Cơn mưa kéo dài cả bốn ngày bốn đêm. Mưa rơi đều đều, ủ rũ, không ngưng nghỉ, giăng lên một màu mưa u buồn khắp vùng đất như tấm vải liệm và biến cả thế giới thành một màu xám buồn tẻ và không sắc màu qua khung cửa sổ xưởng vẽ nhà tôi.
Chính ra trước đây tôi rất thích mưa. Tôi thích ngắm nó, đi đầu trần dưới nó, lắng nghe giai điệu bất chợt của nó trên những khung cửa sổ trong khi cuộn mình trên một chiếc ghế thoải mái và đọc sách. Nhưng sau bốn ngày thì ngay cả những dây thần kinh của tôi cũng bắt đầu co giật.
Những chuyến du hành về quá khứ cũng không mang nhều hữu ích. Ba lần tôi cố gắng chuyển dịch bản thân, thì cả ba lần đều phát hiện mình đang đứng một mình, làm việc để hoàn thiện quần áo hồi môn cho Rachel, mà không có ai bên cạnh để phá vỡ tình trạng cô độc. Khi quay trở lại hiện tại, tôi luôn thất vọng hơn lúc trước. Tôi ghét công việc may vá.
Sau cùng, sự buồn tẻ khiến tôi rời nhà đi tìm kiếm bầu không khí thoải mái hơn ở quán Sư Tử Đỏ. Dường như tôi không phải người duy nhất có ý tưởng ấy. Tất cả các bàn trong quán bar đều nêm cứng người, bọn họ đang nói chuyện rất rôm rả. m thanh vui vẻ từ một cuộc thi phóng phi tiêu vọng ra từ một góc, không khí ở đây càng đặc quánh với khói thuốc cùng mùi quần áo ẩm ướt lẫn sấy khô. Iain rõ ràng đã đến thẳng đây từ cánh đồng. Anh có mùi như một chú cừu xức lên mình mùi hương cạo râu. Anh né người cho tôi lách lên quầy bar, rồi châm một điếu thuốc lá.
“Lâu rồi tôi chưa nhìn thấy anh”, tôi mở lời.
“Cô không nên gặp tôi lúc này. Tôi còn cả đống việc đang chờ, những cơn mưa khiến tôi rồ hết cả người lên, vì thế tôi đến đây uống vài ly. Bằng giá nào tôi cũng phải nhận bưu phẩm.”
Tôi cúi đầu nghiên cứu kiện hàng nhỏ, phẳng phiu trên quầy bar bên cạnh khuỷu tay anh ta. “Đấy có phải chữ của anh trai tôi không?” Tôi hỏi.
Iain gật đầu. “Ừ. Chúng tôi đã nói chuyện về nhà thơ Robert Herrick vào lần ghé qua gần đây nhất của anh ấy, Tom hứa sẽ cho tôi mượn bản sao các tác phẩm của Herrick mà anh ta đang giữ, để tôi có thể thư giãn. Tôi nghĩ là nó đấy.”
“Ý anh là anh vẫn chưa mở ra xem sao?” Vivien ngả người trên quầy bar hướng về phía chúng tôi, nét mặt hoài nghi. “Thực tế mà nói, Iain à, anh chẳng có tí tẹo tò mò nào hết cả. Đây có thể là bất cứ thứ gì…”
“Thế thì mời em”, anh ta hất đầu về phía bưu phẩm. “Cứ mở nó ra, nếu em háo hức thế.”
“Được rồi, để em.” Cô ấy xé lớp giấy nâu, nhấc cuốn sách nhỏ khỏi lớp bao bên ngoài với nụ cười nhếch một bên. Tuyển tập thơ Robert Herrick, cô ấy đọc to bìa sách.
Iain không nói gì, nhưng đôi mắt thoáng ánh lên chút tự mãn khi anh ta phả ra làn khói thuốc mỏng.
“Tôi không nghĩ mình từng đọc bất cứ bài thơ nào của Robert Herrick”, tôi nói.
Vivien búng ngón tay về phía mục lục. “Hừm, cô nên đọc đi”, cô ấy nói. “Ông ta viết một đống thơ về cô đấy.”
“Về tôi á?”
“À, về Julia. Cả đống ấy chứ. ông ta thậm chí có một bài ở đây mô tả về quần áo của Julia cơ.”
“Hầp dẫn đấy nhỉ”, tôi rướn người lên trước và nói khô khốc. Vivien chậm rãi lật những trang giấy, rà soát các dòng chữ.
