Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Mariana

Chương 3

Tác giả: Susanna Kearsley

Không khó khăn để xác định vị trí của Vivien Wells trong quầy bar của quán Sư Tử Đỏ chiều hôm sau. Đây chính là quán rượu Tommy và tôi đã dừng lại để hỏi đường nhiều năm trước. Những thanh rầm từ vương triều Tudor[1] cùng lớp vữa trát dưới mái lợp tranh mới trông sạch sẽ hơn những gì tôi còn nhớ. Bên trong, khu vực quầy bar chính có trần thấp hơn và có vẻ ấm cúng, có lẽ hơi cũ kỹ nhưng thoải mái, nền nhà cũ được phủ một tấm thảm mòn vẹt như hút hết âm thanh trò chuyện.

[1] Vương triều trị vị nước Anh từ năm 1485 đến 1603.

Trừ một nhóm vài người đàn ông luống tuổi tụ lại quanh một bàn trong góc, tôi là khách hàng duy nhất còn lại tận hưởng bầu không khí thân thiện của quán rượu vào giờ này trong ngày. Và trong hai người đứng quầy, chỉ có một người là phụ nữ.

Vivien Wells cao và trông rất khỏe mạnh, cũng trạc tuổi tôi, với mái tóc dài màu mật ong, đôi mắt xanh dương chân thành và nụ cười thoáng hiện lúm đồng tiền. Vừa nhìn, tôi đã thấy thích cô ấy rồi.

Cô ấy đẩy một ly Gin Tonic[2] qua quầy về phía tôi và chống hai khuỷu tay lên mặt gỗ sứt sẹo, nghiêng đầu đánh giá.

[2] Một loại cocktail.

“Iain nói cô rất đẹp”, cô ấy nhận xét không hề ác tâm, làm tôi ngượng ngùng trở mình trên ghế.

“Anh ấy bảo cô là một cuốn bách khoa toàn thư”, tôi mở lời khiến cô ấy bật cười thích thú.

“Vậy là ca ngợi rồi. Công cuộc thưởng thức Đàn Cừu Xám của cô thế nào rôi?”

Tôi nhướn mày. “Gì cơ?”

“Nhà của cô”, cô ấy nói thêm. “Đấy là tên của nó.”

“Tôi tưởng tên nó là Mạn Sông. Rõ ràng đấy là tên trên giấy tờ chuyển nhượng mà?”

“Đó là tên Eddie đặt”, cô ấy bảo tôi. “Người chủ sau cùng. Ông ấy nghĩ tên đó nghe hay hơn, mặc cho sự thật hiển nhiên là chúng tôi chẳng có mạn sông nào mấy dặm quanh đây cả. Nó đơn giản chỉ là Đàn Cừu Xám từ khi tôi lớn lên thôi, và tất cả mọi người vẫn gọi nó thế.”

“Đàn Cừu Xám.” Tôi cố thử cảm giác của cái tên trên đầu lưỡi. “Nghe cũng rất lãng mạn.”

“Thực sự không thú vị đâu.” Vivien Wells mỉm cười với tôi. “Đó chỉ là tên từ xưa của thứ đá người ta dùng để xây dựng ở đây thôi. Đá sa thạch. Cô biết đấy, giống như loại ở Stonechenge[3]. Từng có hàng trăm khối nằm nghiêng ngả khắp các cánh đồng và những người thợ xây chỉ cần lấy phiến đá họ muốn.”

[3] Công trình đá kỳ bí từ thời tiền sử của Anh, đến giờ vẫn còn là một thách thức với các nhà khoa học.

“Ồ.”

“Theo Iain kể thì cô đã để mắt đến nó từ trước rồi phải không?”

Tôi gật đầu, tự hỏi anh ta đã kể bao nhiêu phần câu chuyện ngu ngốc của tôi với cô ấy. Không nhiều lắm, tôi đánh cuộc, khi nhớ đến đôi mắt đá xám và điềm tĩnh đó. Với tôi, Iain Sumner không gây ấn tượng là kiểu người thích đưa chuyện.

“Tôi đã nhìn thấy nó vài năm trước, và bắt đầu phải lòng nó”, tôi giải thích. “Vận may kỳ diệu đã đến khi nó được rao bán. Và ở mức giá tôi có thể chi trả.” Gần chi trả được thôi, tôi tự sửa lại với bản thân, khi nghĩ về tài khoản tiết kiệm bị tước đoạt của mình.

