Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Mật mã Da Vinci

Chương 6

Tác giả: Dan Brown

Sau khi khép mình chui dưới hàng rào bảo vệ, Robert Langdon giờ đây đứng bên trong lối vào Hành Lang Lớn. Ông nhìn dõi vào miệng một hành lang dài, sâu như hẽm núi. Hai bên hành lang, những bức tường vút lên với độ cao mười mét, như tan biến vào bóng tối bên trên. Những bóng đèn bảo quản đỏ kệch hướng lên trên, tỏa một ánh sáng mờ không tự nhiên lên bộ sưu tập kỳ vĩ gồm những tác phẩm của Da Vinci, Titian, và Caravaggio treo lơ lửng từ những dây cáp trên trần. Tĩnh vật, các cảnh tôn giáo và phong cảnh đẹp cùng với chân dung của các quý tộc và chính trị gia.

Mặc dù Hành Lang Lớn cất giữ nghệ thuật Ý nổi tiếng nhất của Louvre, nhiều khách du lịch lại cảm thấy món quà gây ấn tượng nhất của cánh này, trên thực tế, lại là cái sàn gỗ nổi tiếng của nó. Được sắp đặt theo một thiết kế ngoạn mục mang tính kỷ hà với những lát gỗ sồi xếp chéo góc, mặt sàn tạo ra một ảo giác thoáng qua – một mạng lưới đa chiều mang lại cho du khách cảm giác là họ đang trôi trong phòng trưng bày trên một bề mặt thay đổi theo mỗi bước đi.

Khi cái nhìn của Langdon bắt đầu dõi theo đường ván lát, mắt ông bỗng dừng phắt trên một vật bất ngờ nằm trên sàn chỉ cách ông vài mét về bên trái, khoanh giữa dải băng đánh dấu của cảnh sát. Ông quay về phía Fache. “Có phải… một bức Caravaggio ở trên sàn không?”.

Fache gật đầu mà không cần nhìn.

Bức tranh, Langdon đoán, đáng giá tới hai triệu đôla, mà nằm chỏng chơ trên sàn như một tấm quảng cáo vất đi. “Thế quái nào mà nó lại nằm trên sàn như vậy?”.

Fache nhìn trừng trừng, rõ ràng không hề xúc động: “Đây là hiện trường vụ án, ông Langdon ạ. Chúng ta không được đụng vào bất kỳ thứ gì. Bức tranh đó đã bị ông phụ trách bảo tàng kéo xuống. Đó là cách ông ấy khởi động hệ thống an ninh”.

Langdon nhìn vào cánh cổng, cố gắng mường tượng những gì đã xảy ra.

“Ông phụ trách bảo tàng bị tấn công trong phòng làm việc, trốn chạy vào Hành Lang Lớn, và khới động cửa bảo vệ bằng cách kéo bức vẽ đó từ trên tường xuống. Cổng bảo vệ sập ngay lập tức chặn mọi lối ra vào. Đây là cánh cửa duy nhất để ra vào Hành Lang Lớn”.

Langdon cảm thấy không rõ: “Vậy là ông ta dã thực sự bắt được kẻ tấn công mình trong Hành Lang Lớn sao?”.

Fache lắc đầu: “Cổng bảo vệ đã ngăn cách Saunière với kẻ tấn công ông. Tên sát thủ bị chặn lại ở hành lang ngoài và bắn Saunière qua cánh cổng này”. Fache chỉ về phía miếng kim loại màu cam lủng lầng ở một song sắt của cánh cổng mà họ vừa chui qua bên dưới. “Đội canh sát khoa học – kỹ thuật (PTS) đã tìm thấy vết khói đạn phụt lại của khẩu súng. Hắn đã bắn qua chấn song. Saunière đã chết một mình trong này”.

Langdon nhớ lại bức ánh chụp thi thể Saunière. Họ nói ông ấy đã làm điều đó với chính mình. Langdon nhìn hành lang mênh mông phía trước. “Vậy xác ông ấy ở đâu?”.

