Tôi tin rằng chính mình cũng biết, kể cả ngay trước khi tôi nhắm mắt, rằng đây sẽ là chuyến trở lại quá khứ cuối cùng.
Mới chỉ vài giờ trôi qua kể từ khi tôi trở lại Đàn Cừu Xám nhưng dường như nó kéo dài không sao chịu nổi. Tôi ngay lập tức lên giường đi ngủ, cố hết sức để nghe theo lời khuyên của bà Hutherson cùng giọng nói từ chính sự mệt mỏi của tôi, và tôi nằm đó, nhìn chằm chằm lên trần nhà, trong khi mặt trời chiếu lên ngôi nhà và tràn qua những chiếc lá bạch dương nhảy múa chắn ngang cửa sổ phòng ngủ của tôi.
Giấc ngủ không hề đến. Ý nghĩ về vòng tuần hoàn vô hình đó, giam cầm trong đường cung tàn nhẫn của nó, càng ấp ủ một cảm giác cấp bách khiến tôi càng lúc càng bồn chồn không yên. Cũng chính cảm giác cấp bách này đã đưa tôi đến nơi này bên ngoài ngôi nhà và tôi đã biết rõ ràng mà không cần thắc mắc.
Đằng sau lưng tôi, cây phong khẽ run rẩy khi những đám mây giăng kín mặt trời ban trưa, làn gió thoang thoảng thổi sàn sạt bãi cỏ dưới chân, băng qua những cánh đồng tăm tắp ngoài kia.
Đây là khu vườn nơi Thiếu phụ Xanh đã đứng. Không phải khu vườn bồ câu Iain kiến tạo giữa đống gạch vụn, mà là khu vườn nguyên bản của nhà bếp cũ, mọc lên từ rất lâu rồi, là nơi hồn ma của Mariana lưu luyến suốt bao năm qua. Cho đến khi tôi chào đời. Đây là nơi thích hợp, tôi nghĩ, để chấm dứt tất cả.
Tôi chỉnh lại dáng đứng và siết chặt nắm tay, hướng mặt về phía mặt trời với đôi mắt nhắm chặt. Cơn gió nhẹ thổi qua mái tóc trong khi tôi chờ đợi. Cưỡng chế tất cả suy nghĩ trong tâm trí của mình trừ duy nhất một ý nghĩ…
Lần này không có cơn chóng mặt, cũng không còn âm thanh. Thời gian êm ái trôi ngược trở lại như một dòng sông hướng ra biển cả và kéo tôi vào sự trỗi dậy huy hoàng, đáng tin cậy của nó.
“Mariana.”
Tôi mở choàng mắt, quay lại để đối mặt với một chàng trai đang băng qua sân đi về phía mình. Cậu ta là một chàng trai trẻ cao lớn, dứt khoát và rắn chắc, với mái tóc màu vàng sáng lẫn đôi mắt xanh thẳm như bầu trời thu.
Tôi vẫn thường tìm kiếm hình ảnh người cha trên thằng bé, hy vọng sẽ tìm thấy một vài phần của Richard vẫn còn lưu lại, nhưng anh không có mặt ở đây. Tôi lý luận điều này sẽ tốt hơn cho John. Mọi người đều cho nó là đứa con trai hợp pháp của Jabez Howard, không một ai từng biết tôi vẫn phủ nhận điều đó cho đến khi còn thở.
“Chị họ”, thằng bé gọi tôi, đột nhiên ngừng lại khi chỉ còn cách vài mét. “Xong hết rồi nhé. Em đã buộc dây lỏng ra rồi – nếu đổi ý, chị có thể tháo ra.”
Tôi mỉm cười với thằng bé, một cách cương quyết. “Chị sẽ không đổi ý đâu.”
“Nhưng lãng phí khủng khiếp”, thằng bé vừa nói vừa nhún bờ vai rộng, “nhưng mà chị cứ làm theo ý chị đi”.
