“Cái này để ở đâu vậy, thưa cô?”
Anh chàng phụ tá trẻ tóc vàng của đội vận chuyển nhấc bổng chiếc đi văng dễ dàng như bê một món đồ chơi, và ngừng lại ở hành lang chờ tôi chỉ dẫn.
Tôi đang bận lục lọi trong đám hộp chứa vật dụng linh tinh, cố gắng định vị ấm pha trà cũ kỹ gắn bó lâu năm của mình trước khi chiếc ấm đun nước tôi mới bắc trên bếp lò sôi. Tôi lơ đễnh liếc qua vai.
“Trong phòng ngủ của tôi”, tôi bảo anh ta. “Phòng đầu tiên bên tay phải của anh ngay trên tầng ấy. A, đây rồi!”
Tay tôi sờ ngay đường cong thân thuộc nơi tay cầm của ấm trà đúng lúc ấm nước sôi lên với một tiếng rít sắc nhọn. Ngắt van an toàn của bình ga, tôi xúc một ít lá trà sấy cho vào trong bình, châm ngập nước nóng và đặt lại bếp lò trong lúc chờ đợi.
“Thưa cô Beckett?” Là ông Owen, người quản lý đội vận chuyển, cùng một phụ tá khác đứng ở cửa sau. Gương mặt tròn tròn vui vẻ của ông ta hồng lên vì cố sức. “Chúng tôi đã đặt bàn bếp của cô ở đây. Mang nó vào từ phía sau có lẽ là tiện nhất – tôi không thích lưu lại dấu vết lên khung cửa gỗ ở sảnh trước.”
Tôi nhường đường cho họ, kéo một hay hai chiếc hộp trong cùng.
“Tôi vừa mới châm trà”, tôi nói, “nếu ông và người của ông muốn một tách. Ôi thôi chết”, tôi nhìn quanh, đột nhiên nhớ ra. “Tôi vẫn chưa dỡ chiếc tách nào ra hết.”
“Xin đừng ngại.” Ông Owen tử tế nháy mắt. “Tôi có sẵn một hộp cốc trong xe tải. Lúc nào tôi cũng chuẩn bị.”
Anh chàng phụ tá trẻ tóc vàng hoe quay trở lại, trông có vẻ lúng túng. “Cô có chắc ý cô là cánh cửa thứ nhất bên tay phải không, thưa cô? Nhìn nó không giống phòng ngủ bởi nó nhỏ khủng khiếp và còn có một giá vẽ hoặc thứ gì đó bên trong.”
Tôi vỗ bàn tay lên trán và mỉm cười xin lỗi.
“Thứ lỗi cho tôi, ý tôi là cánh cửa thứ ba bên tay phải. Phòng ngủ lớn ở mặt phía bắc ngôi nhà.”
“Ổn rồi, thưa cô.” Gương mặt anh ta giãn ra, và anh ta biến mất lần nữa.
“Lúc nào cũng có một chút hoang mang, phải không?” Ông Owen đẩy chiếc bàn vào vị trí sát vách phòng cất thức ăn. “Chẳng mấy chốc cô sẽ sắp xếp mọi thứ đâu ra đấy thôi. Phải rồi, tôi nghĩ đồ đạc đều mang cả vào trong rồi đấy. Chỉ còn lại đống hộp thôi. Vậy để tôi đi lấy cốc uống trà ngay nhé?”
Ông ta có một chút gì đó kỳ lạ, chắc chắn là người đàn ông ngăn nắp nhất tôi từng gặp, và rất xứng đáng với khoản tiền tôi định trả thêm cho những dịch vụ của ông ta. Khi mua ngôi nhà ba tuần trước, tôi không quá bận tâm dến chuyện chuyển đồ của mình từ Luân Đôn về Exbury. Nhưng ngay khi trở lại căn hộ của mình trên đường Bloomsbury và bắt đầu đóng gói, tôi mau chóng nhận ra cần phải nhờ đến một sự trợ giúp chuyên nghiệp. Ngoài nội thất phòng ngủ từ thời Victoria theo đúng ước nguyện của tôi – một tài sản thừa kế khác từ bác Helen – còn có nội thất phòng khách và đồ đạc bên trong bếp, tất cả dụng cụ vẽ, bảng vẽ, vài trăm cuốn sách tôi mang về từ các phiên đấu giá và những cửa hàng sách cũ trong suốt những năm ở Luân Đôn. Theo giới thiệu của một người bạn thân, tôi đã gọi cho ông Owen, và ông ấy đã nhận nhiệm vụ, chẳng khác một hiệp sĩ hiện đại đến giải cứu cho tôi là mấy.