“Rõ ràng đây là lý do vì sao anh trai cô mua cuốn sách này”, cô ấy suy đoán.“Anh ấy rất yêu quý cô, phải không? Ô, nhìn này, bài thơ về cô này:
Hỡi, Julia, hãy để ta theo đuổi em,
Đến đây, hãy đến bên ta;
Cho ta nhìn thấy
Đôi bàn chân dát bạc,
Cho ta dốc cạn tâm hồn cùng em.”
Biểu cảm của cô ấy có lẽ chỉ xuất hiện trong những vở kịch, cuối cùng cô ấy khẽ nhíu mày một chút. “Cô nghĩ ý ông ta là gì khi nói đôi bàn chân dát bạc?”
Iain trao cho cô ấy một ánh nhìn lười biếng. “Liệu thực tế họ đã gặp nhau dưới trăng có cho em manh mối nào không?” Anh ta hỏi.
“Ồ. Em hiểu rồi.”
“Đó là một chi tiết đáng yêu”, anh ta vừa bình luận vừa giơ tay lấy lại quyển sách. “Tôi không đọc thơ Herrick kể từ hồi học ở Cambrige. Anh cô thật tốt bụng khi đồng ý cho tôi mượn.”
Tôi không trả lời ngay. Lời mời gọi người tình đến hẹn hò của nhà thơ kia vẫn vang vọng trong đầu óc tôi như tiếng ai đang nói, trầm trầm và thân thuộc. Tôi lắc đầu một chút để rũ bỏ tiếng nói kia và mỉm cười với Iain. “Anh hẳn đã để lại nhiều ấn tượng cho anh tôi”, tôi nói. “Riêng sách thì Tom cực kỳ keo kiệt. Nhắc đến cái này thì chắc là lỗi của tôi – tôi vẫn cất những cuốn sách mượn của anh ấy từ khi còn là một đứa bé trong tủ sách của mình và chưa trả lại bao giờ.”
“Cùng với một, hai cuốn dạy làm vườn của tôi nữa.”
“Ừm, tôi nhớ rồi.” Tôi nuốt một ngụm rượu Gin Tonic rồi mỉm cười xin lỗi. “Tích trữ sách đúng là một thói quen xấu của tôi. Thư viện trên khắp đất nước này chắc cũng phải rùng mình khi nghe đến tên tôi mất thôi. Tôi hứa sẽ sớm trả lại các cuốn hướng dẫn làm vườn cho anh.”
“Không phải sợ đâu”, anh ta nhún vai. “Dù sao tôi cũng không dùng chúng thường xuyên lắm, trông cô có vẻ đang dần học được vài thứ từ chúng. Khu vườn trông tuyệt lắm.”
“Anh mới thấy nó gần đây sao?” Tôi dò hỏi.
“Vài ngày trước.”
“Ôi. Tôi thật sự xin lỗi khi để những bông hoa tigôn bị phá hủy như thế”, tôi nói, nhưng lời đáp của Iain cũng rất bình thản.
“Không phải lỗi của cô đâu”, anh ta miễn tội cho tôi. “Cô làm sao mà tự mình vặt hết chúng xuống thế được. Đôi khi chuyện như vậy vẫn xảy ra đấy. Có thể rót cho anh ly nữa được không, cưng?” Anh vừa hỏi Vivien vừa nâng chiếc ly trống không lên cách vài centimet so với mặt quầy.
“Chắc rồi. Julia thì sao?” Cô ấy nhìn tôi thắc mắc, nhưng tôi lắc đầu. Cơn bồn chồn không yên lại dấy lên, tôi muốn hoạt động liên tục.
“Thực tế”, tôi nói, “tôi nghĩ mình sẽ ghé qua thăm dì cô vài phút. Liệu giờ này bác ấy có còn ở lâu đài không?”.
Vivien kiểm tra đồng hồ. “Ba giờ mười lăm ấy hả? Tôi nghĩ là có. Ngay cả khi Geoff đi vắng, dì ấy cũng thường ở lại cho đến giờ ăn tối kìa. Căn nhà có quá nhiều chỗ cần dọn dẹp.”
“Cô nghĩ tôi có nên gọi cho bác ấy trước không?”
“Ai cơ, Freda á?” Miệng Iain cong lên giễu cợt. “Không cần đâu. Khi cô đến đó thì bà ấy đã châm sẵn một bình trà đợi cô rồi, cứ thử xem liệu có thế không nhé.”
