Đêm đã buông xuống Rosslyn.
Robert Langdon đứng một mình ngoài hiên ngôi nhà, thích thú nghe tiếng cười cùng những thanh âm của niềm vui đoàn tụ vẳng qua khung cửa che rèm đằng sau ông. Cốc cà phê Brazil đặc sánh trong tay đã khiến ông mơ hồ cảm thấy như tạm thời nguôi đi cơn mệt lử đang dâng lên trong mình, tuy nhiên ông biết đó chỉ là thoáng qua thôi. Sự mệt nhọc trong cơ thể ông đã ăn vào xương tủy rồi.
“Ông lẻn ra ngoài thật lặng lẽ”, một giọng nói vang lên phía sau ông.
Langdon quay lại. Người bà của Sophie hiện ra, mái tóc bạc ánh lên mờ mờ trong đêm. Tên bà, chí ít trong hai mươi tám năm qua, là Marie Chauvel.
Langdon nớ một nụ cười mệt mỏi: “Tôi nghĩ tôi nên để gia đình ta có thời gian sum vầy một chút”. Qua khung cửa sổ, ông có thể thấy Sophie đang nói chuyện với em trai.
Marie tiến lại và đứng cạnh ông: “Ông Langdon, khi mới thoạt nghe tin Jacques bị giết hại, tôi đã khiếp đảm, sợ cho sự an toàn của Sophie. Tối nay, thấy nó đứng trong khung cửa nhà tôi đó là nỗi nguôi dịu lớn nhất của đời tôi. Tôi khó có thể bày tỏ hết lòng biết ơn đối với ông”.
Langdon không biết phải đáp lại như thế nào. Mặc dù ông đã tự nguyện để cho hai bà cháu có thời gian trò chuyện riêng, Marie đã đề nghị ông ở lại cùng nghe. Chồng tôi rõ ràng đã tin cậy ông, ông Langdon, cho nên tôi cũng thế.
Và vì thế Langdon đã ở lại, đứng bên cạnh Sophie và lắng nghe trong bàng hoàng câm lặng khi Marie kể chuyện về cha mẹ quá cố của Sophie. Kì lạ thay, cả hai đều xuất thân từ những gia đình Merovinge – hậu duệ trực hệ của Mary Magdalene và Jesus Christ. Cha mẹ và tổ tiên của Sophie, để tự bảo vệ, đã dổi họ là Plantard và Saint-Clair. Con cái họ hiện tại là những người trực hệ mang dòng máu hoàng gia còn sống sót và vì vậy được Tu viện Sion bảo vệ sát xao. Khi bố mẹ Sophie bị giết trong một tai nạn ô tô không xác định được nguyên nhân, Tu viện Sion sợ rằng nhân thân của dòng dõi hoàng gia đã bị phát hiện.
“Ông cháu và bà”, Marie giải thích bằng một giọng nghẹn ngào đau đớn, “phải có một quyết định nghiêm trọng ngay lúc nhận được cú điện thoại. Chiếc xe của bố mẹ cháu vừa được tìm thấy dưới sông”. Bà chấm nước mắt. “Cả sáu chúng ta – gồm cả hai cháu – đã định đi cùng nhau trên chiếc xe đêm đó.
May sao, ông bà đã thay đối kế hoạch vào phút chót, thành thử chỉ còn mình cha mẹ cháu. Khi nghe tin về tai nạn đó, ông bà chẳng có cách nào để biết được điều gì đã thực sự xảy ra… liệu đây có phải là một tai nạn thực sự hay không”. Marie nhìn Sophie. “Ông bà biết là phải bảo vệ các cháu và ông bà đã làm điều mà ông bà cho là tốt nhất. Ông cháu báo cáo với cảnh sát là bà và em trai cháu cũng ở trong chiếc xe đó… và có vẻ như thi thể của hai bà cháu đã bị dòng nước cuốn đi. Sau đó, hai bà cháu phải lặn vào bí mật với Tu viện. Ông cháu, vốn là một nhân vật nổi bật, chẳng thể lặng lẽ biến đi. Chỉ có chuyện đứa con lớn Sophie ở lại Paris để Jacques nuôi dạy, gần kề trái tim và sự bảo vệ của Tu viện Sion, là nghe có lý”. Giọng bà nhỏ dần thành một tiếng thì thầm: “Xé lẻ gia đình là điều cực nhất mà chúng ta từng phải làm. Ông bà họa hoằn lắm mới gặp nhau, mà bao giờ cũng phải bố trí hết sức bí mật… dưới sự bảo vệ của Tu viện Sion. Có một số nghi lễ mà hội luôn luôn phải tuân thủ”.