“Ừm”, Vivien nhấc một chiếc ly lên và bắt đầu lau chùi thành thạo. “trong khu vực này, nhu cầu mua nhà không nhiều lắm. Chúng tôi chỉ có vài trang trại cùng nửa tá các cửa hàng – giờ hầu như chỉ toàn người nghỉ hưu sống ở đây. Tôi e cô sẽ thấy chúng tôi buồn tẻ chết người so với Luân Đôn”.

“Luân Đôn được đánh giá quá cao thôi”, tôi nói, nhưng tôi biết chắc Vivien Wells đã biết điều đó. “Hơn nữa, tôi cần một nơi yên tĩnh để tập trung làm việc.”

“Đương nhiên rồi.” Cô ấy nhấc một chiếc ly khác và tiếp tục lau chùi. “Cô là họa sĩ, đúng không? Cô vẽ tranh gì?”

“Màu nước”, tôi đáp. “Thực ra tôi vẽ tranh minh họa. Tôi vẽ cho các cuốn sách.”

“Thật sao? Có quyển nào tôi biết không?”

“Không, trừ khi cô đọc sách thiếu nhi. Tôi đã thực hiện bộ Llandrah với Bridget Cooper vài năm trước.”

“Là cô? Tôi có cô cháu gái sáu tuổi cực kỳ thích những câu chuyện đó. Chà, chà.” Vivien nhướn cả hàng lông mày vì bị ấn tượng. “Cô không ngại nếu tôi lan rộng tin này chứ? Nó sẽ khiến người làng an tâm đôi chút. Họ lo cô có thể là một nhà điêu khắc trường phái đương đại. Cô biết đấy, những tảng đá lớn cùng kim loại méo mó, đại loại thế.”

Tôi mỉm cười lắc đầu. “Không, tôi không ngại đâu.”

“Tôi không nghĩ họ sẽ… Đợi đã, cô thứ lỗi cho tôi một chút nhé?”

Những tiếng gọi từ nhóm người sôi nổi tại chiếc bàn trong góc thu hút sự chú ý của Vivien, trong khi cô ấy tham gia với họ, tôi uống một ngụm Gin Tonic nữa và hơi xoay người sang một vị trí khác thoải mái hơn trên chiếc ghế bằng gỗ cứng.

Tôi không ngủ ngon đêm hôm trước. Trong khi cơ thể mệt mỏi rã rời, đôi tai tôi vẫn tiếp tục tỉnh táo và nhạy cảm với từng âm thanh bất thường trong căn nhà trống vắng: từng tiếng kẽo kẹt của chiếc cầu thang lên gác mái cạnh phòng ngủ, từng giọt nước nhỏ tí tách trong phòng tắm, từng chuyển động của nhánh cây quét qua mái ngói trên không. Tôi cứ thế chập chờn ngủ, và tỉnh giấc vì cần cà phê sáng hơn lúc thường.

Dù sao tôi đã cố gắng mở hầu hết những chiếc thùng trong phòng đọc trước khi được nghỉ ngơi và đi bộ một đoạn vào thị trấn.

Quán Sư Tử Đỏ nằm trên con đường Thượng của Exbury cùng một ít các cửa hàng và văn phòng, một dãy các ngôi nhà nông thôn sau thời chiến, một vài ngôi nhà cổ lui về phía sau con đường và được che chắn khỏi những con mắt tò mò nhờ bức tường đá thấp cùng cánh cổng sắt chạm trổ hoa văn. Bản thân con đường đã được lát cẩn thận, nhưng ở phần phía tây của nó, lối đi bộ cũ kỹ rải sỏi hầu như không được đụng đến, thêm vào sự quyến rũ riêng biệt cho ngôi làng. Tôi thích thú chú ý, còn có một cánh cổng gỗ theo kiểu cổ, cùng những băng ghế dài và mái che, phải thừa nhận rằng chính chúng đã khiến tôi để ý đến nhà thờ nơi có một gác chuông khó lòng trông thấy từ bên dưới tấm bình phong của hàng cây đang đâm chồi nảy lộc.

