Quán Sư Tử Đỏ là nơi bận rộn nhất tôi từng thấy, vài chiếc bàn đầy ắp khách quen vào chiều thứ Bảy, phải mất một lúc lâu trước khi Vivien có thể quay trở lại quầy bar để phục vụ chúng tôi. Ngay cả Ned cũng phải ra tay hành động, anh ta đã thong thả đi về phía chúng tôi ít nhất hai lần để mang những đĩa sandwich và khoai tây chiên từ nhà bếp phía sau.
“Được rồi.” Vivien quăng người lên chỗ ngồi sau quầy, mái tóc vàng xõa tung quanh gương mặt ửng hồng. “Để em trình bày lại nhé.” Cô nhìn về phía Geoff. “Hôm nay anh đã đưa Julia đi tham quan lâu đài.”
Geoff gật đầu.
“Và để trả công cho đặc ân to lớn này” Vivien tiếp tục, “Julia đã đồng ý để anh mời cô ấy uống một ly”.
“Chính xác.”
“Thỏa thuận này nghe có vẻ không công bằng mấy, cô bạn”, cô ấy nói với tôi. “Tôi có thể lấy gì cho cô nào?”
“Làm ơn cho tôi một ly Gin Tonic.” Tôi mỉm cười đáp lại.
Cách hai chiếc ghế, bên cạnh Geoff, Iain Sumner đang nhoài người về phía trước với cái nhíu mày chê trách.
“Cô vừa gọi đó là loại đồ uống gì vậy?” Anh ta hỏi tôi, bàn tay anh ta đang nắm một vại bia đen ướp lạnh.
“Cứ lờ anh ấy đi”, Vivien mách. “Anh ấy đang khó ở.”
Iain nhướng một bên lông mày. “Không hề nhé.”
“Cô thấy ý tôi là gì rồi đấy.” Vivien nháy mắt, trượt ly rượu qua quầy về phía tôi.
Geoff quay sang nhìn anh bạn.
“Hôm nay cậu có vẻ hơi tiêu cực đấy, Iain. Mọi chuyện vẫn ổn chứ?”
“Mọi việc đều ổn chết đi được”, Iain vặn vẹo, “và tâm trạng của tôi cũng tuyệt chết đi được đây này, cảm ơn”. Anh ta rút một điếu từ gói thuốc trước mặt và châm lửa, chiếc hàm góc cạnh bạnh ra đầy thách thức.
Geoff và Vivien trao nhau những ánh nhìn ẩn ý. Vivien hướng sự chú ý trở về phía tôi, chống hai khuỷu lên quầy và chúi về trước để chuyển phần nào sức nặng khỏi đôi chân mệt mỏi của mình.
“Vậy”, cô ấy rạng rỡ nói, “cô thấy chuyến tham quan thế nào?”.
“Đáng yêu lắm”, tôi nói. “Ai đó đã hoàn thành một cách tuyệt vời công việc phục chế các căn phòng cũ – giống như là được đối diện với quá khứ vậy.”
“Khá đúng theo nghĩa đen”, Geoff xen vào. “Julia đã có một cuộc chạm trán với hồn ma của chúng tôi trong căn phòng Kỵ sĩ.”
Ánh mắt Vivien ánh lên sự thích thú. “Thật vậy sao? Cảm giác của cô thế nào?”
“Choáng váng”, tôi đáp khi nghĩ lại, “đau đớn và… một loại khẩn nài gì đó, nếu nó có ý nghĩa gì đó”.
“Chính xác là thế.” Vivien gật đầu. “Nó thực sự là cái gì đó, phải không? Cũng khá sởn tóc gáy, nhưng tất thảy đều thú vị.”
Iain lại nhoài người về trước, găm vào tôi ánh mắt tò mò. “Vậy là cô tin vào sự tồn tại của chúng. Ý tôi là những hồn ma ấy.”