Langdon cảm thấy câu chuyện còn đi sâu hơn nữa, nhưng ông cũng cảm thấy mình không có phận sự phải nghe. Vì thế ông đã bước ra ngoài. Giờ đây nhìn lên những ngọn tháp của Rosslyn, Langdon không sao thoát khỏi nỗi nhay nhứt khoan sâu của điều bí ẩn chưa giải được của Rosslyn. Có phải Chén Thánh thực sự ở Rosslyn không? Và nếu vậy, thì lưỡi dao và chiếc ly mà Saunière đề cập đến trong bài thơ của ông nằm ở đâu?
“Ông đưa cho tôi”, Marie nói, chỉ vào bàn tay Langdon.
“Ôi cảm ơn bà”, Langdon đưa ly cà phê đã hết cho bà cụ.
Bà đăm đăm nhìn ông: “Tôi chỉ bàn tay kia cơ, ông Langdon”.
Langdon nhìn xuống và nhận ra mình đang giữ tờ giấy sậy papyrus của Saunière. Ông đã lấy nó ra một lần nữa từ hộp mật mã với hy vọng thấy ra điều gì đó đã bị bỏ qua trước đây. “Dĩ nhiên rồi, tôi xin lỗi”.
Marie có vẻ thích thú khi cầm tờ giấy: “Tôi biết một người trong một nhà băng ở Paris có lẽ rất thiết tha muốn thấy sự trở lại của chiếc hộp gỗ hồng mộc này. André Vernet là một người bạn thân của Jacques, còn Jacques rõ ràng là tin ông ta thực lòng. André ắt sẽ làm bất cứ điều gì để thực hiện những yêu cầu của Jacques về việc giữ gìn chiếc hộp này”.
Kể cả vệc bắn tôi, Langdon nhớ lại, quyết định không nhắc đến chuyện ông có thể đã đập vỡ mũi ông già tội nghiệp đó.
Nghĩ về Paris, Langdon sực nhớ đến ba ssénéchal bị giết đêm hôm trước. “Còn Tu viện Sion? Giờ đây ra sao rồi?”.
“Các bánh xe đã chuyển động, ông Langdon ạ. Hội kín này đã chịu đựng suốt bao thế kỷ, và sẽ chịu đựng được đòn này.
Bao giờ cũng có những người chờ đợi để tiến lên xây dựng lại”.
Suốt tối Langdon đã ngờ ngợ rằng bà của Sophie gắn bó chặt chẽ với những hoạt động của Tu viện Sion. Xét cho cùng, Tu viện Sion luôn có những thành viên nữ. Đã có bốn Đại Sư là phụ nữ. Theo truyền thống, các ssénéchal là nam – những người bảo vệ – tuy nhiên phụ nữ cũng nắm giữ những cương vị tôn quý hơn nhiều trong Tu viện Sion và hầu như có thể từ bất kỳ thứ bậc nào tiến lên tới địa vị cao nhất.
Langdon nghĩ với Leigh Teabing và Tu viện Wesminster.
Dường như đã cách đây cả một đời người vậy. “Có phải Giáo hội đang gây áp lực để chồng bà không công bố những tài liệu Sangreal vào Ngày Tận thế không?”.
“Chúa ơi, không. Ngày Tận thế là một truyền thuyết của những đầu óc hoang tưởng. Trong học thuyết của Tu viện Sion, chẳng có gì chỉ định đến ngày nào Chén Thánh sẽ được tiết lộ.
Thực ra Tu viện Sion luôn luôn bảo đảm rằng Chén Thánh sẽ không bao giờ được tiết lộ cả”.
“Không bao giờ ư?” Langdon sửng sốt.
“Đó là điều bí ẩn và kỳ diệu nâng đỡ tâm hồn chúng tôi, chứ không phải bản thân Chén Thánh. Vẻ đẹp của Chén Thánh nằm trong bản chất cao cả của nó”. Marie Chauvel nhìn lên Rosslyn. “Đối với một số người, Chén Thánh là một cái ly mang đến cho họ một cuộc sống vĩnh cửu. Đối với một số khác, đó là cuộc tìm kiếm những tài liệu thất lạc và lịch sử bí mật. Còn đối với đa số, tôi ngờ rằng Chén Thánh chỉ đơn giản là một ý tưởng cao cả… một kho báu huy hoàng không thể đạt tới mà, ngay cả trong thế giới hỗn mang ngày nay, cách nào đó, nó vẫn làm chúng ta nức lòng”.
