TUYỆT SÁT
Tây xuất Dương quan, gió Bắc thổi cắt vào mặt, tuyết trắng tung bay.
Thành môn vừa mở, một toán người đã từ trong quan nội lao vút ra như những tia chớp. Người như hổ, ngựa như rồng, vó sắt tung lên sầm sập, làm cuộn theo một trận gió bụi mù, thẳng tiến về hướng Tây.
“A, nửa đêm hôm qua mới tới Nhạn Môn Quan, trời chưa sáng đã lại xuất phát rồi.” Lão vệ binh già giữ thành lẩm bẩm nói: “Thật là vội vã quá!”
“Là người trong võ lâm mà.” Người tráng đinh trẻ hơn một chút nhìn theo bóng 7 người phía trước, giọng nói pha lẫn chút ngưỡng mộ: “Đều đeo kiếm cả!”
Trong vòng 3 ngày, bọn Hoắc Triển Bạch 7 người từ Đỉnh Kiếm các ở Trung Nguyên ngày đêm phóng ngựa ra miền tái ngoại Tây Bắc. Đám ngựa tuy đều là danh mã ngàn con chọn một, song cũng không khỏi mệt đến sùi bọt mép, không thể tiếp tục lên đường.
Hoắc Triển Bạch không thể không để mọi người tạm thời nghỉ ngơi, liên lạc với các nhân sĩ Võ Minh Tây Bắc, đổi ngựa ở Nhạn Môn Quan. Cả bọn không đợi trời sáng đã lại động thân xuất quan, thẳng tiến về phía Côn Luân sơn.
Gió lạnh rít lên từng cơn ập tới, đường cái quan không một bóng người, Hoắc Triển Bạch quay lại ngóng nhìn Nhạn Môn Quan ở xa tít phía sau, thở ra một hơi nhè nhẹ.
Ra khỏi quan ải này, là bắt đầu tiến vào phạm vi thế lực của Đại Quang Minh cung ở Tây Vực rồi.
Lần này Đỉnh Kiếm các dốc toàn lực phái ra toàn bộ Bát Kiếm, nhân lúc Ma giáo nội loạn mà nội ứng ngoại hợp, hòng nhất cử triệt hạ lực lượng đối địch này.
Là một trong những nhân vật kiết xuất nhất của võ lâm đương đại, gã không thể đổ cho người khác mà phải đưa vai ra gánh lấy trọng trách này,dẫn theo lục kiếm còn lại ngàn dặm bôn ba. Thế nhưng, cứ nghĩ đến người có thể phải đối mặt trong chuyến đi này, lòng gã lại không khỏi ngấm ngầm chấn động.
“Lão thất! Có chuyện!” Đang ngẩn ngơ xuất thần, bên tai gã chợt vang lên tiếng gọi của Hạ Tiên Vũ, cả đoàn người liền đồng thời ghìm cương ngựa lại.
“Gì vậy?” Hoắc Triển Bạch nhảy xuống ngựa, đưa mắt ngước nhìn thì thấy Hạ Tiên Vũ vốn đi trước dò đường đang quay ngựa chạy lại, trên tay xách theo một vật.
“Đoạn Kim Trảm!” Chúng nhân đều giật mình ngạc nhiên, buột miệng thốt lên.
Thanh trảm mã đao to lớn đó là vũ khí thành danh của Đồng Tước, một sát thủ trong Tu La trường. Dựa vào nó, ả đã tung hoành khắp miền Tây Vực, chém giết vô số, vì vậy được xếp vào hàng sát thủ tuyệt đỉnh, trở thành một thành viên của Bát Tuấn – giờ sao lại xuất hiện ở vùng đồng hoang này?
“Phía trước có dấu vết của một trận chiến.” Hạ Tiên Vũ ném thanh trảm mã đao xuống mặt tuyết, hơi thở gấp gáp: “Toàn bộ Bát Tuấn đã bị tiêu diệt tại nơi này!”
“Cái gì?” Tất cả đều ghìm cương ngựa lại, kinh hãi đưa mắt nhìn nhau, rồi nhất loạt nhảy xuống ngựa – Bát Tiấn bị tiêu diệt, đây quả là một tin tức chấn động cả thiên hạ võ lâm!