Quả thật anh ta đã đúng. Thật tuyệt vời khi bước vào gian bếp ấm áp, sáng bừng, nơi ấm trà náu mình bên trong túi giữ ấm kẻ ca rô trên bàn trong khi ấm nước rít lên trên bếp lò và mùi hương ngọt ngào của món bánh nướng nào đó đượm lên tất cả mọi thứ.
“Quả là một bất ngờ đáng yêu”, Alfreda Hutherson thốt lên, rót đầy tách trà cho tôi và đặt một đĩa bánh nướng vẫn còn ấm lên bàn. “Ta đang trông đợi một chuyến viếng thăm vào buổi chiều.”
“Thực ra đây là một chuyến viếng thăm có mục đích”, tôi cắn một miếng bánh giòn rụm phủ bơ và đáp. “Hôm nay lâu đài có đợt thăm quan nào không ạ?”
“Không, vào thứ Tư hằng tuần thì không.” Bà nghiêng đầu nhìn tôi, đôi mắt sắc sảo và thấu hiểu. “Cháu muốn sử dụng một trong các căn phòng.” Đây không phải một câu hỏi.
“Vâng.” Tôi thu hết dũng khí để nhìn lên. “Cháu muốn biết Mariana đã nhìn thấy gì qua cửa sổ phòng Kỵ sĩ. Tất cả hồi tưởng của cháu đều gắn chặt với một địa điểm cụ thể và cháu phải đứng ở chính địa điểm đó nếu muốn quay về.”
“Phải, ta biết. Nhưng cháu có chắc mình muốn quay lại khoảnh khắc đó không? Cháu đã tự mình cảm nhận nỗi đau trước đây rồi đấy.”
Tôi thoáng lặng im nhớ lại. “Cháu phải biết”, cuối cùng tôi cũng nói. “Bác sẽ hiểu thôi. Những con người đó, tất cả bọn họ đều quá thật đối với cháu… cháu phải biết.”
“Cháu có muốn ta đi cùng không?”
“Không đâu ạ, cảm ơn bác”, tôi vội vã nói, rồi mỉm cười để làm dịu đi sự khiếm nhã của mình. “Cháu sẽ xấu hổ nếu để ai đó nhìn mình.”
“Nếu cháu đã quyết vậy”, bà vừa nói vừa đặt chiếc tách lên đĩa, “bất cứ khi nào đã sẵn sàng thì cháu cứ lên trên đó. Ta nghĩ cháu sẽ không gặp nguy hiểm gì đâu. Tất cả đồ đạc vẫn ở nguyên vị trí.”
“Cháu sẽ kể cho bác sau nhé”, tôi vừa nhăn nhở vừa nói với bà. Mình sẽ phát hiện ra sớm thôi, tôi nghĩ thầm, nếu cố gắng băng qua cái giường ngủ bốn cọc đồ sộ đó. Rồi đột nhiên một ý nghĩ đánh vào tôi khiến tôi nhăn mày. “Những… ký ức đó của cháu”, tôi chậm rãi nói, “đôi khi kéo dài đến vài giờ. Nếu khi bác muốn về nhà mà cháu vẫn chưa kết thúc thì…”
“… thì ta sẽ để điện cho cháu và khóa cửa lại”, bà hứa. “Cháu biết cách mở chốt rồi đúng không? Tốt. Ta không muốn làm cháu gián đoạn, một khi cháu bắt đầu. Cháu chỉ cần gạt chốt cửa phụ sang bên phải trước khi sập cửa là nó sẽ tự khóa lại lúc cháu ra về.”
Tôi mỉm cười biết ơn với bà. “Cảm ơn bác. Ừm”, tôi đẩy người đứng dậy, có hơi căng thẳng một chút, “bác chúc cháu may mắn đi ạ”.
Những căn phòng rộng lớn, vang dội của tòa trang viên giờ mang lại cảm giác sâu hun hút hơn lúc bình thường, dù trống rỗng hay không. Tôi có cảm giác bị chèn ép bởi những cơ thể không sao nhìn thấy đông đúc xung quanh khi leo lên cầu thang và sự thấp thỏm thì mắc như mạng nhện ở từng góc nhà. Đầy trông đợi và lặng lẽ, những linh hồn ở lâu đài Crofton đang chờ đợi, dõi theo tôi bước lại gần ô cửa phòng Kỵ sĩ.