“Nhưng nếu tài liệu Sangreal vẫn bị giấu kín, thì câu chuyện của Mary Magdalene sẽ mãi mãi mất đi”, Langdon nói.
“Thật không? Hãy nhìn xung quanh ông xem! Câu chuyện của nàng đang được kể trong nghệ thuật, âm nhạc, và những cuốn sách. Mỗi ngày một nhiều hơn. Quả lắc vẫn đang đung đưa. Chúng ta đang bắt đầu cảm thấy những mối nguy hiểm của lịch sử của chúng ta… và của những con đường hủy diệt của chúng ta. Chúng ta đang bắt đầu cảm thấy cần thiết phải khôi phục lại nữ tính thiêng liêng”. Bà dừng lại. “Ông có nói là ông đang viết một bản thảo về những biểu tượng của tính nữ thiêng liêng, phải không?”.
“Vâng”.
Bà mỉm cười: “Viết nốt đi, ông Langdon. Hãy hát bài hát của nàng. Thế giới cần những người hát rong hiện đại đấy”.
Langdon im lặng, cảm nhận được sức nặng của bức thông điệp của bà đối với mình. Qua những khoảng không rộng mở, một vầng trăng tròn đầy đang lên trên những rặng cây. Quay mắt về phía Rosslyn, Langdon cảm thấy một nỗi khao khát trẻ thơ muốn biết những bí mật của nhà thờ này. Dừng hỏi, ông tự nhủ. Đây không phải lúc. Ông liếc nhìn tờ giấy papyrus trong tay Marie, rồi lại nhìn Rosslyn.
“Cứ hỏi đi, ông Langdon”. Marie nóỉ vẻ vui thích. “Ông có quyền chính đáng mà”.
Langdon cảm thấy mình đỏ mặt.
“Ông muốn biết liệu Chén Thánh có ở Rosslyn không chứ gì?”.
“Bà có thể nói cho tôi biết không?”.
Bà thở dài, giả vờ bực tức: “Tại sao con người ta không thế đơn giản để cho Chén Thánh nghỉ ngơi nhỉ?”. Bà cười to, rõ ràng rất thích thú. “Tại sao ông lại nghĩ nó ở đây nhỉ?”.
Langdon chỉ vào tờ giấy papyrus trong tay bà: “Bài thơ của chồng bà nói rõ ràng cụ thể về Rosslyn, ngoài ra còn nhắc đến một lưỡi dao và chiếc ly canh chừng cho Chén Thánh. Tôi chẳng thấy biểu tượng nào của lưỡi dao và chiếc ly ở đó cả”.
“Lưỡi dao và chiếc ly?” Marie hỏi. “Chính xác ra, nom chúng như thế nào?” Langdon cảm thấy bà cụ đang đùa giỡn với mình, nhưng ông cũng hùa theo, mô tả qua loa những biểu tượng đó.
Vẻ hồi tưởng mơ hồ thoáng qua nét mặt bà: “À, vâng, dĩ nhiên rồi. Lưỡi dao biểu trưng cho tất cả những gì thuộc về đàn ông. Tôi tin nó được vẽ như thế này, đúng không?”. Dùng ngón trỏ, bà phác một hình trên lòng bàn tay mình.
“Vâng!” Langdon nói. Marie đã vẽ hình dạng “dóng” ít thông dụng hơn của lưỡi dao, mặc dù Langdon từng thấy biểu tượng này được vẽ theo cả hai cách.
“Còn dạng đảo ngược”, bà nói, lại vẽ vào lòng bàn tay, “chính là chiếc ly, biểu tượng cho tính nữ”.
“Đúng”, Langdon nói.
Và ông nói rằng trong tất cả hàng trăm biểu tượng chúng ta thấy ở đây trong nhà thờ nhỏ Rosslyn, thì hai hình này chẳng xuất hiện ở đâu ư?”.
“Tôi chưa thấy chúng”.
“Và nếu tôi chỉ ra cho ông thấy, thì ông có chịu ngủ một chút không?”.
Trước khi Langdon kịp trả lời, Marie Chauvel đã bước ra khỏi cổng và hướng về phía nhà thờ nhỏ. Langdon vội vã đi theo bà. Bước vào tòa nhà cổ, Marie bật đèn và chỉ vào trung tâm của sàn chính điện. “Đây, thưa ông Langdon. Lưỡi dao và chiếc ly”.