Trong căn hộ của tôi, đống hộp đựng đồ được đánh dấu và dán nhãn gọn gàng trông đồ sộ và hoành tráng bao nhiêu thì ở đây, trong căn nhà này, khó mà phát hiện ra chúng, khi chúng trở nên nhỏ nhoi trước tầm vóc tuyệt đối của kiến trúc cùng dãy phòng rộng lớn ngập ánh nắng. Tôi đã rất hài lòng khi phát hiện phần bên trong ngôi nhà cổ cũng quyến rũ đến từng phần nhỏ hệt như bên ngoài, và khá phù hợp với sở thích truyền thống của tôi.
Bước qua cửa chính thì sẽ vào sảnh lớn phía trước, cửa chính được ghép từ những tấm ván bằng gỗ sồi bóng loáng vô cùng lộng lẫy. “Thế kỷ mười bảy”, ông Owen liếc qua và tuyên bố, “và cực kỳ hảo hạng”. Thẳng về phía trước, một cầu thang từ gỗ sồi chắc nịch đặt ngay chính sảnh dốc lên vài bậc, ngừng tại một chiếu nghỉ vuông vức, rồi xoay một góc chín mươi độ đột ngột ngoặt sang bên trái và tiếp tục hành trình lên tầng trên. Những cánh cửa dẫn đến phòng khách và phòng đọc mở lối tương ứng hai bên trái phải phía sau sảnh, trong khi mé phải của cầu thang là một hành lang thông đến bếp. Phòng ăn, bếp và phòng để chén đĩa kiểu cũ choán hết nửa phần sau của tầng trệt, từ những khung cửa sổ lớn ngập sáng có thể nhìn bao quát đồng cỏ xanh um rải rác những đóa hoa dại chớm nở của mùa xuân.
Có bốn phòng ngủ ở trên tầng. Một phòng lớn, có chiều dài chạy khắp mặt bắc của ngôi nhà bên trên phòng đọc và phòng để chén đĩa, hiển nhiên sẽ được lựa chọn làm phòng ngủ của tôi. Nó thậm chí còn được thiết kế lò sưởi riêng, cùng với một tủ búp phê cỡ đại náu trong không gian bên dưới những bậc thang lên gác mái. Tôi chọn phòng ngủ nhỏ phía sau làm xưởng vẽ, và bằng lòng để hai phòng phía trước bỏ không trong một khoảng thời gian, dùng làm khu vực nhà kho cho đến khi tôi hoàn toàn ổn định. Giữa xưởng vẽ và phòng ngủ, một khoảng không khá rộng, là một phòng tắm đầy đủ tiện nghi – khá sang trọng so với một ngôi nhà cổ.
Đương nhiên vẫn có vài chỗ rạn và kêu cọt kẹt, vài phản đối từ đám ống nước, cũng như sự ẩm ướt đã bóp vụn lớp vữa trát quanh những khung cửa sổ ở tầng trên, nhưng không có gì không thể đặt về đúng chỗ, một cách kịp thời.
“Ngôi nhà cổ cô mua đáng yêu thật đấy”, ông Owen nói, như đang thừa nhận với những suy nghĩ của riêng tôi khi ông ta ngồi lên chồng thùng đựng đồ bên cạnh và đưa cho tôi một chiếc cốc nhựa. “Cô nói nó được xây vào khoảng năm 1580 phải không?”
“Đấy là điều mà người môi giới bất động sản đã nói với tôi.” Tôi gật đầu, rót trà đặc cho người vận chuyển và hai phụ tá đang toát mồ hôi của ông ta, rồi an vị lên chỗ ngồi tạm thời để tận hưởng cốc trà nghi ngút khói của mình. “Tôi e mình không biết nhiều lắm về lịch sử ngôi nhà.”
“Ồ, dân làng rồi sẽ bổ sung chỗ khuyết ấy cho cô thôi”, ông Owen tinh tường phát biểu. “Những ngôi nhà cổ như thế này luôn có quá khứ. Phần lớn trong số đó đều vô cùng thú vị. Từ người dân địa phương, cô sẽ biết vô khối chuyện hơn bất cứ cuốn sách lịch sử nào.”
“Tôi sẽ ghi nhớ điều đó.”