Nụ cười của tôi càng vững vàng khi ánh mắt lướt qua thằng bé nhìn về phía chuồng bồ câu bị bỏ rơi. Những con chim đều ra đi vào sáng nay, được những người hầu của ngài George Staynor – Người chủ mới của lâu đài Crofton cùng đất đai kèm theo nó, mang đi trong những bao tải. Ngài George là một quân nhân đã về hưu, ông ta đã thiết lập cho ngôi nhà mới của mình một chiến dịch thực thụ đầy năng lượng, tìm cách phục hồi lại sự giàu có cho tòa trang viên huy hoàng đã từng bị Arthur de Mornay hủy hoại.
Tuyên bố chiếc chuồng bồ câu cũ dù tu sửa vẫn còn xập xệ và bất tiện, ngài George yêu cầu xây dựng một chuồng bồ câu mới và lớn hơn gần lâu đài, cùng với một ao cá và hang nuôi thỏ gần đó. Ông ta đã sai năm người đàn ông đến để di chuyển những con chim. Tôi không cảm thấy hối tiếc khi chứng kiến sự ra đi của chúng. Khi con chim cuối cùng bị bắt lại, tôi đã bảo John niêm phong cửa chuồng lại.
Có lẽ, tôi lý luận, những con chim sẽ không dễ dàng quen với cái chuồng mới. Nếu cố gắng trở lại cái tổ cũ, chúng phát hiện lối vào đã bị chắn lại, có thể chúng sẽ lựa chọn tự do thay vào đó. Có lẽ thế. Dù sao đi nữa, tôi sẽ không để chúng quay lại, bị giam cầm trong sân nhà mình và chờ đợi cái chết ập xuống. Cái lồng này sẽ không được sử dụng thêm nữa.
Chỉ duy nhất một thứ còn lưu lại trong những chiếc hốc tối tăm và đầy bụi: một chiếc chìa khóa, được chính tay tôi đặt vào đó. Tất cả những cái hốc khác đều im lặng, chết chóc và trống rỗng.
John tiến lên đứng bên cạnh tôi, nhìn xuống gương mặt tôi với ánh mắt nghiêm túc và phê bình. “Tối qua chị không ngủ”, thằng bé nói.
“Chị nằm mơ.”
“Em nghĩ đấy là mộng du”, thằng bé khẽ buộc tội. “Em nghe thấy tiếng chị bước trên sàn. Mẹ em cũng từng có những giấc mơ như vậy, khi bà còn sống, nhưng bà là một người dễ bị kích động.”
“Em đừng tỏ ra ầm ĩ thế, John. Chỉ duy nhất một đêm thôi mà.”
“Phải rồi. Cùng một đêm hằng năm. Có lẽ một ngày nào đó em sẽ biết được nguyên do.”
Tôi mỉm cười và chạm vào má thằng bé. “Có lẽ vậy. Nhưng không phải hôm nay.” Có thứ gì đó rơi leng keng khỏi cổ tay giơ lên của tôi và nó nhanh tay bắt lại.
“Chị nên thay móc”, thẳng bé nói với tôi, “nếu không chị sẽ mất chiếc vòng tay, còn em thì không thể tượng tượng chị sẽ ra sao nếu không có nó”.
Tôi nhìn xuống đàn chim thiên đường bị mài mòn bởi thời gian vẫn đeo trên tay tôi suốt mười sáu năm – bằng với tuổi của John – và mỉm cười buồn bã. “Chị không thể thay một cái móc mới được.”
“Thật vớ vẩn.” Thằng bé nắm chặt lấy chiếc vòng tay. “Em sẽ xem có thể làm gì với nó chiều nay. Người bán trang sức là một người đàn ông tử tế, em nghĩ ông ấy sẽ cho em một mức giá hợp lý. Em sẽ không nhìn chị mất thứ chị quý trọng thế này.”
Trái tim tôi trào lên một tình yêu không lời. Tôi khao khát được nói với thằng bé rằng, trong số những món quà Richard trao cho tôi, thằng bé là điều tôi quý trọng hơn hết thảy… nhưng những từ đó sẽ không, không thể, tự định hình.