Chỉ đi thêm tầm hơn ba mươi trượng, bọn họ liền nhìn thấy vết tích của trận chiến bị tuyết trắng che phủ: Truy Điện bị chém đứt tay phải, xuyên thủng lồng ngực; Đồng Tước bị chém chết khá dứt khoát, cổ họng chỉ thấy một đường tơ máu đỏ hồng; Truy Phong, Bạch Thố, Nhiếp Ảnh, Thần Phù, Yên Chi chết trong phương viên tầm ba trượng, ngoài Thần Phù có hiện tượng trúng độc ra, những người còn lại đầu bị mốt kiếm cắt đứt cổ họng mà chết.
Hoắc Triển Bạch thở ra một hơi nhè nhẹ – nhìn những vết thương này, có thể nhận ra là do cùng một người xuất thủ!
“Thật là lợi hại!” Vệ Phong Hành đứng bên cạnh không nén nổi phải lên tiếng, lẩm bẩm: “Không ngờ chỉ với một người, mà đã giết sạch cả Bát Tuấn!”
“Nói không chừng là phục kích đắc thủ cũng nên?” Lão Tam Dương Đình suy đoán.
“Không, chắc chắn là không.” Hoắc Triển Bạch nhặt thanh kiếm Truy Phong dưới đất lên: “Mọi người xem, Phương vị mà bốn người Truy Phong, Nhiếp Ảnh, Thần Phù, Yên Chi ngã xuống, vừa hay phù hợp với trận thế Thiên La Trận của Ma giáo – rất rõ ràng, là ngược lại mới đúng, Bát Tuấn đã có chuẩn bị kỹ càng mới đến đây liên thủ phục kích một người nào đó.”
Mấy vị danh kiếm của Đỉnh Kiếm các nhìn nhau biến sắc – Bát Tuấn liên thủ phục kích mà đều mất mạng ở đây, võ công của người đó quả thật cao đến mức không thể tưởng tượng!
“Người bọn chúng phục kích là ai nhỉ?” Hoắc Triển Bạch lẩm bẩm, nghĩ hoài mà vẫn không thông.
Có thể giết sạch Bát Tuấn trong một lần, người như vậy trong thiên hạ e có thể đếm trên đầu ngón tay. Mà mấy cao thủ tuyệt thế của võ lâm Trung Nguyên thì gần đây có lẽ không ai ra miền tái ngoại này, lại càng không quyết chiến sinh tử với sát thủ Ma giáo ở nơi đồng tuyết hoang vu này làm gì – vậy thì, là người nào có sức mạnh như vậy đây chứ?
“Tìm thấy rồi!” Gã đang trầm ngâm thì chợt nghe tiếng Vệ Phong Hành ở phía trước reo lên.
Hoắc Triển Bạch vội lướt tới, chỉ thấy đối phương rút dưới tuyết ra một thanh kiếm gãy – một thanh kiếm thép xanh hết sức phổ thông, đã bị gãy ở ngay giữa, bên cạnh là thi thể của Phi Phiên đang gục trong tuyết trắng.
“Nhìn dấu hiệu này,” Vệ Phong Hành xoay xoay đốc kiếm, đưa ra trước mặt gã: “Đối phương có lẽ là một trong Ngũ Minh Tử.”
Hoắc Triển Bạch vừa nhìn đã nhận ra trên đốc kiếm có khắc hình ngọn lửa: ngọn lửa có năm lưỡi, lưỡi đầu tiên dài một cách nổi bật – Ma giáo Ngũ Minh Tử lần lượt là: Phong, Thủy, Hỏa, Không, Lực – trong đó, người đứng đầu chính là Diệu Phong sứ.
Gã lặng lẽ gật đầu: “Diệu Phong sứ.”
Không sai, người có thể làm được chuyện này ở Tây Vực, chỉ sợ ngoài kẻ mới tạo phản Đồng ra, cũng chỉ còn có Diệu Phong sứ tu vi cao nhất trong Ngũ Minh Tử mà thôi!
Con người đó, được mệnh danh là “bùa hộ mệnh” của Giáo vương, quanh năm không xuống khỏi núi tuyết, lại càng ít lộ diện ở Trung Nguyên, vì vậy không ai biết được võ công y cao thấp thế nào.