Langdon trân trân nhìn sàn bằng đá mòn vẹt vì bao dấu chân. Trống trơn. “Chẳng có gì ở đây cả”.
Marie thở dài và bắt đầu bước theo vệt lối đi nổi tiếng đã mòn theo dấu chân trên sàn nhà thờ, vẫn cái lối đi mà hồi chiều Langdon đã thấy các khách tham quan bước trên đó. Khi mắt ông đã điều chỉnh thích hợp để thấy được cái biểu tượng khổng lồ đó rồi, ông vẫn cảm thấy hoang mang: “Nhưng đó là ngôi sao David…”.
Langdon dừng bặt, câm lặng vì ngỡ ngàng khi chợt nhận ra.
Lưỡi dao và chiếc ly.
Quyện làm một.
Ngôi sao David… sự kết hợp hoàn hảo hoàn hảo của nam và nữ… Con dấu của Solomon… đánh dấu Hậu Điện, nơi được coi là chỗ ở của thần nam và thần nữ – Yahweh và Shekinah.
Langdon cần một phút để thốt nên lời: “Quả là đoạn thơ chỉ tới đây, Rosslyn. Thật hoàn chỉnh, hoàn hảo!”.
Marie mỉm cười: “Hiển nhiên rồi”.
Hàm ý của bà khiến ông rùng mình: “Vậy Chén Thánh ở trong hầm bên dưới chúng ta?”.
Bà cụ cười to: “Chỉ trong tinh thần thôi, một trong những nhiệm vụ cổ xưa nhất của Tu viện Sion là một ngày nào đó phải đưa Chén Thánh trở về quê hương nơi đất Pháp của nó, nơi nó có thể an nghỉ vĩnh hằng. Qua hàng thế kỷ, nó bị tha đi khắp chốn cùng quê để bảo đảm an toàn. Thật bệ rạc. Trách nhiệm của Jacques khi trở thành Đại Sư là khôi phục lại danh dự cho Chén Thánh bằng việc đưa nó trở lại Pháp và xây cho nó một nơi yên nghỉ phù hợp với một nữ hoàng”.
“Và ông ấy đã thành công?”.
Lúc này, nét mặt bà trở nên nghiêm trang: “Ông Langdon, nể tình những gì ông đã làm cho tôi tối nay, và với tư cách là người phụ trách Tập đoàn Rosslyn, tôi có thể nói với ông một cách chắc chắn rằng Chén Thánh không còn ở đây nữa”.
Langdon quyết định gặng thêm: “Nhưng chức năng cúa viên đá đỉnh vòm là chỉ ra nơi ẩn giấu hiện tại của Chén Thánh cơ mà. Tại sao nó lại chỉ tới Rosslyn?”.
“Có thể ông đang đọc sai nghĩa của nó. Nên nhớ rằng Chén Thánh có thể làm người ta lầm lẫn. Như là chồng tôi đã nhầm”.
“Nhưng ông ấy còn có thể rõ ràng cụ thể hơn đến đâu nữa?”.
Langdon hỏi. “Chúng ta đang đứng bên trên một hầm ngầm được đánh dấu bởi lưỡi dao và cái ly, dưới một trần nhà đầy sao, bao quanh bởi nghệ thuật của những Thợ Cả của Hội Tam điểm. Tất thảy đều nói về Rosslyn”.
“Thôi được, để tôi xem đoạn thơ huyền bí này đã”. Bà giở tờ giấy papyrus ra và đọc to đoạn thơ bằng một giọng khoan thai.
Chén Thánh chờ bên dưới Roslin cổ.
Lưỡi dao và chiếc ly canh cửa vào.
Điểm tô bằng nghệ thuật đằm thắm của các bậc thầy.
Cuối cùng Chén nằm an nghỉ dưới bầu trời đầy sao.
Đọc xong, bà đứng im vài giây, cho đến khi một nụ cười thông hiểu nở trên môi bà: “Ôi, Jacques”.
Langdon nhìn bà chờ đợi: “Bà hiểu bài thơ này chứ ạ?”.
“Như ông đã chứng kiến trên sàn nhà thờ, ông Langdon, có nhiều cách nhìn những điều đơn giản”.
Langdon cố sức để hiểu. Mọi thứ về Jacques Saunière dường như đều có hai nghĩa, và Langdon chưa thể nhìn thấy được xa hơn.