“Em luôn chăm sóc cho chị, John ạ”, tôi nói. “Chúng ta chăm sóc lẫn nhau.”
Đó là những năm tháng tốt đẹp, tôi suy ngẫm, tuy nghèo khổ nhưng yên bình và luôn tràn ngập hoa hồng thay vì những cơn mưa. Căn nhà đã từng giam giữ tôi như tù nhân dần trở thành mái ấm của tôi, những bóng đen giận dữ dần được năm tháng trôi qua khuyên giải. Giờ chỉ còn hai chúng tôi. Caroline đã qua đời từ bảy mùa đông trước, nhưng bác cũng không còn ý chí để sống lâu thêm nữa, sự qua đời của bác cũng giống như một chiếc bóng đổ lên tường, khi tất cả những chiếc đèn đều tắt.
John và tôi đã cùng làm việc và gìn giữ ngôi nhà, trong suốt thời gian đó tôi đã nhìn thằng bé dần trưởng thành thành một người đàn ông.
Tình trạng của tòa trang viên thì không được tốt cho lắm. Arthur de Mornay đã cướp phá toàn bộ sự giàu có của nơi đây, để mặc nó suy tàn trong khi đắm mình trong bài bạc và gái gú. Tôi thấy cậu ta bán đi lâu đài.
Nhưng tôi còn mừng hơn nữa khi biết Navarre sẽ không có trong những thứ bị cậu ta bán đi.
Chú ngựa xám to lớn trở nên tiều tụy sau cái chết của Richard. Khi tôi quay trở về Exbury vào mùa xuân, sau khi sinh hạ John, tôi đã có cơ hội nhìn thấy Navarre ngoài đồng, sự thay đổi của con thú làm tan vỡ trái tim tôi. Nó trông hốc hác và kề cận với cái chết, chiếc đầu kiêu ngạo của nó rũ xuống và lơ đãng, những chiếc chân to lớn oằn mình xuống đất.
Tôi đã cố gắng, theo cách của mình, vỗ về nó, mang theo sự can đảm để lén ghé thăm chuồng ngựa của tòa trang viên, khi chú bé giữ ngựa đi vắng. Tôi mang đồ ăn cho con ngựa đau ốm, trò chuyện với nó và làm hết sức để cổ vũ nó, nhưng dù nhận ra tôi, nó vẫn không chịu thay đổi, đôi mắt ủ dột buồn bã của nó như đang trộn lẫn với sự khốn khổ của chính tôi vậy.
Và rồi một ngày, trong lúc tôi ghé qua chuồng ngựa, cả con ngựa và tôi đều nghe thấy tiếng ai đó đang huýt sáo bên ngoài, ngay khi bị giật mình vì cảm thấy đang mắc lỗi, tôi đã nhận ra tiếng huýt sáo này vô cùng quen thuộc…
Evan Gilroy hiên ngang bước qua cánh cửa chuồng ngựa. Vừa nhận ra nhau, anh ta đã đưa một ngón tay cảnh báo lên môi mình. “Cẩn thận, tiểu thư ạ”, anh ta khẽ lẩm bẩm. Tôi không thấy anh ta quen thuộc ngoài đôi mắt và giọng nói ấy. Anh ta trông hoàn toàn thay đổi, với hàng ria và bộ tóc giả kiểu cách đổ xuống bờ vai gù gù thận trọng. “Tôi đến để đưa Navarre đi”, anh ta nói, với chất giọng thẳng thắn và kiên nghị. Đôi mắt anh ta nhìn qua tôi về phía chú ngựa, tôi thấy vẻ biến đổi trên biểu cảm của anh ta. “Lạy Chúa”, anh ta khẽ than, “họ đã làm gì với mày thế này?”.
Tôi hiểu ý anh ta. Navarre từng rất đẹp, việc nó bị bạc đãi thế này sau cái chết của anh dường như là một sự mạo phạm tàn bạo chính bản thân Richard.