Vậy thì, tại sao Ma giáo lại phái Bát Tuấn đi đối phó Diệu Phong sứ?
“Mọi người lên ngựa, tiếp tục lên đường!” Gã đột nhiên tung mình lên ngựa, hét lớn: “Không thể đợi thêm một giây một khắc nào nữa.”
Đêm đó trên tuyệt đỉnh CÔn Luân, trận tuyết lớn kéo dài nhiều năm nay vẫn rơi liên miên không ngớt.
Trong tuyết, không biết có bao nhiêu người đang mất ngủ.
Trong tiếng gió rú gào, thấp thoáng đâu đây vang lên một âm thanh tựa có tựa không, thê lương mà thần bí, róc rách như nước chảy, rồi tan vào màn đêm tĩnh mịch như cái chết.
Diệu Phong đang chìm đắm trong suy tư bỗng nhiên sực tỉnh, khoác y phục lên mình bước tới trước cửa sổ – song, bầu trời đêm rộng lớn phía trên Đại Quang Minh cung vẫn đen như mực, chỉ có tuyết trắng là mãi không ngừng rơi.
Đó là khúc “Chiết Liễu” của Lâu Lan, lưu truyền rất rộng rãi ở vùng Tây Vực này.
Khúc nhạc quen thuộc đó… đã chôn vùi trong ký ức y cũng sắp được 20 năm rồi chăng? Lẽ nào, ở Đại Quang Minh cung này cũng có người đồng tộc?
Thử dạ tiêu trung văn Chiết Liễu
(Đêm nay nghe khúc Chiết Liễu)
Hà nhân bất khởi cố viên tình
(Có ai không nhớ vế quê hương)
Trích trong bài Xuân Dạ Lạc Thành Văn Tiêu (Đêm xuân nghe tiếng tiêu ở Lạc Thành) của Lý Bạch (701 – 762)
Triền núi phía Bắc, Diệu Thủy hạ cây tiêu ngắn xuống, rồi vỗ nhẹ lên đám tuyết trên nấm mộ mới đắp, thở dài một tiếng quay người đi – con chó ngao cuối cùng mà thị nuôi lớn, cuối cùng cũng chết theo đồng loại của nó rồi…
Đám chó ngao này được xưng tụng là vua của vùng đất tuyết, cả đời đều hung mãnh bạo liệt, bất cứ kẻ lạ nào lại gần đều phải chết. Nhưng nếu nó đã nhận ai là chủ, thì sẽ hoàn toàn tin tưởng người đó, cả đời chỉ sống vì chủ nhân – cuộc đời như vậy, hóa ra lại hết sức đơn giản.
Nhưng còn con người? Con người làm sao có thể sống đơn giản như vậy được?
Lục đạo luân hồi, trong muôn vạn chúng sinh, làm người là khổ nhất.
Ngày hôm sau, mây tan tuyết tạnh, là một ngày nắng hiếm thấy trên tuyệt đỉnh Côn Luân này.
“Thời tiết đẹp quá!”
“Phải đó, hiếm khi thấy trời nắng thế này – cuối cùng có thể ra vườn đi dạo rồi.”
Lúc Tiết Tử Dạ tỉnh dậy, bên tai liền nghe thấy mấy thị nữ bên ngoài đang hân hoan rì rầm với nhau.
Nàng hơi ngây người, dường như còn chưa tỉnh ngủ, chỉ khoác tấm áo choàng lông ly miêu lên ngồi thẫn ra trên giường – phải đi thôi.
Phải đi thôi. Giọng nói trong lòng không ngừang thúc giục, tỉnh táo mà nghiêm khắc.
Nhưng nàng lại chần chừ không muốn dậy, tựa như đứa trẻ thích nằm ngủ nướng lưu luyến chăn đệm ấm êm vậy – sau này hôm nay, chỉ sợ sẽ không còn cảm giác ấm áp này nữa.