“Vâng”, tôi kiên quyết, nâng cằm cao hơn một chút. “Tôi nghĩ dứt khoát có những điều trên thế giới này chúng ta không thể giải thích bằng khoa học – dù sao đi nữa thì vẫn chưa thể giải thích – nhưng không có nghĩa sẽ khiến chúng bớt xác thực hơn. Hamlet đã nói rồi đấy thôi.”
“Còn nhiều thứ trên thiên đường và hạ giới nữa, Horatio ạ?” Anh ta trích dẫn. “Phải rồi. Hamlet lúc nào cũng hơi khác người mà.”
“Cậu không nghĩ những điều như thế tồn tại sao?” Geoff hỏi.
“Thôi xin.” Đôi mắt xám của Iain ánh lên nét cười cợt chế giễu. “Sau cùng, tôi là người Scotland. Cậu không thể đi bộ cả nửa dặm ở Scotland mà không giẫm lên vạt áo choàng của một hay hai hồn ma được. Nhưng tôi vẫn chưa gặp hồn ma nào ở lâu đài.”
“Anh cần nói chuyện với dì Freda”, Vivien khuyên anh ta. “Dì lúc nào cũng nhìn thấy chúng. Dì thậm chí còn bảo đã thấy người phụ nữ trong căn phòng Kỵ sĩ rồi kìa.”
“Dì Freda nhà em lúc nào cũng thấy rất nhiều thứ”, Iain đáp, rít một hơi thuốc lá. “Nếu là năm trăm năm trước họ đã lập dàn hỏa thiêu bà ấy.”
Vivien nhoài người qua quầy bar và vui vẻ đập lên tay áo anh ta. “Nói thế là kinh khủng lắm đấy”, cô trách mắng. “Anh nên giữ mồm giữ miệng đi, không em sẽ mách dì!”
“Không cần đâu.” Iain nhún vai. “Bà ấy thừa biết điều anh nghĩ. Bên cạnh đó, anh chưa bao giờ bảo có gì sai khi trở thành một phù thủy…”
Geoff bật cười. “Bà ấy khá đặc biệt”, anh đồng ý. “Em phải thừa nhận, Viv à, người có năng lực bắt anh phải ngăn nắp thì chắc chắn là có một loại sức mạnh siêu nhiên nào đó rồi…”
“Ôi, cứ tiếp tục đi!” Vivien xua cả hai bọn họ với cái phẩy tay. Quay sang phía tôi, cô ấy hỏi, “Cô đã gặp dì Freda chưa?”.
Tôi đang hoàn toàn mờ mịt, cho đến khi Geoff nhảy vào trả lời hộ. “Rồi, thực tế là cô ấy đã gặp dì ấy hôm nay. Freda là quản gia nhà tôi”, anh giải thích.
“Ồ.” Tôi nghĩ ra sau một thoáng. “Ý anh là bà Hutherson phải không? Phải, tôi gặp bác ấy rồi. Phải nói là hai lần. Khoảng hai tuần trước, bác ấy đến thăm nhà tôi cùng mọi người trong làng. Mang cho tôi một ít bánh nướng dòn nữa. Bác ấy có vẻ rất tốt bụng.”
“Đấy, hai người thấy chưa?” Vivien thách thức những người đàn ông. “Julia nghĩ dì ấy tốt kia kìa.”
“Đương nhiên là bà ấy tốt rồi”, Iain bắn trả.
“Một phù thủy tốt bụng”, Geoff thừa nhận, không mấy thành công lắm trong việc cố tỏ ra nghiêm túc.
Tôi lờ cả hai bọn họ đi. “Vậy là bác ấy đã nhìn thấy hồn ma trong căn phòng trên tầng phải không?”
“Ừ”, Vivien nói. “Vài năm trước, vào lần đầu tiên dì đến làm việc ở tòa trang viên. Dường như đó là một người phụ nữ trẻ, giống như tất cả mọi người đều nghĩ. Một người phụ nữ trẻ rất xinh đẹp, dì Freda đã nói vậy, với mái tóc dài màu vàng.”