Tôi lười nhác tự hỏi không biết nhà thờ này bao nhiêu tuổi, và hẳn đã nói to câu hỏi đó, bởi Vivien Wells đã trả lời tôi, khi trở vể vị trí của mình sau quầy bar. “Thực ra nhiều phần của nó do người Saxon xây dựng, dù đến thế kỉ XV nó mới được hoàn thiện.” Cô ấy ném ánh mắt thân thiện về phía chiếc ly của tôi. “Cô có muốn thêm ly nữa không?”

“Chỉ thêm một chút thôi”, tôi thú nhận, đẩy chiếc ly về phía Vivien. “Cô thực sự là nhà sử học địa phương đấy.”

Vivien mỉm cười. “Tôi rất thích môn lịch sử”, cô ấy nói, “và tôi cũng có một người bà ưa nói chuyện nữa. Iain bảo cô đang tìm kiếm thông tin về ngôi nhà, phải vậy không? Tôi e mình cũng không biết nhiều về nó đâu. Dì tôi chắc chắn sẽ biết nhiều hơn. Theo những gì tôi nhớ thì nhà Randall đã sống ở đó từ rất lâu rôi, và họ không phải những người lý thú cho lắm. Dù vậy, tôi có thể tìm hiểu vài thứ cho cô. Bởi thực tế…”.

Cô ấy quay sang nhìn người đồng nghiệp đang ngồi ườn ở tít cuối quầy đọc một tờ báo hằng ngày và hút một điếu thuốc lá.

“Ned ơi”, cô ấy gọi anh ta, “cha anh đã từng làm việc ở Đàn Cừu Xám khi ông Randall làm chủ, phải không?”

Ned ngước mắt khỏi tờ báo, thoáng nhìn về phía chúng tôi và mỉm cười với Vivien, rồi gọi qua vai, “Cha ơi”.

Một trong số những người đàn ông lớn tuổi ngồi ở chiếc bàn trong góc ngẩng đầu đáp lại. “ Sao?”

“Viv có chuyện muốn hỏi”.

Cha của Ned chống người rồi lảo đảo tiến về quầy bar. Người đàn ông giới thiệu với tôi tên là Jerry Walsh, thợ hàn về hưu. Phải, ông nói với Vivien, ông từng làm vài việc cho ông già Bill Randall.

“Ông ta muốn sửa phòng tắm cho hiện đại hơn”, ông nói. “Thay mới toàn bộ ống nước và tất cả những thứ khác. Cô sẽ không bao giờ cần lo về đám ống nước đâu, cô gái ạ”, ông tự hào thêm vào khi vỗ ngực. “Ta mà đã làm thì đâu ra đây. Chứ không như đám nhóc bây giờ.”

Tôi chọn cách không đề cập đến vòi nước nhỏ giọt cũng như lớp nước màu nâu tồi tệ xối ra lần đầu tiên khi vặn vòi. “Bác không nhớ nhà Randall đã mua ngôi nhà từ ai sao, Jerry?” Vivien hỏi.

Ông nhíu mày. “Tôi không chắc… họ đã mua nó ngay sau cuộc chiến Thế giới lần thứ nhất, tôi nghĩ vậy. Trước đó có vẻ một tay quân nhân đã sở hữu nó. Anh Art nhà tôi có khi sẽ nhớ đấy… Arthur à!” Ông gọi một người đàn ông khác đang ngồi ở chiếc bàn trong góc.

Trong vòng mười phút, tôi bị vây quanh bởi tất thảy bảy người, bị áp đảo trong sự thân thiện và háo hức muốn giúp đỡ của họ. Lần ngược về trước, với một loạt các tranh luận, họ xác định Eddie Randall đã thừa kế ngôi nhà từ người cha tên William của ông ấy vào đâu thập niên năm mươi. William đã mua ngôi nhà vào năm 1921 từ một đại úy nào đó, nghe đồn ông ta có hai cô con gái vô cùng xinh đẹp. Ngoài những điều đó ra, không ai hoàn toàn dám chắc, dù cố gắng mấy họ cũng không thể nhớ thêm bất cứ tình tiết thú vị nào về lịch sử ngôi nhà của tôi.

“Ngoại trừ hồn ma”, một người đàn ông đánh bạo phát biểu.

