át cả tiếng nhạc rap. Ông ta vẫn mặc bộ vét hôm lễ tang, gần cả tuần nay rồi. Người ông ta đầy mùi như thể mồ hôi cũng toàn là rượu. “Cháu cứ giữ cái đĩa CD,” ông ta nói. “Snook, một trong những nhóm nổi tiếng người Thụy–”
“Á á á á RA KHỎI XE CỦA TÔI.” Tôi tắt dàn âm thanh.
“Đây là xe của mẹ cháu, theo như ta hiểu,” ông ta nói. “Thêm nữa, nó cũng không khóa.”
“Ôi Chúa ơi! Ra khỏi xe mau nếu không tôi sẽ gọi chín-một-một. Ông già, ông có vấn đề sao vậy?”
“Nếu có thì chỉ một,” ông ta trầm ngâm. “Ta đến đây chỉ đơn giản để xin lỗi cháu. Cháu đã đúng khi nói ta chỉ là một kẻ nhỏ mọn đáng thương, nghiện ngập trong rượu. Ta chỉ có một người quen từng dành thời gian ở bên ta bởi ta trả lương để cô bé làm vậy – tệ hại hơn, từ khi cô bé nghỉ việc, ta chỉ còn là một linh hồn cô quạnh không thể tìm được một người ở bên dù có là dùng tiền mua chuộc. Tất cả đều đúng, Hazel. Tất cả những điều này và còn hơn thế nữa.”
“Được rồi,” tôi đáp. Bài phát biểu nghe sẽ cảm động hơn nếu lời lẽ ông ta không líu nhíu cả lại như thế.
“Cháu khiến ta nhớ đến Anna.”
“Tôi khiến rất nhiều người nhớ về rất nhiều người,” tôi nói. “Tôi thực sự phải đi.”
“Thế thì lái đi,” ông ta nói.
“Ra ngoài.”
“Không. Cháu khiến ta nhớ đến Anna,” ông ta lặp lại. Sau một giây, tôi cài số lùi và lùi ra ngoài. Tôi không thể bắt ông ta ra ngoài được, và tôi cũng chẳng cần. Tôi sẽ lái xe đến nhà Gus, và bố mẹ Gus sẽ có thể tống ông ta ra.
“Cháu dĩ nhiên có biết,” Van Houten nói, “Antonietta Meo.”
“Ờ, không,” tôi đáp. Tôi bật dàn âm thanh lên, tiếng nhạc hip-hop Thụy Điển lại réo, nhưng tiếng Van Houten hét át cả nó.
“Cô bé có lẽ là người trẻ tuổi nhất chưa tử vì đạo được phong chân phúc bởi Giáo hội Công giáo. Cô bé mắc cùng một căn bệnh ung thư với cậu Waters, u xương ác tính. Họ đã tháo bỏ chân bên phải của cô bé. Đau đớn đến tột cùng. Trong khi Antonietta Meo nằm hấp hối ở độ tuổi mới già nửa sáu, cô bé nói với cha của mình, ‘Cơn đau cũng giống như sợi vải: Càng dai chắc bao nhiêu, càng quý giá bấy nhiêu.’ Phải thế không Hazel?”
Tôi không nhìn trực tiếp ông ta mà nhìn qua bóng tấm gương phản chiếu. “Không,” tôi hét lên để át tiếng nhạc. “Thật vớ vẩn.”
“Chẳng phải cháu cũng mong muốn nó là thật à!” ông ta gào lại. Tôi tắt tiếng nhạc. “Ta xin lỗi đã làm hỏng chuyến đi của các cháu. Các cháu còn quá trẻ. Các cháu –” Ông ta gục xuống. Như thể ông ta có quyền khóc thương cho Gus vậy. Van Houten cũng chỉ là một trong số vô tận những người khóc thương mà chẳng biết gì về anh, một lời chia buồn muộn màng khác trên trang cá nhân của anh.
“Ông chẳng làm hỏng gì chuyến đi của chúng tôi, lão già tự phụ ạ. Chúng tôi vẫn có một chuyến đi tuyệt vời.”