“Cô ấy không mặc váy màu xanh đấy chứ?” Tôi cố gắng biến câu hỏi như một lời nói đùa.
“Không, tôi không nghĩ thế. Tôi khá chắc dì nói chiếc váy cô ấy mặc màu đen. Nhưng rồi dì vẫn bảo phần lớn các hồn ma trông đều xám nhợt và không rõ ràng.”
Geoff mỉm cười nhìn xuống tôi. “Cô nghĩ Thiếu Phụ Xanh nhà cô đang náu mình trong phòng ngủ nhà tôi đấy à?” Anh hỏi.
“Một chỗ trốn quá buồn chán”, Vivien trêu.
Ngay cả Iain cũng phải mỉm cười trước câu nói đó, tâm trạng của anh ta đang dần cải thiện. Anh ta châm điếu thuốc thứ hai và dựa lưng trên ghế ngồi.
“Nói đến Thiếu Phụ Xanh”, anh ta nói với tôi, “tôi rất vui được mang diện mạo khu vườn cũ trở lại cho cô, nếu cô muốn”
“Ôi, không, cảm ơn anh.” Tôi giơ một bàn tay khẩn cầu lên. “Tôi không thể giữ khu vườn sống sót được. Chỉ nhìn thôi là tôi đã giết hết đám cây rồi.”
“Julia nghĩ cậu nên làm gì đó với khoảng sân bên trong lâu đài”, Geoff nói. “Cô ấy khá ngạc nhiên khi thấy cậu chẳng trồng gì ở đó cả.”
“Hả, ý cậu là cái hầm mộ đó á?” Iain nheo mắt trầm ngâm. “Bây giờ tôi còn đang phải đi vòng qua nó đây này”, anh ta nói. “Cậu có bao giờ biết đâu.”
“Khi nào anh có thời gian cho nó thì nhớ cho em biết nhé?” Vivien nhìn anh ta bao dung. “Với em, có vẻ anh đã có đủ công việc cần giải quyết rồi.”
“Làm vườn không phải công việc”, Iain sửa lại. “Nó là giải trí. Và em lúc nào cũng bảo anh nên dành nhiều thời gian cho nó.”
“Và ít thời gian hơn cho những cái này.” Cô hất đầu về phía điếu thuốc của anh ta. “Mà anh có bao giờ chịu nghe em đâu.”
Geoff xông đến cứu nguy cho bạn bằng cách thay đổi chủ đề. “Tôi nghe nói tuần sau có một bất động sản lớn đang rao bán gần Calne. Là nơi ở của ngài Ashburn, tôi tin là thế. Có ai muốn đi một chuyến xuống dưới đó không?”
“Họ có bán đấu giá cuốn sách nào không?” Tôi hỏi.
“Có lẽ chỉ vài trăm cuốn thôi.”
Tôi mỉm cười. “Vậy anh có thể tính tôi vào trong danh sách.”
“Tuyệt. Còn Vivien?”
“Em thích lắm”, Vivien nói, “nhưng họ bán đấu giá vào thứ Bảy và em đã hứa sẽ cho Ned nghỉ hôm đó để đi xem con trai anh ấy chơi bóng bầu dục rồi”.
Tôi không chắc còn điều gì có thể khiến mình ngạc nhiên hơn – khám phá anh chàng Ned đã kết hôn, hay biết con trai anh ấy có nhiều năng lượng để chơi thể thao đến thế.
“Tệ quá.” Geoff nhìn Iain. “Cậu thì sao?”
“Không thể”, đó là lời đáp của anh chàng Scotland. “Những người xén lông sẽ đến vào thứ Bảy.”
“Những người xén lông?” Tôi hỏi.
“Ừ. Cho đàn cừu. Họ phải đi khắp các trang trại trong hạt, nên lịch trình của họ kín lắm.”
“Hóa ra anh không tự xén lông cừu à?”