Evan vượt qua tôi để vuốt ve chiếc cổ chú ngựa. Trước đụng chạm đó, đôi tai Navarre giật mạnh, quay về phía giọng nói thân thuộc. Đôi mắt trong vắt của nó ánh lên điều gì đó rất gần với niềm hy vọng, cơn kích động run run cợn lên khắp cơ bắp của chú ngựa, bên dưới bàn tay vỗ về của tôi. Tôi suýt chút nữa thì khóc lớn, khi nhìn thấy sự biến đổi của nó.
Và chuyện đã được giải quyết. Cuộc chia tay của chúng tôi diễn ra rất nhanh, chỉ có một chút thời gian để chuyện trò.
“Có tin tức gì về Rachel không?” Tôi hỏi anh ta. “Cô ấy đi cùng anh chứ?”
“Không. Tôi để cô ấy ở chỗ an toàn với người của tôi, ở bắc Bristol. Chúng tôi đã kết hôn được tám tháng.”
“Ôi, Evan”, tôi không thể ngăn nổi niềm sung sướng trong giọng nói. “Tôi mừng cho hai người.”
“Giá như cô có thể chung vui với chúng tôi”, anh ta dịu dàng nói. “Cô biết cậu ấy cũng rất yêu cô.”
“Vâng.”
“Cậu ấy đã định cưới cô.”
“Tôi biết.”
Sau đó anh ta nở nụ cười với tôi, nụ cười mím chặt cho thấy anh ta rất đau khổ. “Rachel và tôi sẽ lên phương bắc”, anh ta nói. “Đến Scotland. Chúng tôi nghĩ sẽ bắt đầu một cuộc sống mới ở đó, tránh xa tất cả những bóng đen săn đuổi chúng tôi ở đây.”
Tôi cố gắng nở nụ cười và chúc anh ta những điều tốt đẹp, dù cho trái tim tôi quặn thắt. Sau đó anh ta rời đi, trên lưng chú ngựa xám to lớn, tôi nghĩ mình đã nhìn thấy chút dấu vết từ lòng kiêu hãnh ban xưa trong dáng đi của nó.
Vụ mất trộm nhanh chóng bị phát hiện, nhưng người ta không bao giờ bắt được kẻ trộm. Trong khi người của Arthur de Mornay lùng sục trên đường làng, Navarre đã tự do phi thẳng trên đường lớn hướng về Bristol, chở Evan Gilroy trên lưng, và đi cùng với anh ta, là tình yêu tôi gửi đến Rachel. Tôi không bao giờ được gặp lại họ nữa.
Hồi ức đó khiến tôi nở nụ cười buồn, sát cạnh vai tôi, tôi nghe thấy John trút tiếng thở dài nặng nề. Tôi quay sang nhìn con và thấy thằng bé đang nhìn xuống tôi với sự thắc mắc pha lẫn thất vọng.
“Chị là một câu đố, chị họ ạ, rồi đến một ngày em sẽ được sáng tỏ.” Nó cúi xuống hôn lên má tôi. “Chị đừng có làm việc cực nhọc quá trong lúc em vào làng đấy nhé? Dạo này trông chị dễ dàng mệt mỏi lắm.”
“Lời nguyền của tuổi tác.” Tôi cười. “Nhưng vì em, chị sẽ không khiến bản thân mệt mỏi nữa. Chị sẽ đứng ở đây và nhìn cánh đồng thêm một chút.”
John lại nhìn tôi, ngập ngừng đôi chút như thể muốn nói gì đó, hay hỏi gì đó, nhưng rồi khoảnh khắc ấy trôi qua. Mỉm cười, thằng bé quay người đi, tôi xoay ánh mắt trở lại với thảm hoa màu nhấp nhô, hút mắt toàn ánh vàng và xanh, đổ tại cho ánh nắng chói chang đã đột ngột che chở tầm nhìn của mình lúc này…
Sắc nhọn, thình lình thâm nhập, tiếng chuông ầm ĩ và tàn bạo phá vỡ sự im lặng. Tôi chớp mắt, không còn là Mariana nữa, chỉ còn là Julia, với tiếng chuông điện thoại lanh lảnh gọi tôi bước qua cánh cửa nhà bếp. Dường như cần đến những nỗ lực to lớn mới có thể di chuyển đôi chân từ nơi tôi đang đứng, như thể bằng cách nào đó tôi đã mọc rễ ở đó và không thể cử động.