“Ta đang cố,” ông ta nói. “Ta đang cố. Ta thề.” Đến lúc này tôi mới chợt nhận ra Peter Van Houten cũng đã mất đi một người trong gia đình. Tôi bắt đầu để ý đến sự chân thực ông đã viết về những đứa trẻ ung thư; việc ông không thể nói chuyện với tôi ở Amsterdam ngoại trừ hỏi có phải tôi cố tình mặc quần áo giống như bạn ấy; những thứ nhảm nhí của ông ta với tôi và Augustus; những câu hỏi đau lòng của ông ta về mối liên quan giữa điểm tới hạn của cơn đau và giá trị của nó. Ông ta vẫn ngồi đó uống rượu, một lão già đã say xỉn trong nhiều năm. Tôi nghĩ về một thống kê mà tôi ước tôi chưa từng biết đến: Một nửa các cuộc hôn nhân đổ vỡ trong vòng một năm sau cái chết của đứa trẻ. Tôi ngoái lại nhìn Van Houten. Tôi đang lái xe xuống College, tôi đỗ lại sau một làn xe đang đậu rồi hỏi, “Ông có một đứa con đã qua đời?”
“Con gái của ta,” ông nói. “Con bé mới tám tuổi. Chịu đau rất giỏi. Sẽ không bao giờ được phong chân phúc.”
“Em ấy cũng mắc bệnh bạch cầu?” tôi hỏi. Ông gật đầu. “Như Anna,” tôi nói.
“Rất giống cô bé ấy, ừ.”
“Ông đã kết hôn chứ?”
“Không. Ừ, không phải khi con bé mất. Ta đã không thể chịu đựng được rất lâu trước khi chúng ta mất con bé. Buồn đau không làm thay đổi con người ta, Hazel à. Nó bộc lộ con người ta.”
“Ông sống cùng em ấy chứ?”
“Không, ban đầu thì không, mặc dù thời gian cuối chúng ta có đưa con bé đến New York, nơi ta lúc đó đang sống, cho một loạt những cơn tra tấn thí nghiệm mà chỉ gia tăng sự đau khổ cho chuỗi ngày còn lại của con bé mà không tăng thêm số ngày nào cả.”
Một lúc sau tôi nói, “Thế là ông đã cho cô bé một cuộc sống thứ hai để cô bé có thể trở thành một cô gái tuổi mới lớn.”
“Ta nghĩ đó sẽ là một nhận xét hợp lý,” ông ta nói, rồi mau chóng thêm vào, “ta chắc cháu cũng biết đến thí nghiệm tưởng tượng
[120]
của Philippa Foot về nghịch lý xe điện?”
“Và rồi tôi xuất hiện ở nhà ông và ăn mặc như cô gái ông hi vọng em ấy sẽ lớn lên và ông, như thể, tất cả mọi thứ tái hiện lại với ông bởi điều đó.”
“Có một cái xe điện bị mất lái đang chạy trên đường ray,” ông ta nói.
“Tôi không quan tâm mấy cái thí nghiệm tưởng tượng ngu ngốc đấy của ông,” tôi đáp.
“Thực ra nó là của Philippa Foot.”
“Ừ, của bà ấy cũng vậy,” tôi nói.
“Con bé không hiểu tại sao mọi chuyện lại xảy đến như thế,” ông ta nói. “Ta buộc lòng phải nói với con bé rằng nó sẽ chết. Các nhân viên công tác xã hội của con bé bảo ta phải nói với nó. Ta phải nói với con bé rằng có thể nó sẽ chết, thế nên ta đã bảo con bé rằng nó đang đi đến thiên đường. Con bé hỏi ta có ở đấy không, rồi ta đáp rằng ta sẽ không ở đó, vẫn chưa. Nhưng cuối cùng, con bé nhắc mãi nên ta đã hứa rằng có, tất nhiên rồi, rất sớm thôi. Và ta nói với con bé rằng trong lúc ấy chúng ta sẽ có một gia đình vĩ đại chăm sóc cho nó. Rồi con bé hỏi ta bao giờ ta sẽ lên trên đó, ta bảo sẽ sớm thôi. Hai mươi hai năm trước.”