“Lạy Chúa, không.” Anh ta mỉm cười. “Tôi không biết xén – tôi mà mó tay thì đàn cừu sẽ trông khủng khiếp lắm. Những người đến xén lông đến từ phía bắc. Các chàng trai trẻ. Chuyên nghiệp. Trong một buổi chiều là họ xong việc.”
“Nên hôm thứ Bảy cậu cũng vắng mặt”, Geoff kết luận. Tôi giật nảy mình vì anh trông không có vẻ phiền muộn vì tin tức ấy. “Hừm”, anh nói, “thật đáng tiếc. Tôi nghĩ, vậy chỉ còn mình Julia với tôi rồi”.
“Phải.” Iain cho tôi ánh nhìn như của một người anh trai đang lo cho cô em gái. “Cô nên coi chừng cậu ta, Julia”, anh ta bảo tôi. “Cậu ta có thể trông vô hại, nhưng không tin được vẻ ngoài đâu.”
Geoff nhe răng cười, “Thế là vu khống đấy nhé. Cậu lúc nào chẳng biết tôi luôn cư xử như một quý ông hoàn hảo.”
“Thôi được rồi, ngài Galahad[1]”, Iain lạnh nhạt nói. “Cậu nghĩ mình có thể bớt chút thời gian để giúp tôi sửa hàng rào cuối mạn phía tây của vườn cây ăn quả, như cậu đã hứa không?”
[1] Một trong các kỵ sĩ bàn tròn của vua Arthur, cũng là người đã tìm ra Chén Thánh.
“Khỉ thật, tôi quên tiệt mất đấy. Tôi nghĩ là mình đã hứa rồi mà, phải vậy không?”
“Ừ. Và đàn cừu sẽ sổng ra hết và chạy được nửa đường đến Beckhampton nếu đến chập tối tôi không sửa xong.” Anh ta hất đầu về phía vại bia của Geoff, cố gắng không mỉm cười trước vẻ mặt tiu nghỉu của bạn. “Uống hết đi”, anh ta nghiêm nghị khuyên.
Geoff uống nốt vại bia và đứng dậy, vươn thẳng thân hình khoảng một mét tám của mình. “Các quý cô”, anh nói một cách phô trương, “tôi phải bỏ lại các quý cô rồi”. Quay sang tôi, anh thêm vào, “Cảm ơn vì đã bầu bạn với tôi hôm nay”.
“Cảm ơn vì chuyến tham quan.” Tôi mỉm cười. “Tôi thích lắm.”
“Không có gì.” Sự ấm áp trong ánh nhìn của anh dường như có thể chạm tay vào được. “Lúc nào đó, trong tuần này tôi sẽ gọi điện cho cô và chúng ta sẽ sắp xếp cho chuyến đi thứ Bảy tới, được chứ?”
“Được.”
“Ừm”, Vivien nói, thở một hơi thư thái khi người đàn ông rời đi. “Ít nhất anh ấy cũng cười lúc đi. Ý tôi là Iain ấy. Thành thật mà nói”, cô bảo tôi, “anh ấy và tâm trạng của anh ấy. Anh ấy ngồi trên chiếc ghế đó đến nửa buổi chiều, cứ uống bia, hút thuốc và trông rầu rĩ hơn cả quỷ. Tôi đang hy vọng Geoff sẽ đến để giải thoát anh ấy khỏi tình trạng đó”.
“Họ là bạn tốt của nhau, phải không?” Tôi lơ đãng hỏi và suy nghĩ, thật lạ lùng, không phải về Geoff và Iain, mà về người đàn ông tóc đen cưỡi con ngựa xám, dõi theo một người đàn ông khác đang sải bước qua cánh đồng với những bước chân dễ dàng, đang vác trên vai một chiếc rương nặng như thể món đồ chơi trẻ con.