Marie ngáp một cách mệt mỏi: “Ông Langdon, tôi sẽ thú nhận với ông một điều. Tôi chưa bao giờ chính thức được biết Chén Thánh hiện đang ở đâu. Nhưng, tất nhiên, tôi đã lấy một người có ảnh hưởng rộng lớn… và cái trực giác phụ nữ của tôi là rất nhạy”.
Langdon định nói nhưng Marie đã tiếp tục: “Tôi lấy làm tiếc là sau bao khó nhọc, ông sẽ phải rời Rosslyn mà chẳng được câu trả lời thực sự nào. Tuy nhiên một cái gì đó mách bảo tôi rằng, rốt cuộc ông sẽ có được điều ông tìm kiếm. Một ngày nào đó nó sẽ bắt hé lộ với ông”. Bà mỉm cười. “Và khi đó, tôi tin rằng ông… có thể giữ bí mật”.
Có tiếng ai đó tới cửa: “Cả hai người đều biến mất”, Sophie nói rồi đi vào.
“Ta định đi đây”, người bà đáp lại và đi tới chỗ Sophie đang đứng ở cửa. “Ngủ ngon nhé, công chúa”. Bà hôn lên trán Sophie. “Đừng để ông Langdon ở bên ngoài quá khuya nhé”.
Langdon và Sophie nhìn bà đi trở về phía ngôi nhà đá. Khi Sophie quay lại phía ông, mắt cô ướt đẫm trong niềm xúc động sâu xa: “Không hẳn là cái kết cục mà tôi mong đợi”.
Điều đó tạo nên hai chúng ta, ông nghĩ. Langdon có thể thấy cô tràn ngập xúc động. Cái tin cô nhận được tối nay đã thay đổi mọi thứ trong cuộc đời cô. “Cô ổn chứ? Có quá nhiều điều để tiếp nhận”.
Cô mỉm cười lặng lẽ: “Tôi có một gia đình. Đó là điểm xuất phát sắp tới của tôi. Chúng ta là ai và chúng ta từ đâu tới, trả lời câu hỏi này cũng sẽ mất chút thời gian đấy”.
Langdon im lặng.
Ngoài buổi tối nay, anh có ở với chúng tôi nữa không?.
Sophie hỏi. “Ít nhất là một vài ngày chứ?”.
Langdon thở dài, chẳng muốn gì hơn nữa. “Cô cần ở đây với gia đình một thời gian, Sophie ạ. Tôi sẽ về Paris vào sáng mai”.
Cô có vẻ thất vọng nhưng dường như biết làm thế là phải.
Hồi lâu, cả hai đều chẳng nói gì. Cuối cùng Sophie với tay ra nắm lấy tay Langdon và dẫn ông ra khỏi nhà thờ. Họ tới một gò nhỏ trên đầu dốc. Từ đây, vùng quê Scotland trải ra trước mắt họ, tràn ngập ánh trăng nhợt nhạt lọc qua những đám mây lang thang. Họ đứng lặng lẽ, nắm tay nhau, cả hai đều đang chống lại cơn mệt rã rời như một tấm màn đang chụp xuống.
Sao mới chỉ lác đác xuất hiện, nhưng ở phía tây, một điểm sáng đơn lẻ bừng sáng hơn tất cả. Langdon mỉm cười khi nhìn thấy nó. Đó là Sao Kim. Nữ thần cổ xưa đã chiếu xuống Trái đất ánh sáng kiên định và nhẫn nại của mình.
Đêm trở nên lạnh hơn, một làn gió khô lạnh cuộn lên tử mặt đất Langdon nhìn sang Sophie. Đôi mắt cô nhắm lại, đôi môi thư thái nở một nụ cười mãn nguyện. Langdon cảm thấy mắt mình nặng trĩu. Miễn cưỡng, ông bóp mạnh tay cô: “Sophie?”.
Cô từ từ mở mắt và quay sang ông. Dưới ánh trăng, mặt cô thật đẹp. Cô mỉm cười với ông, vẻ buồn ngủ: “Xin chào”.
Langdon cảm thấy một nỗi buồn bất ngờ khi nhận ra rằng ông sẽ quay về Paris mà không có cô: “Có lẽ tôi sẽ đi trước khi cô dậy”. Ông dừng lại, cổ tắc nghẹn. “Xin lỗi, em không giỏi lắm về…”.