“Tôi rất tiếc.”
“Ta cũng vậy.”
Một lúc sau tôi hỏi, “Chuyện gì đã xảy ra với mẹ bạn ấy?”
Ông ta mỉm cười. “Cháu vẫn mong đợi một đoạn kết, cô bé tinh quái ạ.” Tôi mỉm cười lại. “Ông nên về nhà,” tôi bảo ông ta. “Đừng uống nữa. Viết một cuốn tiểu thuyết khác. Làm những điều ông giỏi. Không nhiều người đủ may mắn để có được một năng khiếu nào đó.”
Ông ta nhìn tôi qua tấm gương một lúc lâu. “Được rồi,” ông ta nói. “Ừ. Cháu nói đúng. Cháu nói đúng.” Nhưng dù nói thế, ông ta vẫn lôi cái be rượu whiskey đã gần hết của mình ra. Ông ta uống, vặn nắp lại, rồi mở cửa xe. “Tạm biệt, Hazel.”
“Đừng nghĩ ngợi nữa, Van Houten.”
Ông ta ngồi xuống lề đường đằng sau chiếc xe. Tôi nhìn theo bóng ông ta nhỏ dần trong chiếc gương chiếu hậu, ông ta lôi chiếc be ra và trong một giây tôi đã tưởng ông ta sẽ bỏ nó lại bên vệ đường. Thế rồi ông ta lại nốc một hơi dài.
Đó là một buổi chiều nóng nực ở Indianapolis, bầu không khí đặc quánh và yên ắng như thể chúng tôi đang ở trong một đám mây. Đấy là kiểu không khí tệ hại nhất với tôi, và tôi tự nhủ mình nó chỉ là không khí thôi mà trong quãng đường cuốc bộ từ lối vào đến cửa nhà anh tưởng như dài vô tận. Tôi bấm chuông, mẹ Gus ra mở cửa.
“Ôi, Hazel,” bà nói, ôm bọc lấy tôi, òa khóc.
[121]
Bà nấu cho tôi một chút món lasagna cà tím– tôi đoán rất nhiều người đã mang đến đồ ăn gì đấy – để ăn cùng bà và bố Gus. “Cháu khỏe chứ?”
“Cháu nhớ anh ấy.”
“Ừ.”
Tôi thực sự không biết phải nói gì. Tôi chỉ muốn xuống nhà và tìm bất cứ thứ gì anh đã viết cho tôi. Thêm vào đó bầu không khí im lặng trong căn phòng làm tôi bức bối. Tôi muốn hai người nói chuyện với nhau, an ủi hoặc nắm tay nhau gì đấy. Nhưng họ chỉ ngồi đó ăn một chút rất ít lasagna, thậm chí còn chẳng nhìn nhau. “Thiên đường cũng cần một thiên thần chứ,” bố anh mở lời sau một lúc lâu.
“Cháu biết,” tôi đáp. Rồi các chị của anh và đám trẻ con nhốn nháo xuất hiện và ùa vào bếp. Tôi đứng dậy ôm cả hai chị anh rồi ngắm nhìn những đứa trẻ chạy quanh nhà bếp với lượng dư tiếng ồn và chuyển động cực kỳ cần thiết của chúng, những phân tử phấn khích va lẫn nhau
[122]
hò hét, “Em phải làm không anh phải làm không em làm rồi xong em bắt được anh em không bắt được anh em bắt trượt rồi nhưng em đang bắt được anh mà không thằng ngu đang nghỉ giải lao DANIEL KHÔNG ĐƯỢC GỌI EM CON LÀ ĐỒ NGU Mẹ nếu con không được nói thế thì làm sao mẹ nói được đồ ngu đồ ngu,” rồi đồng thanh, đồ ngu đồ ngu đồ ngu đồ ngu, giờ trên bàn bố mẹ Gus đã nắm tay nhau, khiến tôi cảm thấy thoải mái hơn nhiều.
“Isaac bảo cháu Gus đã viết gì đó, gì đó cho cháu,” tôi nói. Lũ trẻ vẫn đang hò hét cái bài hát thằng-ngu của mình.