Đó là Evan Gilroy, tôi nghe giọng nói rõ ràng của Rachel vọng bên tai. Anh ấy sống ở trang viên…
“Họ là bạn thân”, Vivien trả lời, giọng dứt khoát. “Cô thể nào cũng nghĩ họ đã biết nhau cả đời, nếu nghe họ nói chuyện.”
Tôi nhíu mày một chút, dùng ngón tay vẽ lên một hình thù từ hơi lạnh thoát ra hai bên cạnh ly của mình. “Dì Freda nhà cô”, tôi nói, chọn từ ngữ một cách cẩn thận. “Tại sao Geoff và Iain lại gọi bà ấy… ý tôi là, tại sao cả hai đều nghĩ bà ấy là…”
“Một phù thủy.” Vivien kết thúc hộ tôi, miệng nhoẻn cười. “Tôi không biết. Sau cùng thì cũng có thể lắm chứ. Bà luôn sở hữu những vật dụng của một bà đồng. Luôn biết khi nào tôi rơi khỏi cây, hoặc khi nào tôi làm điều gì không được phép. Không hiểu sao bà dường như luôn biết mọi thứ. Bên cạnh đó thì”, cô lại dựa lên quầy bar, nghiêng mái đầu sang một bên, “bà chỉ là một phụ nữ đặc biệt. Phàm tục, nếu cô hiểu ý tôi là gì. Bà có thể chữa lành vết thương cho các con thú, huýt sáo với những con chim và…”. Một lần nữa nụ cười lại hiện lên, “trong vườn của bà, bà trồng được những củ khoai tây to hơn bất cứ ai khác ở làng. Đấy là tất cả những gì tôi biết, tất cả những phép màu. Cô có muốn nữa không?”.
Tôi ngây ra nhìn chiếc ly và lắc đầu.
“Thôi, cảm ơn. Tôi có khi nên về nhà. Tôi còn phải hoàn thành vài bản vẽ phác thảo. Chủ biên của tôi sẽ ngất xỉu mất nếu trong tuần này tôi không gửi cho cô ấy chút gì để chứng minh mình vẫn đang làm việc chăm chỉ. Cuộc sống ở vùng quê”, tôi thừa nhận khi vươn hai vai, “đang rút đi tất cả năng lượng của tôi”.
“Như tôi đã bảo cô đấy.” Cô gật đầu. “Chẳng có căng thẳng nào ở đây để lo lắng cả. Không giống Luân Đôn. Chẳng có chuyện gì xảy ra ở một nơi như Exbury.”
Chính xác thì tôi sẽ không nói thế, vài phút trước tôi đã nhủ thầm như vậy, khi nặng nhọc leo lên con đường trở về nhà, đi qua những hàng rào dày đặc và cánh đồng mang mùi ngai ngái của đất. Không, tôi nghĩ, khi tự mỉm cười, tôi sẽ không nói chẳng bao giờ có chuyện gì xảy ra ở đây…
Một con cừu, có lẽ là một thành viên lêu lổng từ bầy của Iain, đang chạy lon ton trên đường và bận rộn ngấu nghiến một bụi hoa non mềm. Nó ngẩng đầu khi tôi lại gần và nhìn tôi chằm chằm với đôi mắt điềm tĩnh, không quan tâm. Nó là minh chứng hoàn hảo cho bức tranh của Vivien về cuộc sống ở một miền quê chăn nuôi gia súc – phờ phạc, đơn giản và buồn chán chết người.
“Mày đừng có lừa tao đấy nhé”, tôi nói với nó.
Có quá nhiều chuyện đã xảy đến với tôi trong một tháng vừa qua đến mức nếu con vật có đứng thẳng dậy và nói chuyện, tôi nghi ngờ mình có khi còn chẳng buồn chớp mắt nữa. Nhưng điều đó không xảy ra. Nó chỉ đứng đó và tiếp tục nhai nhóp nhép, rồi ngây ra nhìn tôi với cặp mắt khinh khỉnh thường có ở những con cừu, như thể tôi là một đứa gàn dở.