Sophie với ra, đặt bàn tay mềm mại lên một bên mặt ông.
Rồi rướn người, âu yếm hôn má ông. “Bao giờ tôi lại có thể gặp lại anh?”.
Trong thoáng chốc, Langdon lảo đảo, lạc trong mắt cô: “Bao giờ nhỉ?”, ông dừng lại, rất muốn biết liệu cô có hiểu là chính ông cũng tự hỏi như thế với bao trăn trở. “À, thực ra, tháng tới tôi sẽ thuyết trình tại một hội nghị ở Florence. Tôi sẽ ở đó một tuần, chẳng có mấy việc để làm”.
“Đó là một lời mời?”.
“Chúng ta sẽ sống trong xa hoa. Họ dành cho tôi một phòng ờ Brunelleschi”.
Sophie mỉm cười tinh nghịch: “Ngài mạo muội quá đấy, ngài Langdon”.
Ông co rúm người không biết mình đã thất thố tới mức nào: “Ý của tôi là…”.
“Em không mong gì hơn là được gặp anh ở Florence, Robert.
Nhưng mà với một điều kiện”, giọng cô chuyển sang nghiêm túc “không bảo tàng, không nhà thờ, không lăng mộ, không nghệ thuật, thánh tích gì hết”.
“Ở Florence? Cả một tuần? Chẳng có gì khác để làm”.
Sophie ngả người ra trước và lại hôn ông, lần này lên môi.
Thân thể họ hòa vào nhau, đầu tiên là nhẹ nhàng, rồi sau đó trọn vẹn. Khi buông ra, đôi mắt cô tràn đầy hứa hẹn.
“Phải”, Langdon thết được nên lời, “đây là một cuộc hẹn”.
Đoạn kết Robert Langdon giật mình tỉnh dậy. Ông vừa trải qua một giấc mơ. Chiếc áo choàng tắm cạnh giường ngủ có in hình chữ lồng Khách sạn Ritz – Paris. Ông thấy ánh sáng lờ mờ lọc qua mành. Bình minh hay hoàng hôn đây nhỉ, ông tự hỏi.
Langdon cảm thấy toàn thân ấm áp và thỏa mãn sâu sắc. Ông đã ngủ phần lớn thời gian trong hai ngày qua. Chậm rãi ngồi dậy trên giường, ông nhận ra điều gì đã đánh thức ông… một ý nghĩ hết sức kì lạ. Suốt nhiều ngày, ông đã cố gắng sắp xếp phân minh cả một mớ thông tin, nhưng bây giờ Langdon nhận thấy mình đã cố định được một điều mà trước đó ông không hề xét đến.
Có thể là thế không?
Ông ngồi nguyên không động đậy hồi lâu.
Ra khỏi giường, ông đi tới phòng tắm lát đá hoa. Bước vào, ông để những tia nước mạnh xoa bóp bờ vai. Ý nghĩ nọ vẫn làm ông say mê.
Không thể thế được.
Hai mươi phút sau, Langdon ra khỏi khách sạn Ritz đến Quảng trường Vendome. Đêm đang buông xuống. Những ngày ngủ làm ông mất phương hướng… Ấy vậy mà trí óc ông lại sáng suốt lạ lùng. Ông đã định bụng dừng lại ở sảnh khách sạn, uống tách cà phê sữa cho tỉnh táo, nhưng thay vì điều đó, đôì chân cứ đưa thẳng ông ra cửa để hoà vào cuộc sống ban đêm ở Paris.
Xuôi về phía đông trên phố Petits Champs, Langdon cảm thấy sự phấn chấn tăng lên. Ông quay về phía nam trên phố Richelieu, nơi không khí trở nên dịu ngọt với hương hoa nhài toả ra từ những khu vườn uy nghi của Cung điện Hoàng gia.
Ông tiếp tục đi về phía nam cho đến khi thấy cái mà ông đang tìm kiếm – hành lang thương mại Hoàng gia nổi tiếng – một vùng long lanh lát đá cẩm thạch đen bóng loáng. Bước đi trên đó, Langdon rà soát bề mặt dưới chân mình. Chỉ trong vài giây, ông đã tìm thấy điều mà ông biết có ở đây – mấy hình huy chương đồng lớn gắn chặt dưới nền theo một đường thẳng hoàn hảo. Mỗi chiếc đĩa có đường kính khoảng 8 cm và được khắc nổi hai chữ N và S.