“Chúng ta có thể xem máy tính của thằng bé,” mẹ anh đáp.
“Anh ấy không dùng nhiều lắm trong mấy tuần cuối,” tôi nói.
“Phải rồi. Bác còn không biết mọi người đã mang nó lên nhà chưa. Nó vẫn ở dưới tầng hầm đúng không, anh Mark?” “Anh cũng không biết.”
“Dạ,” tôi nói, “cháu có thể…” tôi ngoảnh đầu về phía cửa tầng hầm.
“Chúng ta vẫn chưa dọn gì,” bố anh nói. “Nhưng tất nhiên rồi, được mà, Hazel. Dĩ nhiên cháu có thể.”
Tôi xuống dưới nhà, đi qua chiếc giường bừa bộn của anh, qua mấy chiếc ghế lười dưới cái TV. Máy tính của anh vẫn bật. Tôi nhấn cái chuột để nó sáng lên rồi tìm kiếm những tập tin được chỉnh sửa gần đây nhất của anh. Chẳng có gì trong tháng cuối cùng. Thứ gần đây nhất là
[123]
một bài viết phản hồi cho tác phẩm Mắt biếc của Toni Morrison.
Có lẽ anh đã viết thứ gì đó bằng tay. Tôi bước qua giá sách của anh, tìm một quyển sổ ghi chép hay sổ tay. Chẳng có gì cả. Tôi lật qua bản Nỗi đau tột cùng của anh. Anh chẳng để lại một dấu tích nào trong đó.
Tôi bước đến chỗ chiếc bàn cạnh giường anh tiếp theo. Mayhem bất tử, phần thứ chín sau cuốn Cái giá của Bình minh, nằm trên mặt bàn cạnh cái đèn đọc sách, mép trang 138 gấp xuống. Anh chẳng bao giờ làm thế cho đến tận cuối sách. “Bật mí: Mayhem vẫn sống,” tôi đọc to lên cho anh nghe, nhỡ mà anh có thể nghe được.
Rồi tôi bò lên chiếc giường bừa bộn của anh, cuộn mình trong chăn của anh như một cái kén tằm, bao bọc mình bởi mùi hương của anh. Tôi gỡ cái ống thở ra để có thể ngửi rõ hơn, hít anh vào và thở anh ra, mùi hương phai dần cả khi tôi vẫn nằm yên ở đó, ngực tôi nóng bừng lên đến tận khi tôi không thể ý thức được những cơn đau.
Một lúc sau tôi ngồi dậy vẫn ở trên giường rồi cắm lại cái ống của mình và hít thở một lúc trước khi đi lên nhà. Tôi chỉ lắc đầu để đáp lại ánh mắt mong đợi của bố mẹ anh. Lũ trẻ chạy ngang qua tôi. Một chị của Gus – tôi không biết ai với ai – nói, “Mẹ có muốn con dẫn lũ trẻ ra công viên hay đi chơi đâu không?”
“Không, không, chúng nó đang chơi vui mà.”
“Có chỗ nào anh ấy có thể để lại một cuốn số tay không ạ? Chẳng hạn như giường viện hay đâu đó?” Chiếc giường đã được chuyển đi, bệnh viện đã lấy về.
“Hazel à,” bố anh nói, “cháu đã ở đây mỗi ngày với các bác. Cháu – thằng bé không ở một mình nhiều đâu, cháu yêu. Thằng bé không có thời gian để viết được gì đấy. Bác biết cháu muốn…bác cũng muốn như thế. Nhưng lời nhắn thằng bé để lại cho chúng ta đến từ trên đó, Hazel à.” Ông chỉ tay lên trần nhà, như thể Gus đang lơ lửng ngay trên ngôi nhà. Có thể anh ở đấy thật. Tôi không biết nữa. Cho dù tôi không cảm nhận được sự hiện diện của anh.
“Dạ,” tôi đáp. Tôi hứa sẽ trở lại thăm họ trong mấy ngày tới.
Tôi không bao giờ gặp lại mùi hương của anh lần nữa.