Fache chỉnh thẳng cái kẹp cà vạt hình thánh giá và bắt đầu đi.

“Chắc ông đã biết, Hành Lang Lớn này khá dài”.

Độ dài chính xác, nếu Langdon nhớ đúng, thì là khoảng 500 mét, bằng ba đài tưởng niệm Washington nối liền nhau. Chiều rộng của hành lang cũng hoành tráng như thế, có thể dễ dàng chứa hai đoàn tàu chở khách xếp hàng ngang cạnh nhau. Điểm suốt dọc trục trung tâm hành lang là những pho tượng hoặc những thạp sứ lớn, tạo thành một đường ngăn trang nhã, giữ cho dòng khách tham quan theo chiều đi lên ở một bên và theo chiều đi xuống ở bên kia.

Fache im lặng, thoăn thoắt sải bước theo mé bên phải của hành lang, mắt nhìn trân trân về phía trước. Langdon cảm thấy gần như bất kính khi đi qua bao kiệt tác như vậy mà không dừng lại dù chỉ để ìiếc nhìn.

Không phải bởi mình chẳng nhìn thấy gì trong ánh sáng này, ông nghĩ.

Tệ thay, cái ánh sáng đỏ lịm này lại làm Langdon nhớ đến trải nghiệm lần trước của mình trong ánh sáng mờ ảo của Viện Tư liệu mật Vatican. Đây là lần thứ hai trong buổi tối hôm nay ông liên tưởng đến lần suýt chết ở Roma. Ông lại chợt nhớ đến Vittoria. Cô đã vắng mặt trong những giấc mơ của ông nhiều tháng nay. Langdon không thể tin rằng chuyện ở Roma mới chỉ cách đây một năm, mà đã như hàng thế kỷ rồi. Một cuộc đời khác.

Lần cuối cùng ông nhận được thư Vittoria là vào tháng 12 – một bưu ảnh nói rằng cô đang trên đường đến biển Java để tiếp tục nghiên cứu về vật lý của cá đuối một dề tài về việc sử dụng vệ tinh để theo dấu sự di trú của cá đuối? Langdon chẳng bao giờ nuôi ảo tưởng rằng một phụ nữ như Vittoria Vetra lại có thể sống hạnh phúc với ông trong một học xá đại học, nhưng cuộc gặp gỡ bất ngờ ở Roma mở ra nơi ông một khát khao mà ông không bao giờ tưởng tượng là mình có thể cảm thấy. Ham muốn sống độc thân suốt đời của ông cùng những tự do giản đơn mà nó đem lại, chợt lung lay… thay thế bởi một cảm giác trống rỗng bất ngờ dường như cứ lớn dần suốt trong năm qua.

Họ tiếp tục bước đi, nhưng Langdon vẫn không nhìn thấy cái xác nào hết. Jacques Saunière đi được xa thế sao? Ông Saunière bị một viên đạn găm vào bụng. Ông ấy chết từ từ. Có thể là trong vòng mười lăm – hai mươi phút. Ông ấy rõ ràng là người có sức chịu đựng tốt”.

Langdon quay lại, thất kinh: “Nhân viên bảo vệ mất mười lăm phút mới đến được đây sao?”.

“Tất nhiên là không. Bảo vệ bảo tàng Louvre phản ứng ngay lập tức với tiếng chuông báo động và phát hiện ra Hành Lang Lớn đã đóng. Qua cánh cổng, họ có thể nghe thấy có người đang di chuyển ở đầu đằng kia hành lang, nhưng họ không thể nhìn thấy đó là ai. Họ quát hỏi, nhưng không được trả lời. Đoán chắc rằng đó chỉ có thể là kẻ trộm, họ đã làm theo quy định và gọi điện cho Cảnh sát tư pháp . Chúng tôi đã chiếm lĩnh vị trí trong vòng mười lăm phút. Khi đến, chúng tôi nâng hàng rằo chắn lên đủ để có thể trườn qua bên dưới, và tôi đã điều mười hai cảnh sát vũ trang vào bên trong. Họ đã kiểm tra hết chiều dài Hành Lang Lớn để vây bắt kẻ đột nhập”.