Nod. Sud.(1)
Ông quay về phía nam, lia mắt kéo dài đường thắng tạo nên bởi những hình huy chương. Ông lại bắt đầu di chuyển theo vệt đường ấy, vừa đi vừa quan sát vỉa hè. Khi ông cắt ngang góc phố Comedie-Francaise, một hình huy chương đồng khác nổi lên dưới chân ông. Đúng rồi!
Những đường phố Paris – điều này Langdon đã biết từ nhiều năm trước – được đánh dấu bằng 135 hình huy chương đồng như thế, gắn trên những lề đường, sân và phố, theo một trục bắc – nam xuyên suốt thành phố. Một lần ông từng theo đường vạch này từ nhà thờ Sacre-Coeur, phía bắc bên kia sông Seine và cuối cùng tới một đài Thiên văn cổ ở Paris. Ở đó, ông phát hiện được ý nghĩa của con đường linh thiêng nó đã vạch ra.
Kinh tuyến gốc quan trọng nhất trái là:
Kinh độ 0 đầu tiên của thế giới.
Đường Hoa hồng cổ xưa của Paris.
Lúc này, khi rảo bước qua phố Rivoli, Langdon có thể cảm nhận được điểm đến trong tầm tay. Cách không đầy một khối nhà.
Chén Thánh chờ bên dưới Rosslin cổ.
Giờ đây những phát hiện ào đến như những đợt sóng.
Saunière viết từ Rosslyn theo chính tả cổ xưa… lưỡi dao và chiếc ly ngôi mộ trang trí bằng nghệ thuật của các thợ cả bậc thầy.
Đó phải chăng đó là lí do khiến Saunière cần nói chuyện với mình?
Mình đã đoá ra sự thật một cách vô thức chăng?
Ông chuyển sang chạy bộ, cảm thấy Đường Hoa hồng dưới chân đang dẫn lối, đưa ông đến đích. Khi đi vào đường hầm dài của Passage Richelieu, tóc gáy ông dựng lên vì dự cảm. Ông biết ở cuối đường hầm này, sừng sững đài tưởng niệm bí ẩn nhất trong các tượng đài ở Paris – do chính Nhân Sư Francois Mitterrand đề xướng và đặt hàng xây dựng, người mà nghe đồn là có tham gia sinh hoạt trong những giới bí mật, người mà di sản cuối cùng để lại cho Paris là nơi Langdon tới thăm chỉ mới vài ngày trước đó.
Lạ một quãng thời gian bằng cả một trời người.
Với một trào dâng cuối cùng của nghị lực, Langdon phăng phăng từ đường hầm lao vào chiếc sân quen thuộc và dừng lại.
Hổn hển thở không ra hơi, ông từ từ ngước mắt nhìn lên công trình kiến trúc long lanh trước mặt mình, lòng vẫn chưa tin.
Kim tự tháp Louvre.
Lung linh trong đêm tối.
Ông chỉ chiêm ngưỡng nó trong chốc lát. Ông quan tâm hơn tới cái được đặt ở phía bên phải. Quay đi, ông lại cảm thấy chân mình lần theo vệt đường mòn vô hình của Đường Hoa hồng cổ xưa, đưa ông qua sân tới Carrousel du Louvre – cái vòng tròn cỏ khổng lồ, xung quanh những hàng rào cắt tỉa gọn gàng – xưa là nơi diễn ra những lễ hội ban sơ thờ thiên nhiên… những lễ thức hân hoan chào mừng Nữ thần và sự phồn thực.
Langdon cảm thấy như đang bước sang một thế giới khác khi băng qua những lùm cây bụi tới bãi cỏ bên trong. Khu đất thánh hóa này giờ đây được đánh dấu bằng một trong những đài tưởng niệm phi thường nhất của thành phố. Tại đây, ngay trung tâm, tựa như một kẽ nứt bằng pha lê đâm thẳng vào đất, chiếc Kim tự tháp đảo ngược bằng thủy tinh ngoác miệng ra, mấy đêm trước ông đã thấy nó khi đi vào đường ngầm nằm dưới mặt đất của Louvre.
La Pyramidc Renvercée.(2)
Run rẩy, Langdon đi tới rìa ngó xuống tổ hợp trải dài dưới đất của Louvre rực lên ánh sáng hổ phách. Mắt ông không chỉ nhằm vào cái Kim tự tháp đảo ngược to lớn kia, mà vào cái nằm ngay bên dưới nó. Ở đó, trên nền của phòng bên dưới, có công trình kiến trúc nhỏ nhất… một cấu trúc mà Langdon đã từng đề cập tới trong bản thảo của mình.