Đó là một căn phòng tối hơn cả do thiếu ánh sáng mặt trời. Những giọt nước mưa đua nhau tạt lên ô cửa sổ và bám vào khung cửa trước khi rơi xuống mặt đất bên dưới. Ngọn tháp nhà thờ chỉ hơn một chiếc bóng hình vuông thẫm đen vươn khỏi chiếc bóng tai tái của bức tường nhà thờ một chút, trước mặt là bãi cỏ cùng khu vườn hoa hồng hòa lẫn vào màn mưa nhòe nhoẹt, xanh, tím một màu nâu xám xịt, vô cùng thiếu sinh khí. Giữ tầm mắt mình cố định lên quang cảnh đó, tôi bước sâu hơn vào căn phòng, siết chặt hai bàn tay mà không hề hay biết.
Cảm giác đó, khi xuất hiện, đánh vào tôi với áp lực như một cơn thủy triều và giật mạnh cằm tôi ngước lên. Khao khát, đau đớn, các xung động tầng tầng lớp lớp ập lên nhau với nỗi van nài héo úa tâm hồn. Không, tâm trí tôi tự động nài xin, rồi vụt trở nên điên dại, không, không, không…
Hồi chuông bên tai tôi rít lên tới mức không sao chịu nổi, tất cả dây thần kinh của tôi chấn động vì nó, rồi đột nhiên, đột nhiên như thể một cánh cửa bị đóng sập lại, âm thanh ngưng bặt, còn tôi bị bỏ lại trong im lặng an bình. Tôi mở choàng mắt.
Bãi cỏ trải dài trước mặt tôi ngập ánh mặt trời, hơi biến dạng đôi chút qua những ô cửa kính, màu xanh kéo dài hun hút, chỉ bị gián đoạn bởi lối đi bụi bặm quét ngang bên phải và những đường uốn lượn phức tạp của vườn hồng bên trái. Cách ngôi nhà một quãng, trên một trong những vạt sồi cao vời vợi, một con chim đang hót véo von những nốt nhạc ngọt ngào, rung động, lặp đi lặp lại, bài đồng ca của tự nhiên.
Sau lưng tôi, Richard xoay người trên chiếc giường. Tôi có thể cảm nhận anh đang quan sát mình.
“Em đang nghĩ gì thế?” Giọng nói của anh trầm sâu, thoáng vẻ ngái ngủ. Giọng nói của một người tình. Tôi thu chặt chiếc khăn choàng thô ráp quanh bờ vai tròn để trần của mình và thoáng rùng mình.
“Mọi thứ”, tôi đáp, “và không gì cả”.
“Anh ở vế nào trong đó?”
Mọi thứ, tôi có thể trả lời như vậy, nhưng cứ mắc nghẹn trong cổ họng. Tôi quay lại từ khung cửa sổ để nhìn anh. Anh nằm đó, bờ vai dựa lên gối, lồng ngực rộng và nâu rám trên lớp vải lanh trắng, đôi bàn tay lồng gọn vào nhau trên phiến bụng phẳng lì. Đó là thái độ thỏa mãn đậm chất đàn ông, thế nhưng đôi mắt trông hoang mang và dễ bị tổn thương đến lạ kỳ.
Tôi đã hiểu sai ánh mắt ấy. “Anh muốn em rời đi bây giờ sao?”
“Sao em lại nghĩ vậy về anh?” Đôi lông mày của anh nhướn cao, vẻ dễ bị tổn thương bay biến. “Em không phải người hầu, Mariana à, để bị yêu cầu ra khỏi tầm mắt của anh.”
“Không”, tôi cúi đầu nhìn xuống chân và thừa nhận, “em không phải người hầu. Em là nhân tình của anh. Một sự khác biệt không mấy quan trọng, em công nhận với anh là thế”.
Đôi mắt anh gắn chặt lấy gương mặt tôi. “Em là tình yêu của anh”, anh khẽ chỉnh lại, “và chẳng có gì phải xấu hổ hết cả. Em có ước giá như chiều nay chưa xảy ra không?”.
Tôi ngẩng đầu lên. “Không”, tôi thành thật nói.
“Anh sẽ không ép buộc em lên giường với anh”, anh đáp. “Anh không muốn một người phụ nữ hoảng sợ, hay một cô nàng e thẹn, ngoại trừ cô ấy sẵn lòng trao cho anh tình yêu. Anh không hứa hẹn, bởi thế giới này là một nơi luôn biến đổi và lời nói hầu như không còn nhiều ý nghĩa. Nhưng nếu em nghi ngờ lòng chân thành từ tình yêu của anh, thì em đến đây”, anh ngửa bàn tay vưon về phía tôi, “hãy để anh nhắc lại lời hứa của mình”.