“Và?”.

Họ chẳng thấy ai bên trong. Trừ…”, ông ta chỉ về phía xa hơn trong hành lang, “Ông ấy”.

Langdon dõi theo ngón tay chỉ thắng của Fache. Đầu tiên ông nghĩ Fache đang chỉ một bức tượng bằng đá cẩm thạch to ở giữa hành lang. Tuy nhiên, khi họ đi tiếp, Langdon bắt đầu nhìn xa hơn bức tựơng. Sâu vào hành lang ba mươi thước, một ngọn đèn chiếu đơn trên cột di động rọi xuống sàn, tạo thành một quầng sáng trắng trong căn phòng đỏ thẫm. Ở giữa quầng sáng đó, như một con côn trùng dưới kính hiển vi, là xác của ông phụ trách bảo tàng nằm trần truồng trên sàn gỗ.

“Ông đã xem bức ảnh”, Fache nói, “vậy thì cảnh tượng này không có gì bất ngờ”.

Langdon cảm thấy rợn cả người khi họ tiến về phía thi thể.

Trước mắt ông là một trong những hình ảnh kỳ lạ nhất mà ông từng thấy.

Thi thể tái nhợt của Jacques Sainière nằm trên sàn gỗ y hệt như trong ảnh. Đứng bên cái xác và nheo mắt trong ánh sáng chói loà Langdon kinh ngạc tự nhắc mình rằng Saunière đã dùng những phút cuối cùng của đời mình để sắp đặt cơ thể mình theo tư thế kỳ lạ như thế này.

Saunière trông đặc biệt tráng kiện đối với một người ở tuổi của ông… và tất cả các cơ bắp nổi lên rõ ràng. Ông đã cởi tất cả quần áo, đặt gọn gàng trên sàn, và nằm ngửa giữa hành lang rộng, chính xác theo trục dọc của căn phòng. Tay chân ông dang ra như đại bàng xòe cánh, tựa một đứa trẻ làm một thiên thần bằng tuyết… hoặc, có lẽ ví thế này thì thích hợp hơn, tựa một người đàn ông bị phanh thây bởi một lực vô hình.

Ngay bên dưới xương ức của Saunière, một vết máu đánh dấu nơi viên đạn găm vào thịt ông. Lạ thay, vết thương chảy máu rất ít, chỉ để lại một vũng máu nhỏ đã đen lại.

Ngón trỏ tay trái của Saunière cũng dính máu, hiển nhiên là do nhúng vào vết thương để tạo ra cái nét gây hoang mang nhất nơi giường lâm chung ma quái của ông; dùng máu mình làm mực và cái bụng trần làm toan, Saunière đã vẽ một biểu tượng đơn giản trên da thịt mình – năm dòng kẻ thẳng cắt chéo nhau tạo thành một hình sao năm cánh.

Hình sao năm cánh.

Ngôi sao đẫm máu, ở giữa rốn Saunière, mang đến cho thi thể ông một hào quang rành là ma quái. Bức ảnh Langdon nhìn thấy đã đủ ớn lạnh, nhưng bây giờ, chứng kiến tận mắt khung cảnh này, Langdon cảm thấy mỗi lúc một thêm bồn chồn.

Ông ấy tự làm điều đó cho chính mình.

“Ông Langdon?” Đôi mắt đen của Fache lại nhìn ông.

“Đó là một hình sao năm cánh”, Langdon nói, giọng ông nghe vang vọng trong không gian rộng lớn. “Một trong những biểu tượng cổ xưa nhất trên trái đất. Được dùng hơn bốn nghìn năm trước Công nguyên”.