Không biết đến đêm nay, thi thể nàng sẽ nằm ở xó xỉnh, nào giữa vùng tuyết giá mênh mông này. Trong khoảng khắc ấy, nàng rúc mình trong chăn đệm ấm áo, ôm chặt hai cánh tay, thân hình co ro run lên nhè nhẹ – thì ra, cho dù ở trước mặt người khác có trấn định quyết đoán thế nào, cuối cùng trong lòng cũng không phải hoàn toàn không hề sợ hãi…
Tiết Tử Dạ lấy trong túi thuốc bên gối ra một nắm Bích Linh đơn, không cần xem mấy viên thuốc đã dốc cả vào miệng. Nàng cần phải dựa vào tác dụng của thuốc để tạm thời khắc chế chất độc Thất Tinh Hải Đường để làm hết những chuyện hôm nay cần phải làm!
Chiếc đồng hồ vàng Tây Dương trên tường kêu lên sáu tiếng, một thị nữ bưng chậu vàng bước vào, mới nàng rửa mặt trang điểm – đến lúc phải đi rồi.
Bất luận tiếp theo đây hiểm ác thế nào, nàng cũng phải mạnh mẽ mà tự mình đối mặt.
Nàng nghiến răng chống tay đừngd ậy, thay y phục, rồi bắt đầu trang điểm.
Thị nữ bước tới vén rèm châu lên, ánh mặt trời và ánh sáng phản chiếu lên mặt tuyết cùng chiếu vào, làm người ta lóa cả mắt. Tiết Tử Dạ thoắt ngước nhìn, chỉ thấy mình thực không thể chịu đựng nổi thứ ánh sáng náy, buột miệng kêu khẽ một tiếng, đưa tay che hai mắt lại.
“Còn không mau buông rém xuống.” Bên ngoài có tiếng người quát nhẹ. “Diệu Phong sứ!” Ả thị nữ giật mình kinh hãi, vội vàng kéo soạt tấm rèm xuống, ánh sáng trong phòng liền ôn hòa trở lại.
Tuy còn chưa tới giờ, nhưng Diệu Phong đã đợi ngoài cửa từ trước, lặng lẽ nhìn nàng bận rộn chuẩn bị, im lìm cụp hai mí mắt xuống: “Tiết cốc chủ, Giáo vương dặn dò thuộc hạ tới đón người đến đại điện.”
“Được, đồ đạc cũng xong hết rồi.” Nàng bình tĩnh trả lời: “Chúng ta đi thôi.”
Nhưng y vẫn đứng đó bất động: “Thuộc hạ to gan, xin Tiết cốc chủ lấy hết tất cả dược liệu và khí cụ ra xem lại một lượt.”
Tiết Tử Dạ đưa mắt nhìn y, không nén nổi nộ ý: “Các người muốn kiểm tra túi thuốc của ta?”
“Thuộc hạ chỉ sợ bên mình Tiết cốc chủ vẫn còn thứ như Bạo Vũ Lê Hoa châm thôi.” Diệu Phong cũng không giấu giếm, hững hờ trả lời, phảng phất như đã hoàn toàn quên chuyện hôm qua y từng thất thố trước mặt nàng vậy: “Thuộc hạ cần phải chắc chắn mọi điều, trước khi cốc chủ tới bên giường bệnh của Giáo vương.”
“Ngươi sợ ta thừa cơ hành thích Giáo vương hả?” Tiết Tử Dạ cười gằn phẫn nộ, châm chọc: “Minh Giới vẫn còn trong tay các người, ta làm sao mà dám chứ, Diệu Phong sứ!”
“Chỉ sợ vạn nhất.” Diệu Phong vẫn ung dung thản nhiên như trước.
“Nếu ta cự tuyệt thì sao?” Khóe mắt Tiết Tử Dạ thoáng hiện lên vẻ tức giận.
“Như vậy thì không được hay lắm.” Ngôn từ của Diệu Phong vẫn rất bình tĩnh, không hề toát lên vẻ gì uy hiếp, nhưng câu câu chữ chữ đều nhuốm sắc máu: “Đồng sẽ chết rất thảm, bệnh tình của Giáo vương sẽ tiếp tục xấu đi… còn cốc chủ, chỉ sợ cũng không xuống nổi ngọn Côn Luân sơn này. Thậm chí, cả đệ tử Dược Sư cốc, cũng chưa chắc đã được bình an.”