Chiếc điện thoại tiếp tục reo trong lúc tôi chầm chậm quay vào.
“Em mất nhiều thời gian quá đấy”, giọng anh tôi trêu ghẹo, tôi sụm người dựa vào bức tường, rồi lấy những ngón tay mỏi mệt bóp trán.
“Vâng”, tôi trả lời. “Em bận quá.”
“Lại làm vườn nữa à?”
“Đại loại thế.”
“Em vẫn ổn đấy chứ?” Giọng anh sắc bén. “Nghe giọng em lạ quá.” Trước khi tôi có thể trả lời, anh đã hỏi, “Em lại quay về quá khứ nữa đúng không? Giờ thì có chuyện gì đã xảy ra?”.
“Em sẽ kể hết anh nghe, Tom ạ, em hứa đấy. Chỉ là không phải bây giờ thôi. Giờ em không muốn nói gì cả. Em chỉ muốn lên giường đi ngủ.”
“Em có muốn ai đến chỗ em không? Anh có thể thay đổi các bài giảng của mình một chút, và xuống đó. Hoặc có thể Vivien…”
“Không.” Lời từ chối thẳng thừng nghe có vẻ khiếm nhã, nhưng tôi không sao ngăn được. “Em không muốn ai đến cả, Tom ạ. Thật sự em không muốn. Em chỉ muốn ở một mình thôi.”
“Nhưng Julia…”
“Ôi, em xin anh ấy, Tom!” Tôi nhanh chóng mất kiên nhẫn. “Anh chỉ cần mặc kệ thôi mà, không được sao?”
Anh từ bỏ và cúp máy với một lời xin lỗi. “Hãy gọi cho anh khi nào em cảm thấy khá hơn cưng nhé”, anh dặn, tôi có cảm giác mình không khác gì một con bé bạc bẽo chua ngoa lúc đặt ống nghe xuống.
Tôi thơ thẩn trở vào bếp và đứng nhìn ra ngoài cửa sổ đúng cái chỗ tôi từng đứng, nơi đó trong khu vườn có một người phụ nữ trẻ đã đứng, đã nhìn và trở nên già cỗi, chờ đợi người yêu không bao giờ trở lại.
Hoặc cũng có thể, tôi nghĩ, sau cùng anh đã trở về bên cô, khi anh đến với tôi ngay buổi ban đầu – một dáng hình im lặng, cao lớn trên con ngựa xám, lấp lóa dưới những bóng râm từ tán sồi, gần đến trêu ngươi nhưng bao giờ cùng nằm ngoài tầm với.
Bao nhiêu mùa đã trôi qua. bao nhiêu đợt tuyết đã đến và đi, hoa nở rộ rồi khô héo dưới ánh mặt trời chói chang của mùa hè, trong khi Mariana và Richard đã chờ đợi, bất lực khi bị niêm phong giữa giao lộ thời gian… chờ đợi khoảnh khắc tâm hồn họ lại được giao hòa, ngất ngây trong men tình ái của nhân gian.
Và giờ đây khoảnh khắc ấy đã đến, tôi chẳng thể tìm ra được cảm giác khoan khoái nào, cũng không chuyển dịch, chỉ là một cảm giác thất vọng đến thẫn thờ và mệt mỏi vì những nỗ lực chẳng đi đến đâu. Quay khỏi cửa sổ, tôi hướng những bước chân rã rời lên gác và ngã lên giường la liệt quần áo. Nơi đây, trong căn phòng yên tĩnh nhập nhoạng tối, cuối cùng giấc ngủ cũng đến với tôi – một giấc ngủ mịt mờ, thăm thẳm, thăm thẳm như miệng vực hút sâu và trơ trọi không mộng mị. Thời của những giấc mơ đã qua rồi.