Hai người đàn ông trẻ hơn lễ phép thưởng thức trà trong im lặng, kiên nhẫn chờ ông Owen kết thúc cuộc nói chuyện và ra dấu cho họ trở lại công việc. Cuối cùng, sau tách trà thứ hai, ông ta đứng dậy. Ngay lúc đó, một tiếng sập khủng khiếp dội vào sảnh trước, làm tôi nhảy dựng khỏi chỗ.
“Chỉ là cửa trước thôi, thưa cô”, một trong hai nhân viên vận chuyển trẻ tuổi giải thích. “Các bản lề bị cong vào trong, cô thấy đấy, còn then cài cũng không mấy chắc chắn. Gió mạnh một cái cũng bật tung cả cửa.”
Ông Owen nhanh chóng kiểm tra cánh cửa, lắp thêm lớp bảo vệ cho tay cầm bên trong để tránh gây thiệt hại nhiều hơn cho bức tường ốp gỗ đằng sau, và đề nghị tôi mua một ổ khóa mới càng sớm càng tốt. “Cẩn thận chẳng bao giờ thừa đâu”, đó là lời khuyên chân thành như người cha dành cho con gái của ông.
Chưa đầy một giờ, ba người đàn ông đã hoàn thành công việc tháo dỡ và sắp xếp phần còn lại trong đống đồ đạc của tôi, và vào lúc hai rưỡi, tôi đã đứng ngay ngưỡng cửa, vẫy chào lần cuối với chiếc xe tải đang khuất dần và có cảm giác, lần đầu tiên trong đời, vô cùng bấp bênh với chính bản thân mình. Và cực kỳ đơn độc.
Cảm giác lớn lao từ những gì vừa làm đột ngột đánh vào tôi, với cường độ ngay cả toàn bộ chủ nghĩa hoài nghi của anh trai lẫn những bài diễn thuyết nhẹ nhàng hơn trên điện thoại của cha mẹ tôi cũng khó có thể đạt được.
Tôi đã tuyên bố có thể thoải mái làm việc khi ở Exbury cũng như khi ở Luân Đôn. Trên thực tế, rõ ràng tôi còn có thể có nhiều cảm hứng hơn khi ở Exbury, tránh xa những xao nhãng mà thành phố mang lại cho tôi. Và sau cùng, mua nhà nghe có vẻ mang tính chất đầu tư. Còn sự thực, việc này thay đổi từ môi trường thân thuộc và sự quây quần của những người bạn quen biết từ lâu sang một cộng đồng những người xa lạ chưa bao giờ có vẻ quá quan trọng với tôi. Cho đến giờ phút này. Tôi có cảm giác nhói đau một chút với khao khát khi nghĩ tới căn hộ ở tầng ba, và bà hàng xóm Angie, ở dọc hành lang, người luôn sống lệ thuộc vào tách cà phê và những câu chuyện buôn dưa lúc ban chiều.
Dù vậy nỗi khao khát ấy cũng nhòe đi trong thoáng chốc, khi tôi từ sảnh quay vào phòng đọc. Đó là một căn phòng yên tĩnh đáng yêu, với những bức tường ốp gỗ tối màu, những hàng giá sách trống thoảng mùi dầu chanh, và lò sưởi trông vô cùng ấm áp tương tự như chiếc lò trong phòng ngủ trên tầng của tôi. Lúc rạng sáng, ánh mặt trời chiếu qua khung cửa sổ thiếu rèm, trải rộng, xiên những đường chiếu vuông vức trên lớp da nâu bọc chiếc sô pha cũ của tôi. Giờ ánh nắng chao nghiêng, và lờ mờ yên ả. Ngoài chiếc sô pha, những vật dụng duy nhất còn lại được tôi thêm vào căn phòng là chiếc ghế bành tương xứng đặt trước lò sưởi và một bộ bàn viết cùng ghế đơn giản làm từ gỗ cây óc chó. Giờ phút này, chúng đang bị chôn vùi bên dưới các thùng đựng sách và giấy tờ chuyển đến cùng với tôi.
Ý tưởng bắt đầu dỡ đồ của mình ở đây thật cám dỗ, nhưng từ kinh nghiệm, tôi thừa biết rằng sự xao nhãng mà việc đó gây ra nhỏ đến mức nào. Một cuốn sách cũ yêu thích mà tôi hân hoan tìm thấy giữa một thùng đồ, sẽ đồng nghĩa với việc tiêu tốn phần còn lại của buổi chiều trong sự lãng quên, vô bổ và niềm hạnh phúc của tôi. Tốt nhất nên dọn phòng đọc cuối cùng, tôi kết luận, và bắt đầu ở một nơi hợp lý và thực tế nhất – phòng bếp.