“Và nó có ý nghĩa gì?”.

Câu hỏi này bao giờ cũng khiến Langdon do dự. Nói với ai đó một biểu tượng có ý nghĩa gì cũng giống như nói họ nên cảm nhận một bài hát như thế nào – điều đó với mỗi người một khác. Chiếc mũ trắng trùm đầu của Đảng 3K (Ku Klux Klan) gợi lên ở Mỹ những hình ảnh của căm thù và chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, nhưng cùng trang phục ấy lại mang ý nghĩa về niềm tin tôn giáo ở Tây Ban Nha.

Các biểu tượng mang những ý nghĩa khác nhau trong từng hoàn cảnh khác nhau!”, Langdon nói. “Ban đầu, ngôi sao năm cánh là biểu tượng vô tôn giáo”.

Fache gật đầu: “Thờ ma quỷ”.

“Không”, Langdon sửa lại, ngay lập tức nhận ra rằng sự lựa chọn từ ngữ của ông nên rõ ràng hơn.

Ngày nay, từ pagan (vô đạo) đã trở thành đồng nghĩa với thờ mạ quỷ – một cách hiểu sai thô thiển. Gốc của từ này thực sự bắt nguồn từ chữ Latinh paganus, nghĩa là người nhà quê.

“Pagan” là những người dân quê chưa được truyền giáo thực sự nên cứ bám lấy những tôn giáo cổ xưa và thôn dã thờ Tự Nhiên Trên thực tế, Nhà Thờ sợ những người sống ở làng quê đến nỗi một từ vô thưởng vô phạt để chỉ “dân làng (villain) – cũng bị biến nghĩa thành kẻ xấu.

“Ngôi sao năm cánh”, Langdon cố làm cho nó dễ hiểu hơn, “là một biểu tượng trước Công Nguyên có liên quan đến tín ngưỡng tôn thờ Tự nhiên. Người cổ đại luôn hình dung thế giới của họ thành hai nửa – nam tính và nữ tính. Các nam thần và nữ thần của họ cùng nhau giữ cho cân bằng quyền lực âm và dương. Khi tính nam và tính nữ cân bằng thì có sự hài hòa trong thế giới. Khi chúng mất cân bằng, thì sẽ xuất hiện sự lộn xộn”.

Langdon chỉ vào bụng của Saunière. “Hình sao năm cánh này tiêu biểu nửa cái của mọi sự vật – một khái niệm mà các sứ gia tôn giáo gọi là “tính nữ thiêng liêng” hay “nữ thần siêu phàm”.

Saunière ở trong số ít người biết được điều này”.

“Saunière vẽ một biểu tượng nữ thần trên bụng mình sao?”.

Langdon phải thừa nhận, điều đó có vẻ kỳ lạ: “Theo cách diễn giải cụ thể nhất, thì hình sao năm cánh tượng trưng cho thần Vệ nữ – nữ thần của tình yêu xác thịt và sắc đẹp”.

Fache nhìn người đàn ông lõa thể và lầm bầm.

“Tôn giáo sơ khai dựa trên trật tự thiêng liêng của Tự nhiên.

Thần Vệ nữ và sao Kim là một. Nữ thần này có một chỗ trên bầu trời đêm và được gọi bằng nhiều tên- Vệ nữ, Ngôi Sao Phương Đông, Ishtar, Astarte – tất cả đều là những khái niệm mang tính nữ đầy quyền uy với mối liên hệ chặt chẽ với Tự nhiên và Mẹ Đất”.

Fache lúc này có vẻ còn hoang mang hơn, như thể, cách nào đó, ông ta vẫn thích cái ý nghĩa thờ ma quỷ hơn.