“Hồn ma ạ?” Tôi lặp lại theo.

Vivien mỉm cười. “Tôi quên mất đấy”, cô nói.

“Nhiều năm rồi người ta không trông thấy cô ấy”, Jerry Walsh đảm bảo với tôi.

“Đúng rồi, giờ cũng phải ba mươi năm còn gì”, anh trai của ông chen ngang. “Thiếu Phụ Xanh phải không?” Những người khác gật đầu và ông tiếp tục. “Tôi chưa nhìn thấy cô ấy bao giờ, nhưng rất nhiều người đã thấy rồi. Chỉ là một cô gái trẻ, mặc chiêc váy màu xanh lá cây. Thường xuất hiện trong khu vườn lúc trời nhá nhem.”

“Tôi đã thấy cô ấy một lần”, một người đàn ông lần đầu tiên đột ngột lên tiếng. “Làm tôi sợ chết khiếp. Cô ấy chỉ đứng đó, nhìn xuyên qua tôi với đôi mắt u hoài…”

“Không phải hồn ma gây hại”, Jerry Walsh ngắt lời, hướng ánh mắt trách cứ về phía người đàn ông nhỏ bé. “Cô ấy chẳng làm hại ai cả. Chỉ đôi khi đứng trong vườn thôi.”

Thế là ngay cả những hồn ma ở Đàn Cừu Xám cũng buồn tẻ, tôi tự nhủ. Không có tiếng xích va loảng xoảng, không có những tiếng rú tang tóc giữa đêm…

“Không giống mấy hồn ma trên lâu đài, mấy ông nhỉ?” Nụ cười toe toét của Arthur Walsh khoe cả hàng răng đen xỉn vì nicotine. “Giờ thì có rất nhiều nhân vật sống động cho cô rồi nhé. Tôi chưa bao giờ thực sự nhìn thấy hồn ma nào trong số họ, nhưng nghe người ta nói…”

“Thôi đủ rồi”, Vivien chặn ngang, giọng nói hiền hòa. “Các bác đang thảy ác mộng cho cô gái này đấy.”

“Ôi, không sao đâu ạ.” Tôi mỉm cười. “Cháu rất thích nghe chuyện ma. Lâu đài ở đâu thế ạ?”

Một trong số những người đàn ông chĩa ngón cái qua vai. “Lâu đài Crofton”, ông ta nói. “Tòa trang viên cổ đấy ở ngay mặt bên kia của nhà thờ. Cô chưa lên đó bao giờ à?”

Tôi phải thừa nhận mình chưa đánh bạo đi đâu xa hơn khu văn phòng đại lý nhà đất, nằm ngay phía đối diện của quán Sư Tử Đỏ trên đường Thượng. Vài hàng lông mày nhướn cao giữa một dàn hợp xướng la hét không tin.

“Cô phải thăm thú lâu đài…”

“…được đề cập trong ba cuốn sách hướng dẫn du lịch, nó…”

“…chắc chắn cậu chàng Geoff sẽ vui vẻ dẫn cô đi một vòng. Dù sao thì đa phần lâu đài đều mở cửa cho khách tham quan. Cậu ta chỉ giữ riêng mạn phía nam để sử dụng thôi.”

Tôi đầu hàng trước những lời phản đối. “Vậy cháu sẽ làm một chuyến thăm thú, khi sắp xếp xong đồ đạc trong nhà.”

Được xoa dịu phần nào, những người đàn ông bắt đầu chuyện trò sôi nổi liên quan đến chủ đề chuyển nhà, điều tôi hứng thú cao độ mặc cho sự thật tôi hầu như không góp nổi một từ.

Vào bốn giờ kém mười, tất cả bảy người bọn họ đồng loạt đứng dậy, lịch sự chúc tôi một ngày tốt lành và nối đuôi nhau ra khỏi cửa. Vivien Wells mỉm cười đón ánh mắt thắc mắc của tôi.

“Giờ uống trà”, cô giải thích. “Thời điểm họ cập nhật những tin đồn từ các bà vợ. Dù hôm nay tôi nghĩ những người đàn ông sẽ nói nhiều hơn.”

“Ý cô là gì?”