Tôi miễn cưỡng đóng cửa phòng đọc và rút lui ra phía sau ngôi nhà, vài giờ tới, tôi sẽ tấn công các hộp đồ đóng gói ở đó với sự hăng hái phải khiến mẹ tôi tự hào. Sau cùng, công việc nặng nhọc cũng bỏ tôi lại với lớp bụi dày bao quanh, và ước ao – giống như chú chuột chũi trong câu chuyện thiếu nhi yêu thích của tôi – hít thở bầu không khí mát lành của mùa xuân.
Với tính bốc đồng của chú chuột chũi, tôi kéo rộng cánh cửa sau nhà và thơ thẩn bước ra ngoài, đón chào cơn gió nhẹ nô đùa trên làn da và thổi những lọn tóc lòa xòa trên vầng trán mướt mồ hôi của mình. Tôi chùi hai lòng bàn tay lên quần để lau phần cáu bẩn cứng đầu nhất, và đứng chống tay trong chốc lát, tận hưởng cảm giác tự do vô cùng xứng đáng.
Ánh mắt tôi lướt trên chồng đá ngổn ngang, nơi Iain Sumner đã từng đứng cái ngày tôi mua ngôi nhà, và tôi thích thú rẽ về hướng ấy.
Nó cách ngôi nhà khoảng hơn hai mươi bảy mét, ngay bên ngoài ranh giới đất nhà tôi, mặc dù không giống với một phần của hàng rào, nó cũng toát lên vẻ cân xứng để có thể trở thành một bức tường tự nhiên. Khi tiến lại gần hơn, tôi thấy những khối đá được xếp thành hình chữ L, mạn dài hơn của chữ L chạy song song với tường sau nhà tôi. Tại những vị trí đó, bức tường không thấp hơn chiều cao một mét sáu của tôi, và trong góc khuất của chữ L, ai đó đã cẩn thận xới đất để làm thành một khu vườn. Lớp đất đen được lên luống gọn gàng và mới bón phân, đã sẵn sàng để gieo trồng.
“Vậy là cô đã mua nó.”
Lần thứ hai tôi nhảy dựng lên và quay phắt lại, trước âm thanh từ giọng nói của Iain Sumner. Anh ta không phải người nhỏ bé gì cho cam và cái cách anh ta băng qua bãi cỏ mà tôi không hề hay biết thì thật sự quá kỳ quái. Nhanh chóng lấy lại bình tĩnh, tôi có thể chào đón anh ta bằng nụ cười rạng rỡ nhất của mình. Anh ta mặc một chiếc áo len xù xì màu nâu cùng chiếc quần lao động và đội một chiếc mũ nâu có vành lấm tấm bẩn. Anh ta kéo ngược chiếc mũ ra sau đầu và đôi mắt xám đáp lại nụ cười của tôi.
“Cô đã mua ngôi nhà”, anh ta lặp lại.
Đó là một lời tuyên bố, không phải câu hỏi, nhưng dù sao tôi vẫn trả lời. “Vâng.”
“Mấy tuần vừa rồi cô đã trở thành chủ đề bàn tán của cả dân làng, tôi tốt hơn hết nên cảnh báo cô, vì ông Ridley đã tiết lộ cô là họa sĩ đến từ Luân Đôn, nên tất cả mọi người đều rất tò mò. Nếu không có vài người bạn bất hảo và buông thả để mời xuống chơi cuối tuần, tốt nhất cô nên kết bạn ngay đi, không thì cả làng sẽ thất vọng mất.”
Tôi bật cười. “Tôi e họ sẽ thấy tôi vô cùng nhàm chán. Và tôi không có người bạn buông thả nào cả.”
“Không một người họ hàng bất hảo?”
“Tất cả đều đã chuyển đến New Zealand rồi. Giờ cha mẹ tôi cũng đang ở đó, thế nên thực tế trong tương lai gần chỉ có mỗi mình anh tôi có thể ghé qua thôi”, tôi giãi bày. “Và anh ấy là mục sư.”
“À. Thế”, anh ta chấp nhận thông tin một cách nhã nhặn, nghiêng đầu sang một bên. “Cô thấy khu vườn của tôi thế nào?”
“Rất đẹp”, tôi thành thật nói. “Hóa ra đây là đất của anh?”
“Không.” Anh ta lắc đầu. “Nó thuộc về một người bạn của tôi. Tôi chỉ giúp cậu ta thôi. Chỉ còn chút không gian cho vài loại hoa, không nhiều lắm.”