Langdon quyết định không nói cho ông ta biết đặc điểm kỳ lạ nhất của hình sao năm cánh – nguồn gốc những liên hệ mang tính đồ họa của nó với sao Kim. Khi còn là một sinh viên trẻ khoa chiêm tinh học, Langdon đã sửng sốt khi biết rằng cứ tám năm một lần, sao Kim lại vẽ trên bầu trời một hình sao năm cánh hoàn hảo. Người cổ đại đã quá kinh ngạc khi quan sát hiện tượng này đến mức sao Kim cùng hình vẽ này trở thành biểu tượng của sự hoàn hảo, vẻ đẹp, và những phẩm chất chu kỳ của tình yêu nhục dục. Để tỏ lòng tôn kính đối với phép thuật của sao Kim, người Hy Lạp đã dùng chu kỳ tám năm để tổ chức thế vận hội Olympic. Ngày nay, rất ít người nhận ra rằng chu kỳ bốn năm của Olympic hiện đại vốn theo nửa chu kỳ của sao Kim. Càng hiếm hơn nữa những người biết rằng hình sao năm cánh đã từng gần như trở thành con dấu chính thức của thế vận hội Olympic nhưng đã bị cải biên vào phút cuối – năm đỉnh của nó chuyển thành năm vòng tròn giao nhau để phản ánh tốt hơn tinh thần đoàn kết và hòa đồng của các cuộc chơi.

“Ông Langdon”, Fache đột nhiên nói. “Rõ ràng, hình sao năm cánh chắc cũng liên quan đến ma quỷ. Những bộ phim Mỹ kinh dị của các ông chứng tỏ rõ điểm đó”.

Langdon cau mày. Cảm ơn ngài, Hollywood. Giờ đây, trên thực tế hình sao năm cánh là hình ảnh rập khuôn trong những bộ phim truyền hình nhiều tập thuộc loại dao găm súng lục, thường được vẽ trên tường nhà của những kẻ thờ quỷ Satan cùng với những biểu tượng khác được cho là gắn với ma quỷ.

Langdon luôn luôn thất vọng khi ông thấy biểu tượng sao năm cánh trong khung cảnh như vậy; nguồn gốc đích thực của hình sao năm cánh thực sự linh thiêng.

“Tôi cam đoan với ông”, Langdon nói, “dù ông nhìn thấy bất kỳ điều gì trong các bộ phim, thì cách giải thích mang tính ma quỷ về hình sao năm cánh vẫn là không chính xác về mặt lịch sử. Ý nghĩa nữ tính ban đầu là chính xác, nhưng tính biểu tượng của hình sao năm cánh đã bị bóp méo qua cả thiên niên kỷ.

Trong trường hợp này, là thông qua chém giết”.

“Tôi không chắc là tôi hiểu những điều ông nói”.

Langdon liếc nhìn cây thánh giá của Fache, không biết làm thế nào để diễn đạt ý tiếp theo của mình: “Giáo hội, thưa ông.

Các biểu tượng thường rất lâu bền nhưng biểu tượng hình sao năm cánh đã bị Giáo hội Thiên Chúa giáo La Mã cổ thay đổi.

Như một phần trong chiến dịch của Vatican nhằm tiêu diệt tôn giáo vô thần và cải đạo cho dân chúng sang Thiên Chúa giáo, Giáo hội đã thực thi một chiến dịch bôi nhọ các nam thần và nữ thần ngoại đạo, biến những biểu tượng thần thánh của họ thành ma quỷ”.

“Tiếp tục đi”.

Điều này rất phổ biến trong thời loạn”, Langdon tiếp tục. “Một thế lực mới nổi lên sẽ lấy các biểu tượng đang tồn tại và làm mất giá trị của chúng qua thời gian nhằm xóa đi ý nghĩa của chúng. Trong trận chiến giữa các biểu tượng vô đạo và biểu tượng của Thiên Chúa giáo, những người vô đạo đã thua; chiếc đinh ba của thần biển trở thành cái chĩa của quỷ, cái mũ nhọn của bà già thông thái trở thành biểu tượng của một phù thủy, và hình sao năm cánh của thần Vệ nữ trở thành một dấu hiệu của ma quỷ”. Langdon dừng lại. “Thật không may, quân đội Mỹ cũng hiểu sai hình sao năm cánh; giờ đây nó trở thành biểu tượng hàng đầu của chiến tranh. Chúng tôi vẽ nó trên tất cả các máy bay chiến đấu và gắn nó trên vai của mọi tướng lĩnh của chúng tôi”. Chừng ấy điều xâm phạm đối với nữ thần tình yêu và sắc đẹp”.