“Ngươi!” Tiết Tử Dạ đứng bật dậy. Diệu Phong chỉ lặng im nhìn nàng, cũng không tránh đi, ánh mắt bình tĩnh, nhưng không thấy nụ cười. Giằng co như vậy một lát, cuối cùng nàng cũng lạnh lùng cởi túi thuốc ném về phía y. Diệu Phong cất tay bắt lấy, khẽ gật đầu một cái: “Mạo phạm.”
Y nhanh chóng mở túi thuốc ra, kiểm tra các dược liệu và khí cụ bên trong, thần thái cẩn trọng, thỉnh thoảng lại đưa một vài loại dược thảo lên mũi ngửi, nếu không thể xác định thì đưa cho mấy đệ tử biết y thuật trong giáo bên ngoài, để bọn họ nhất loạt nếm thử, kiểm định xem có độc hay không.
Tiết Tử Dạ nhìn y với ánh mắt thờ ơ, cười lạnh nói: “Làm vậy thì vụng về quá – nếu ta thật muốn dùng độc, cũng nhất định phải dụng loại như Thất Tinh Hải Đường ấy.”
Thất Tinh Hải Đường?
Diệu Phong thoáng kinh ngạc, nhưng vì thời gian gấp gáp, y cũng chỉ lạnh lùng hờ hững kiểm tra mọi thứ một lượt, sau đó tập hợp những dược vật đã xác định là an toàn về một chỗ, gói lại như cũ, giao cho mấy đệ tử bên ngoài dặn dò bọn họ bảo quản cẩn thận.
“Tiết cốc chủ, mời lên kiệu!” Y bén tấn màn lên, khe khẽ khom người, nhìn nàng ngồi vào trong, khóe mắt chợt liếc thấy đôi tay nhỏ nhắn kia không ngờ lại hơi run run. Trong nháy mắt, gương mặt gỗ đá của y cũng thoáng biến đổi – thì ra nữ tử bình tĩnh kiên cường này lúc đối mặt với chuyện như thế, trong lòng cũng không thể không khẩn trương lo lắng.
Diệu Phong liếc mắt nhìn nàng, rồi nhẹ nhàng hạ màn kiệu xuống, đồng thời khẽ buông ra một câu: “Yên tâm. Tại hạ muốn bảo đảm sự an toàn cho Giáo vương, nhưng cũng nhất định bảo đảm cốc chủ được bình an.”
Khi mặt trời dâng lên từ phía bên kia vách băng, chiếc kiệu cũng vững vàng hạ xuống bậc thang ngọc bên dưới Đại Quang Minh điện, tên đệ tử trực nhật bên ngoài cửa nhìn thấy liền lập tức chạy như bay vào trong bẩm báo.
“Xin mời Tiết cốc chủ!” Chỉ trong chốc lát đã có hồi báo, tiếng nói xuyên qua lớp lớp màn trướng trong điện bay ra ngoài.
Tiết Tử Dạ ngồi lặng trong kiệu, thân thể khẽ chấn động lên, sâu trong đáy mắt lướt qua một tia sáng, các ngón tay vặn chặt vào nhau.
Lúc ấy không biết có phải vì quá căng thẳng hay không, độc tính bị nàng dùng Bích Linh đơn tạm thời áp chế trong cơ thể đột nhiên trỗi dậy, khiến toàn thân nàng run lên nhè nhẹ.
“Tiết cốc chủ.” Màn kiệu được vén lên từ phía ngoài, Diệu Phong đứng khom người trước kiệu, sắc mặt trầm tĩnh.
Nàng nén cảm xúc lại, chầm chậm đứng lên ra khỏi kiệu, bước chân lên bậc cấp bằng ngọc. Diệu Phong chậm rãi đi theo sau, tùy tùng bên cạnh nhanh nhẹn chạy theo hai tay nâng túi thuốc và các loại khí cụ của nàng, khí thế hào hùng như chuẩn bị đại pháp sự vậy.
Tiết Tử Dạ từng bước từng bước đi vào tòa đại điện trang nghiêm, ánh mắt dần trở nên kiên định và ung dung.
Đúng vậy, đến lúc này, nàng đã không thể thoái lui được nữa, một bước cũng không.
Nàng vốn là một người hành nghề y, cứu người chữa thương là thiên chức của nàng, vậy mà hôm này, nàng lại một mình đi vào long đàm hổ huyệt, làm một chuyện bội phản với đạo đức nghề y của nàng.