Trời mưa cả ngày hôm sau – cơn mưa dai dẳng, phiền muộn và không chút mệt mỏi trút xuống khung cửa sổ trong xưởng vẽ bé nhỏ của tôi. Ít nhất tôi cũng thấy may mắn, khi không có gì làm mình xao nhãng khỏi công việc – không một ngọn gió dịu dàng nặng trĩu hương thơm của hoa mùa xuân vẫy gọi, không có tiếng chim hót líu lo rủ rê tôi ra khỏi cửa. Chỉ có cơn mưa, bầu trời xám đen và cơn gió xấu xa lắc những ô cửa sổ cùng những hàng cây run lên bần bật.
Đến giờ ăn tối, tôi đã hoàn thành việc tô màu các bản phác thảo cho câu chuyện cổ tích Hàn Quốc, những trang giấy dày khoe sắc sặc sỡ như một chiếc kính vạn hoa. Tôi dùng bàn tay co cứng và đau nhức rửa các cây cọ, cất gọn màu vẽ và đi xuống tầng dưới, vào nhà bếp lấy thịt nguội và pho mát để ăn tối. Cầm theo tách trà vào thư viện, tôi chọn cuốn sách từ vụ giết người bí ẩn yêu thích và yên vị ngồi vào chiếc ghế bành bọc da để có một tối thư thái đọc sách. Tôi đã thiếp đi trước khi anh chàng thám tử phát hiện ra xác chết.
Tôi thức dậy trước bình minh, với một cái cổ cứng đơ và cảm giác buốt lạnh gần như đau đớn thường đến trước khi mặt trời mọc. Bầu trời vẫn còn tối đen và khung cửa quay về hướng đông phản chiếu hình ảnh của chính tôi đang ngó trân trân vào bản thân, một dáng hình kỳ quái trong ánh sáng phát ra từ ngọn đèn đọc sách nho nhỏ bên cạnh chiếc ghế. Tách trà rỗng đặt trên chiếc bàn bên cạnh. Nâng nó lên, tôi đứng dậy, cất những bước chân ngắn và rời rạc vào bếp, khao khát hơi ấm dỗ dành từ chiếc ấm đun nước và một tách trà mới.
Trong khi tôi đang ngồi ở đây, lắng nghe sự im lìm của ngôi nhà với hai bàn tay lạnh lẽo bao quanh chiếc tách nghi ngút khói, ý tưởng lần đầu tiên nảy đến với tôi. Kể từ thứ Bảy, tôi luôn lo lắng khi nhận ra mình không thể kiểm soát điều gì sắp xảy đến với bản thân – rằng tôi có thể, nói một cách ngắn gọn, quay ngược thời gian vào bất cứ thời điểm hay địa điểm nào, đi lang thang quanh làng trước toàn thể tầm mắt của tất cả mọi người nhưng không hề chú ý đến họ. Vấn đề ở chỗ, dường như “những hồi tưởng” đến một cách ngẫu nhiên, không lời cảnh báo, không cho bản thân tôi cơ hội dự liệu trước trải nghiệm ấy.
Nhưng nếu tôi có thể tự mình dự liệu thì sao? Nếu như tôi có thể tự tạo ra các hồi tưởng, khi nào tôi muốn, và kìm nén chúng khi nào tôi không muốn thì sao? Nếu tôi thực sự đối phó được với những ký ức – với các cảnh tượng từ chính trí óc của mình – thì tôi rất có thể sẽ tìm ra cách “nhớ lại” theo ý muốn.
Ít nhất cũng rất đáng để thử, tôi tự nhủ. Giờ là thời điểm hoàn hảo cho một thử nghiệm như thế. Tôi đang an toàn trong chính ngôi nhà của mình, được ủng hộ bởi sự can đảm giả dối vì chưa hoàn toàn tỉnh táo. Trong trường hợp có lang thang ra khỏi nhà, ít nhất tôi cũng đã ăn mặc đầy đủ với chiếc quần jean màu xanh bạc màu và chiếc áo phông nhàu nhĩ tôi thường mặc để vẽ tranh. Tôi rất chỉnh tề. Bên cạnh đó, phải vài giờ nữa mới có ai đó trong làng tỉnh giấc.