“Hay đấy”, Fache hất đầu về phía cái xác nằm dang tay dang chân. “Còn vị trí của thi thể thì sao? ông nghĩ gì về điều đó?”.

Langdon nhún vai: “Vị trí chỉ đơn giản là để củng cố thêm gợi ý về hình sao năm cánh và tính nữ thiêng liêng”.

Vẻ mặt Fache sa sầm: “Làm ơn nhắc lại giùm?”.

“Bản sao. Việc nhắc lại một biểu tượng là cách đơn giản nhất để tăng cường ý nghĩa của nó. Jacques Saunière đặt cơ thể mình trong tư thế của hình sao năm cánh”. Nếu một hình sao năm cánh là tốt, thì hai là tốt hơn”.

Mắt Fache nhìn theo năm đỉnh tay, chân, đầu của Saunière trong khi tay ông ta vuốt mái tóc trơn bóng. “Một sự phân tích thú vị”. Ông ta dừng lại. “Còn tình trạng lõa thể” Ông ta làu bàu khi nói từ này, vẻ ghê tởm cơ thể của một người đàn ông có tuổi. “Tại sao ông ấy lại cởi hết quần áo ra?”.

Câu hỏi quá hay, Langdon nghĩ. Ông cũng đã tự hỏi như vậy từ lúc đầu tiên nhìn thấy bức ảnh polaroid. Phỏng đoán có lý nhất của ông là một hình người khỏa thân là một dạng biểu hiện khác của thần Vệ nữ – nữ thần của dục tính con người. Mặc dù văn hóa hiện đại đã xóa đi đa phần quan niệm gắn Vệ nữ với sự hòa hợp thể xác nam – nữ, một con mắt sắc bén về từ nguyên vẫn sc phát hiện ra dấu tích ý nghĩa ban đầu của Vệ nữ trong từ venereal (1). Langdon quyết định không nói đến điều đó.

“Ông Fache, tôi thực sự không thể nói cho ông biết tại sao ông Saunière lại vẽ biểu tượng đó trên người mình hay tại sao ông ấy lại xếp mình theo tư thế đó, nhưng tôi có thể nói với ông rằng một người như Jacques Saunière ắt coi hình sao năm cánh là biểu tượng của nữ thần. Sự tương quan giữa biểu tượng này và tính nữ thiêng liêng được biết đến rộng rãi bởi các sử gia tôn giáo và các nhà ký tượng học”.

“Tốt. Còn chuyện ông ấy dùng máu mình làm mực viết?”.

“Chắc chắn là do ông ấy không có gì khác để viết”.

Fache im lặng trong giây lát: “Thực ra tôi chắc ông ấy dùng máu như vậy để cảnh sát có thể theo một số quy trình pháp lý”.

“Xin lỗi, tôi không hiểu?”.

“Hãy nhìn tay trái của ông ấy”.

Mắt Langdon rà suốt chiều dài cánh tay cho đến bàn tay trái trắng trợt của ông phụ trách bảo tàng nhưng chẳng thấy gì.

Không chắc chắn, ông đi vòng quanh xác chết và cúi xuống, ngạc nhiên nhận thấy ông ta nắm chặt một chiếc bút dạ lớn.

“Nó ở trong tay Saunière khi chúng tôi tìm thấy ông ta”.