Giờ đây Langdon cảm thấy mình hoàn toàn tỉnh táo đón nhận nỗi rạo rực của cái khả năng khôn lường. Lại ngước nhìn Louvre, ông cảm nhận được các cánh khổng lồ của bảo tàng bao bọc lấy mình… những hành lang lúp búp đầy những nghệ thuật tuyệt tác nhất của thế giới.
Da Vinci… Botticelli…
Điểm tô bằng nghệ thuật đằm thắm của các bậc thày.
Lòng đầy ngỡ ngàng, ông đăm đăm nhìn một lần nữa qua kính vào cái cấu trúc nhỏ xíu bên dưới.
Ta phải xuống đó!
Bước ra khỏi vòng tròn, ông vội vã đi qua sân hướng về phía lối vào Kim tự tháp của Louvre. Những khách tham quan cuối cùng trong ngày đang lục tục ra khỏi bảo tàng.
Dấn qua cánh cửa xoay, Langdon đi xuống cầu thang vòng để vào Kim tự tháp. Ông có thể cảm nhận được không khí trở nên lạnh hơn. Khi xuống tới đáy, ông chui vào đường hầm trải dài bên dưới sân Louvre, quay trở về phía La Pyramidc Renvercée.
Ra khỏi đường hầm, ông bước vào một phòng lớn. Thẳng trước mặt ông, lung linh từ trên cao rủ xuống chiếc Kim tự tháp đảo ngược – một đường viền kính hình chữ V đáng kinh ngạc.
Chiếc ly.
Langdon đưa mắt theo hình hẹp dẫn về phía dưới xuống tới chóp nhọn của nó, lơ lửng chỉ cách sàn không đầy hai mét. Ở đó, ngay bên dưới nó, có một cấu trúc nhỏ xíu.
Một Kim tự tháp mini. Nó chỉ cao gần một mét. Đó là cấu trúc duy nhất trong tổ hợp khổng lồ này được xây dựng theo một tỷ lệ nhỏ.
Bản thảo của Langdon, khi bàn về bộ sưu tập công phu về nghệ thuật liên quan đến nữ thần của Louvre, đã ghi chú qua về chiếc Kim tự tháp khiêm tốn này.
Bản thân cấu trúc mini này nhô ra khỏi sàn như thể nó là chóp nhọn của một tảng núi băng – đỉnh của một hầm ngầm rất lớn hình chóp chìm bên dưới như một phòng bí mật.
Được chiếu bằng ánh sáng dịu nhẹ của khoang hầm vắng vẻ, hai chiếc Kim tự tháp châu đầu vào nhau, thân chúng hoàn toàn thẳng hàng, chóp gần như chạm nhau.
Chiếc ly ở trên. Lưỡi dao ở dưới.
Lưỡi dao và chiếc ly canh cửa vào.
Langdon lắng nghe từng lời của Marie Chauvel. “Một ngày nào đó nó sẽ hé lộ với ông.
Ông đang đứng bên dưới Đường Hoa hồng cổ xưa, được bao quanh bởi tác phẩm của những bậc thầy. Còn có nơi nào tốt hơn cho Saunière để canh giữ. Cuối cùng giờ đây, ông cảm thấy mình đã hiểu ý nghĩa thực sự của đoạn thơ của vị Đại Sư. Ngước mắt lên nhìn qua lớp kính, ông ngắm bầu trời đêm rực rỡ đầy sao.
Cuối cùng Chén nằm nghỉ dưới bầu trời đầy sao.
Tựa như tiếng rì rầm của những linh hồn trong bóng tối, những lời bị lãng quên vọng lại. Việc tìm kiếm Ché Thánh là cuộc tìm kiếm để được quỳ gối trước di hài của Mary Magdalene. Một cuộc hành trình để nguyện cầu dưới chân một kẻ bị ruồng bỏ.
Với một niềm tôn kính trào dâng đột ngột, Robert Langdon quì xuống.
Trong thoáng chốc, ông tưởng như nghe thấy giọng nói của một người phụ nữ… sự thông tuệ của bao thế kỉ… đang thì thầm cất lên từ những kẽ nứt dưới lòng đất.
Chú thích:
(1) Tiếng Pháp trong nguyên bản: Bắc. Nam.
(2) Tiếng Pháp trong nguyên bản: Kim tự tháp đảo ngược.
Hết