Thuyết phục bản thân tin vào tính thực tế của kế hoạch vừa lập ra, tôi dành vài phút tiếp theo để lục lọi tủ búp phê bừa bộn để tìm một cây nến. Tôi đã đọc ở đâu đó rằng nến là một yếu tố cần thiết để tự thôi miên. Cuối cùng, cũng tìm thấy một mẩu nến vùi trong khay đựng dao kéo, tôi cắm nó lên một chiếc đĩa nông. Ngồi vào chỗ ở chiếc bàn đã được lau dọn, tôi đặt cây nến trước mặt và nín thở châm nó lên.
Ngọn lửa sáng lung linh, đong đưa và nhảy múa giữa luồng không khí vờn quanh căn phòng yên lặng. Cả thế giới của tôi dường như co nhỏ lại chỉ còn một điểm sáng và đốm lửa nhỏ bé, bập bùng, mê hoặc đó sáng lung linh trong bóng tối gần kề. Tôi giữ đôi mắt mình cố định vào nó, nhìn chằm chằm và tập trung, trong khi trí óc tiếp tục lặp đi lặp lại một ý nghĩ: Tôi muốn nhớ lại. Tôi muốn nhớ lại. Hết lần này tới lần khác, như một phần trong vở thanh xướng kịch Messiah của Handel[2], quyết tâm nhàm chán không sao lay chuyển. Tôi muốn nhớ lại. Tôi muốn quay trở lại…
[2] George Frederick Handel: là nhà soạn nhạc người Anh nổi tiếng vì những vở thanh xướng kịch – thể loại âm nhạc cổ điển có quy mô lớn viết cho dàn giao hưởng, ca sĩ solo và dàn hợp xướng.
Không khí lao vun vút qua tai tôi như ca hát và đốm lửa trên ngọn nến vươn cao nhọn hoắt hưởng ứng.
“Chị vẫn chưa hoàn thành bản phác thảo của mình à?” Rachel ngạc nhiên hỏi. “Phiên chợ đã bắt đầu rồi đấy, không nhanh là chúng ta sẽ để lỡ những món hời mất thôi.”
Tôi uống cạn tách của mình với vẻ có lỗi, suýt nữa bị sặc vì thứ rượu mạnh. “Tôi xin lỗi, tôi đang suy nghĩ.”
“Chị nghĩ nhiều quá rồi. Trong ngôi nhà này, việc ấy chỉ càng dẫn chị vào rắc rối thôi”, cô ấy nói, mỉm cười với tôi từ khung cửa trong khi chỉnh lại chiếc áo choàng nặng nề và kéo mũ trùm đầu che đi mái tóc sáng màu của mình. “Ít ra mưa cũng tạnh rồi, trời đang sáng dần lên. Hôm nay hẳn sẽ là một ngày đẹp trời.”
Tôi thả chiếc mũ trùm đầu xuống. Tôi thích cảm giác cơn gió mơn man tóc mình, nhất là những ngọn gió trong lành thổi đến sau một cơn mưa muộn mùa xuân. Chiếc áo choàng màu xanh thẫm của tôi bị rách, đã được sửa kịp thời, nhưng chiếc váy bên dưới vẫn còn mới. Tôi đang mong đợi một buổi sáng tránh xa khỏi ngôi nhà và tầm ảnh hưởng của bác mình. Mở chốt cửa bếp giống như mở khóa một xà lim, nụ cười rộng mở khi tôi theo Rachel băng qua vườn sau để tiến về phía con đường dẫn chúng tôi rời xa khỏi căn nhà, rời xa khỏi ngôi làng, về phía phiên chợ đầy ắp người, tiếng cười và sự sống.