Fache nói, rời khỏi Langdon và đi vài mét về phía một cái bàn xách tay bầy đầy các dụng cụ điều tra, các dây cáp, và các đồ điện. “Như tôi đã nói với ông”, ông ta nói, lục tung cái bàn, chúng tôi không động vào bất kỳ vật gì. Ông có biết loại bút này không?”.

Langdon quỳ xuống thấp hơn để nhìn thấy nhãn của cây bút.

STYLO DE LUMLÈRE NOIRE.(2)

Ông ngạc nhiên ngước nhìn.

Bút dùng tia tử ngoại dạng đặc biệt của bút dấu ban đầu được thiết kế bởi các bảo tàng, các nhà phục chế, và cảnh sát chống hàng giả để vạch những dấu không thể nhìn thấy trên hiện vật. Bút này viết bằng mực huỳnh quang làm từ cồn, không ăn mòn và chỉ có thể nhìn thấy dưới tia tử ngoại. Ngày nay, nhân viên bảo quản của các bảo tàng mang theo bút này trên đường đi kiểm tra hàng ngày để đánh những “dấu kiềm” vô hình trên khung của các bức tranh cần sửa chữa.

Khi Langdon đứng lên, Fache tiến về phía bóng đèn và tắt đi. Căn phòng chìm vào bóng tối.

Loá mắt trong chốc lát, Langdon cảm thấy một nỗi hồ nghi dâng lên. Bóng Fache hiện ra, rực trong ánh hồng nhạt. Ông ta tiến đến, mang theo một ngọn đèn xách tay, bao quanh ông ta một vầng tím.

“Như ông có thể cũng biết”, Fache nói, “Mắt ông ta phát quang trong ánh sáng màu tím, cảnh sát dùng tia tử ngoại nghiên cứu hiện trường vụ án để tìm máu và các chứng cứ pháp lý khác. Vì thế ông có thể tưởng tượng ra sự kinh ngạc của chúng tôi…”. Ông ta chĩa phắt ngọn đèn về phía xác chết.

Langdon nhìn xuống và giật lùi lại vì sốc.

Tim ông đập dồn dập khi nhìn vào cảnh tượng kỳ quái đang rực lên trước mắt trên sàn gỗ. Những dòng chữ nguệch ngoạc cuối cùng của ông phụ trách bảo tàng, viết bằng mực phát quang, giờ chuyển sang màu tía bên cạnh xác ông. Khi Langdon nhìn vào những dòng chữ lờ mờ, ông cảm thấy màn sương bao trùm buổi tối hôm nay đang dày thêm lên..

Langdon đọc lại lời nhắn và ngước nhìn Fache: “Điều này nghĩa là thế nào?”.

Mắt Fache long lanh: “Điều đó, thưa ông, chính xác là câu hỏi mà ông có mặt ở đây để giải đáp”.

Cách đó không xa, trong văn phòng của Saunière, trung úy Collet đã trở lại Louvre và đang lúi húi trên bảng điều khiển âm thanh đặt trên cái bàn đồ sộ của ông phụ trách bảo tàng.

Ngoại trừ cái mô hình chàng hiệp sĩ thời trung cổ, kỳ bí và giống như rô-bốt, đang nhìn chằm chằm vào mình từ góc bàn, Collet thấy rất thoải mái. Anh điều chỉnh ống nghe và kiểm tra đầu vào trên hệ thống ghi âm đĩa cứng. Cả hệ thống đều chạy tốt. Micro hoạt động hoàn hảo và tiếng trong veo.

Le moment de virite(3) , anh lẩm bẩm.

Mỉm cười, Collet nhắm mắt và ngồi yên lắng nghe phần còn lại của cuộc đối thoại đang được ghi âm trong Hành Lang Lớn.

Chú thích

(1) Liên quan đến giao hợp

(2) Bút máy dùng tia tử ngoại.

(3) Tiếng Pháp trong nguyên bản: Thời điểm của chân lý.

Bình luận
× sticky