“Và bụi mâm xôi”, tôi thêm vào, nhớ về đôi tay của anh ta.
“Phải.” Anh ta nhe răng cười rầu rĩ. “Và bụi mâm xôi. Đồng hành với nghề làm vườn, thế đấy.”
Tôi vươn bàn tay chạm vào bức tượng đá, rất thích cảm giác bề mặt ram ráp ấm lên trong ánh mặt trời bên dưới những ngón tay.
“Trước đây nơi này là gì vậy?” Tôi hỏi anh ta.
“Từng là chuồng bồ câu, người ta kể với tôi thế, để nhốt những chú chim bồ câu. Giờ không còn lại nhiều lắm.”
“Nó lâu đời lắm phải không?”
“Cũng như ngôi nhà, tôi tin vậy. Có khi còn cổ hơn.”
“Vậy những người sống ở đây ban đầu là nông dân chăng?”
“Rất có thể là những người nông dân thuê đất.” Anh ta nhún vai. “Nơi cô đang đứng là đất thuộc trang viên, luôn luôn là vậy theo những gì tôi được biết.”
“Tôi có hứng thú với các ngôi nhà cổ”, tôi thú nhận, bàn tay vẫn lơ đãng vuốt ve phiến đá bạc màu, “nhất là ngôi nhà này. Tôi rất muốn được hiểu thêm về lịch sử của nó”.
“À”, anh ta đập hai tay vào nhau và nói, “vậy thì cô nói chuyện với nhầm người rôi. Tôi sống ở đây chưa được năm năm. Vivien mới là người cô nên trò chuyện”.
“Vivien?”
“Phải.” Đôi mắt anh ta dịu đi. “Vivien Well, ở quán Sư Tử Đỏ. Cô ấy là cuốn sách bách khoa toàn thư chính cống di động. Nếu như có điều gì cô ấy không biết, tức là điều ấy không đáng bận tâm.”
Tôi không thực sự lắng nghe, bởi khi ngẩng đầu lên thì toàn bộ chú ý của tôi đã bị một người cưỡi ngựa đơn độc xuất hiện từ xa ngay sau vai Iain Sumner nắm giữ. Người đó đang đứng dưới bóng một cây sồi, dõi theo chúng tôi. Chú ngựa có màu xám, to lớn và đầy sức mạnh, còn người cưỡi ngựa là một người đàn ông mặc quần áo màu đen, nhưng cách quá xa để tôi có thể nhìn thấy rõ ràng.
Iain Sumner nhíu mắt. “Có gì không ổn sao?”
“Gì cơ?” Tôi mang ánh mắt hối lỗi trở lại nhìn anh ta. “Xin lỗi. Không, tôi chỉ đang nhìn người đàn ông kia thôi.”
“Người đàn ông nào?”
“Người đàn ông trên lưng ngựa, đằng sau anh”, tôi vừa nói vừa chỉ.
Anh ta quay lại, nhưng bóng râm bên dưới cây sồi trống trải.
Tôi lắc đầu. “Anh ta đi mất rồi. Một người to lớn, cưỡi ngựa xám.”
“Có thể là Geoff”, Iain chậm rãi nói. “Đấy vẫn thuộc đất trang viên. Dù tôi không biết cậu ta có con ngựa xám nào trong chuồng ngựa không.”
“Không quan trọng đâu”, tôi bảo anh ta.
“Có lẽ không.” Anh ta mỉm cười. “Tôi tốt hơn hết không nên quấy rầy cô nữa. Tôi quay lại với cái mai của mình đây.”
Anh ta tìm được món dụng cụ bị bỏ quên trong góc tường và chúc tôi buổi chiều tốt lành, rồi kéo chiếc mũ sụp che đi đôi mắt và vừa sải bước xuống con đường vừa huýt sáo.
Sau khi nhìn quanh lần cuối, tôi trở lại ngôi nhà, nơi không còn khả năng nắm giữ nguồn nhiệt huyết trước đó nữa, tôi lờ quyết định ban đầu đi và lưu mình trong phòng đọc. Sau khi dỡ gần hai thùng sách, tôi tình cờ chạm phải bản in Đá Mặt Trăng quăn góc của Wilkie Collins. Qua nửa đêm, tôi cuối cùng mới lết được lên tầng để tắm rửa rồi rã rời ngủ thiếp đi, với bóng cây bạch dương vắt ngang giường ngủ như một người bảo vệ.