“Ý tôi là họ sẽ kể chuyện về cô.” Cô ấy cười toe toét. “Cô sẽ có rất nhiều điều phải học về cuộc sống ở làng quê, cô biết đấy. Chuyện hắt hơi một cái ở đây mà hàng xóm không nhảy ra nói một câu ‘Chúa phù hộ’ khó xảy ra lắm.”

“Tôi đảm bảo sẽ thích nghi được thôi.”

Cô ấy gật đầu. “Tôi không nghi ngờ điều ấy. Thực tế, cô có vẻ đã gặt hái tương dối thành công trong ngày hôm nay. Cô cứ đợi mà xem – ngày mai thôi, cô sẽ có cả hàng dài các vị khách ghé thăm ngôi nhà, với các đĩa bánh ngọt và chậu hoa phong lữ, đến để xem cô thu xếp ra sao.”

“Tôi sẽ lau chùi bộ ấm pha trà bằng bạc”. tôi hứa. “Thực tế, tôi có thể nhờ vả luôn các vị khách vào ngày mai. Tôi đang có kế hoạch xoay vài món đồ trong phòng khác, và rất có thể sẽ có thêm vài đôi tay giúp đỡ nữa.”

Vivien bật cười. “Cô cần giúp đỡ thật ấy hả?” Cô ấy hỏi. “Bởi tôi chắc chắn Iain sẽ vui vẻ giúp một tay.”

“Trời ơi, không”, tôi nói, giơ tay lên phản đối. “Tôi chỉ nói đùa thôi.” Một ý nghĩ đột nhiên nảy đến. “Dù sao thì công việc của Iain Sumner là gì vậy? Anh ấy có phải thợ làm vườn không?”

“Nông dân”, cô ấy sửa lại. “Anh ấy nuôi cừu. Có cả một vườn táo nhỏ nữa, nhưng phần lớn là do sở thích.”

“Ồ”, tôi thốt lên.

“Đương nhiên anh ấy rất có khiếu với những khu vườn”, cô ấy tiếp tục. “Anh ấy tốn rất nhiều thời gian để giúp Geoff cải tạo khu vườn ở lâu đài đón khách tham quan, trước khi nó được mở cửa, cha Geoff đã để nơi đó xuống cấp một chút, mặt đất là một đống hỗn độn kinh khủng. Giờ nó đã có một người làm vườn toàn thời gian rồi. Khu vườn hoa hồng đáng yêu của họ – cô thực sự phải đến thăm nó vào mùa hè.”

“Chắc rồi”, tôi nói. “Sau cùng, chúng tôi là hàng xóm, không phải sao? Nhà của tôi ngay đằng sau đất trang viên, theo những gì tôi nghe nói.”

“Đúng vậy. Cô sẽ thích Geoff. Anh ấy là quý tộc chính cống đấy – gia đình anh ây đến đây cùng Quân Xâm Chiếm[4] – nhưng anh ấy là người thực tế và vui tính cực kỳ. Nhân tiện nhắc đến, anh ấy có thể kể cho cô nghe điều gì đó về Đàn Cừu Xám. Anh ấy quần thảo rất nhiều sách về lịch sử địa phương khi viết cuốn sách hướng dẫn du lịch cho lâu đài Crofton.” Vivien quay đi để rót cho mình một tách cà phê từ chiếc bình trông như bình chứa thuốc độc nơi cuối quầy bar. “Tiếc là giờ anh ấy đang đi nghỉ ở Pháp, nhưng khi anh ấy quay lại, chắc chắn tôi sẽ giới thiệu với cô. Trong lúc ấy”, cô ấy vừa nói thêm vừa khuấy tách cà phê, “tôi sẽ xem xem có thể tự tìm thấy gì ở chỗ dì tôi và ở dân làng không”.

[4] Chỉ đội quân Norman xâm chiếm nước Anh năm 1066.

“Cảm ơn cô, tôi biết ơn cô nhiều lắm. Đồ uống của tôi hết bao nhiêu vậy?”

“Không mất tiền.” Cô ấy phẩy tiền của tôi sang một bên và lắc mái đầu màu mật ong. “Miễn phí. Coi như cách chào mừng đến Exbury của tôi đi, nếu cô thích.”