Tôi tiến đến bên anh, mù quáng như đóa hoa vươn về phía ánh mặt trời, còn chiếc khăn rơi mất khỏi bờ vai lúc anh kéo tôi sà vào vòng tay của anh. Đó là một lần yêu dịu dàng, không còn chút bóng dáng của niềm đam mê cấp bách lúc trước. Khi kết thúc, anh ôm tôi thật chặt, đầu tôi tựa lên tim anh, bàn tay anh lùa qua mái tóc tôi.
“Giờ thì em nghĩ gì?” Anh lè nhè hỏi tôi.
Tôi mỉm cười. “Em nghĩ sự vắng mặt của bác em có lẽ sẽ không thường xuyên.”
Anh bật cười, cuốn một lọn tóc tôi quanh những ngón tay. “Em nói bác em sẽ về vào ngày mai phải không?”
Tôi gật đầu. “Chẳng mấy chốc sau khi anh đi thì bác ấy cũng đi. Em quên không hỏi anh, chuyến đi của anh thế nào? Đức vua sao rồi?”
“Ngài vẫn khỏe khi anh chào từ biệt ngài ngày hôm qua”, Richard đáp. “Ngài đã tốt bụng nhắc lại sự phục vụ của cha anh và mời anh dùng bữa với ngài, nhưng anh quá mệt mỏi và hăm hở muốn về nhà, bên cạnh đó, cung điện không phải nơi dành cho một quý ông.” Tôi cảm giác được nụ cười của anh. “Cũng công bằng thôi, em đang lo lắng về sự thích đáng khi có một người tình, ở cung điện em sẽ được nhắc đến như một kẻ ra vẻ đức hạnh khác thường.”
“Một người tình là tất cả những gì em cần”, tôi nói, rúc sâu hơn vào lồng ngực anh.
“Đấy là tất cả những gì em sẽ có.”
“Đến lúc bác em hứa gả em cho nhà buôn nào đó thì sao?” Tôi tò mò lắc đầu. “Chuyện gì sẽ xảy ra sau đó?”
“Anh sẽ không cho phép nó xảy ra. Anh sẽ cưới em.” Cánh tay anh siết chặt. “Anh sẽ không để mất em.”
Tất cả chỉ là ảo tưởng thôi, tôi tự nhủ. Đương nhiên anh sẽ không cưới tôi – sự khác biệt trong địa vị của chúng tôi quá lớn. Nhưng đó vẫn là một ảo tưởng tuyệt vời và trong một khoảnh khắc đau đớn và mê mải, trái tim tôi như được lấp đầy.
Tôi thu tròn bàn tay trên ngực anh và anh phủ tay mình lên đó, gạt mái tóc khỏi trán tôi.
“Ngủ đi em”, anh nói với tôi. “Còn vài giờ nữa trời mới tối và chúng ta có thể… nghỉ ngơi một chút.”
Đầu tiên tôi không mệt chút nào, nhưng sau vài phút nằm đó, lắng nghe hơi thở đều đều của anh, cảm nhận nhịp đập trái tim mạnh mẽ dưới má mình, muốn lưu trữ hết thảy vào ký ức để không bao giờ quên mất. Nhưng cuối cùng giấc ngủ cũng kéo đến, phủ lên tôi với sự ấm áp thoải mái như một tấm chăn.
Lúc tôi thức dậy, căn phòng đã chìm sâu trong bóng đêm và mặt trăng chiếu lai láng trên bãi cỏ. Tôi đang nằm một mình trên giường, trên lớp ga trải giường màu đỏ thẫm, đôi bàn tay tôi vẫn vươn về hướng người tình vắng mặt.
Một mình trên giường, nhưng tôi không ở một mình trong căn phòng. Ai đó đang đứng trong góc, một chiếc bóng cao xám có đôi mắt hơi lấp lánh. Khi tôi ngẩng đầu khỏi tấm đệm, chiếc bóng dần tiến lại gần và ánh trăng dát bạc chạm lên phần viền cứng cáp, thanh lịch của gương mặt một người đàn ông. Tôi không thể nhìn thấy biểu cảm của Geoffrey de Mornay khi anh đứng đó đưa lưng về cửa sổ, nhìn chăm chú xuống tôi, nhưng tôi có thể cảm giác được sự căng thẳng của anh.
“Anh nghĩ chúng ta cần nói chuyện”, anh lên tiếng.