“Nhưng rõ ràng… ý tôi là, cô thật tốt bụng, nhưng…” Tôi thoáng nhìn về phía quầy bar, nơi Ned vẫn cắm cúi vào tờ báo, và Vivien tinh ý nhìn theo ánh mắt tôi.

“Ồ, Ned không phải kiểu người chuyên đi thưa chuyện với ông chủ đâu”, cô ấy quả quyết. “Giả như ông ta có ở đây cũng chả thu được lợi lộc gì cả, vì tôi là sếp.”

Tôi lắp bắp nhanh một câu xin lỗi và đỏ lựng cả mặt. Vivien hòa nhã lờ đi sự xấu hổ của tôi.

“Điện thoại của cô đã được kết nối chưa? Tốt. Số bao nhiêu?”

Tôi nói và cô ấy ghi nhanh lại. “Được rồi”, cô ấy nói. “Tôi sẽ gọi cho cô nếu tìm thấy có gì thú vị. Đây.” Vivien đẩy cho tôi một hộp diêm. “Số của tôi ở mặt sau, nếu cô cần gì. Hoặc cô có thể chỉ cần ghé qua, bất cứ khi nào cảm thấy chán việc dỡ đồ. Chiều nào tôi cũng có thời gian tán gẫu.” Cô ấy nhìn thẳng vào mắt tôi và thoáng nở nụ cười chân thật.

“Tôi rất vui khi cô chuyển đến sống ở đây”, cô ấy nói đơn giản.

Tôi cười đáp lại, trong lòng cảm thấy ấm áp đến lạ.

“Tôi cũng vậy”, tôi nói với theo.

Nụ cười vẫn lưu lại trên môi khi tôi đi bộ về nhà, tận hưởng cảm giác trong lành, đầy sức sống của ngọn gió cuối tháng Tư và sự yên lặng tuyệt vời của con đường không người qua lại. Ngôi nhà đứng đó đón tôi về, trông đã ít lôi thôi đi một chút dưới đôi mắt chênh chếch của tôi.

“Xin chào, Đàn Cừu Xám”, tôi chào nó, khi leo lên lối lái xe vào nhà. Ít nhất tôi cũng biết được cái tên chính xác của nó. Và một hồn ma. Những người đàn ông ở Sư Tử Đỏ gọi cô ấy là gì nhỉ? Thiếu Phụ Xanh. Ở đâu đó trong khu vườn.

Vấn đề là, tôi tự hỏi không rõ khu vườn trước đây nằm ở chỗ nào? Chắc chắn giờ không còn bất cứ dấu vết gì của nó, ít nhất cũng không ở phía trước nhà. Tò mò, tôi đi vòng ra sau và ngó thử.

Không phải chỗ chuồng bồ câu, tôi khẳng định. Khu vườn còn mới. Có khi nào gần nhà bếp, dọc theo lối lái xe không? Mặt đất ở đó tất nhiên trông phẳng hơn, nhưng…

Không. Không phải ở đó. Tôi dồn chú ý sang phía kia của khoảng sân. Ở đó, tôi tin chắc. Người ta thậm chí có thể nhìn thấy mặt đất hơi gồ lên, nơi các thảm hoa được vun xới bởi những bàn tay thương yêu. Tôi băng qua sân và hân hoan đứng trên chỗ đó.

Mặt trời hạ xuống thấp hơn trên bầu trời và ngọn gió quét ngang qua tôi lạnh đến rùng mình. Rúc sâu hơn vào chiếc áo len, tôi ôm lấy người giữ hơi ấm, quay sang phía hàng cây ở phía xa.

Người đàn ông cưỡi con ngựa xám đứng đó, nương mình dưới tán sồi, quan sát tôi.

Tôi bướng bỉnh vênh cằm. Tôi thề rằng anh ta đã mỉm cười, dù tôi đứng cách quá xa để có thể nhìn rõ mặt anh ta, chứ chưa nói đến chuyện phán đoán biểu cảm. Sau một lúc lâu, anh ta thúc ngựa quay lại và hướng thẳng về lâu đài Crofton, dáng hình sẫm tối của anh ta bị nuốt dần vào bóng râm của những cây cổ thụ.

Quên biến Thiếu Phụ Xanh, tôi bước chân vào nhà, chăm chút đặc biệt cho cái then cửa đằng sau lưng.

Bình luận