Trong tòa đại điện lạnh lẽo này, hổ sói rình rập khắp nơi, sát cơ bao trùm bốn phía, bất cứ người nào muốn giết một người trói gà không chặt như nàng cũng đều chỉ cần cất tay một cái là xong. Vậy mà, nàng lại muốn bất chấp mọi giá, kéo tên ác ma đang ngồi trên ngọc tọa cao ngất kia xuống địa ngục!
Diệu Phong đi sau lưng nàng, nhẹ nhàng tới nỗi không nghe thấy tiếng bước chân. Tiết Tử Dạ nhận lấy túi thuốc trong tay tên tùy tùng, rồi cúi đầu đi vào đại điện.
“Tiết cốc chủ.” Sâu trong đại điện truyền ra một giọng nói thấp trầm, làm hồn phách lơ lửng của nàng trở về với thực tại: “Cô đến rồi…”
Ngẩng đầu lên, chỉ thấy trong đại điện vô số màn trướng đỏ rực bay bay, trên ngọc tọa, một tấm trường bào hoa lệ ánh vàng rực rỡ buông xuống như thác – lão nhân tóc trắng như cước, gương mặt hồng hào núng nính, dựa người vào lưng ghế đưa tay về phía nàng. Năm ngón tay trắng xanh khe khẽ run rẩy, đường gân bên dưới làn da mỏng như giấy da dê không ngừng chuyển động, tựa như bên trong có một con rắn vô hình đang bò qua bò lại vậy.
Tiết Tử Dạ sững người lại: “Đó, đó… không ngờ lại là Giáo vương – chỉ mới một đêm không gặp, không ngờ lão lại suy nhược đến mức độ này!”
“Lát nữa khi chuẩn bệnh, đứng ngay bên cạnh ta.” Giáo vương nghiêng đầu, thấp giọng thì thầm vào tai Diệu Phong, tiếng nói đã yếu ớt đến mơ hồ không rõ: “Giờ ta chỉ tin mình ngươi thôi, Phong.”
“…”Diệu Phong bị lời nói của lão làm giật mình, rồi lập tức đáp khẽ: “Vâng!”
“Phong.” Giáo vương đưa tay lên ra hiệu.
Diệu Phong liền cúi người đỡ lấy tay lão, chậm rãi bước xuống bậc ngọc – chỉ trong thoáng chốc, cảm nhận được vị vương giả ngạo thị cả thiên hạ trước mắt mình bỗng nhiên trở nên suy nhược nhường này, khóe mắt y không khỏi lóe lên một tia kinh hãi. Diệu Thủy không bước tới, chỉ khép tay, đứng tít tận bên ngoài màn che, như để cảnh giới.
Tiết Tử Dạ đẩy cái gối nhỏ trên bàn ra trước: “Bắt mạch đã!”
Giáo vương không nói tiếng nào, đặt cổ tay lên đó.
Diệu Phong đứng cạnh lão, hai mắt khẽ chớp – Mạch Môn là một trong những vị trí quan trọng nhất toàn thân. Nếu nàng có ý đồ gì khác, thì… Nhưng không đợi bàn tay y dịch lại gần chuôi kiếm nơi hông, Tiết Tử Dạ đã buông cổ tay Giáo vương ra.
“Bệnh của Giáo vương là do luyện tập nội công tính hàn không thành, tẩu hỏa nhập ma mà ra, đến giờ đã là một tháng mười bảy ngày rồi.” Chỉ bắt mạch một lát, nàng đã nhanh chóng cầm bút viết ra bệnh án, thao thao một tràng: “Nội lực ở Khí Hải không thể khống chế mà chảy cuồn cuộn ra ngoài, Tam Tiêu kinh đã tê liệt. Huyệt đạo toàn thân trướng lên, mỗi khi tới giờ Tý nửa đêm thì như vạn mũi kim cùng xuyên vào một lúc, đau đớn chết đi sống lại – có phải vậy không?”
Giáo vương không giấu nổi vẻ ngạc nhiên, đưa mắt nhìn nữ đại phu trẻ tuổi, khẽ gật đầu: “Đúng là thần y!”
“À…” Tiết Tử Dạ ngẩng đầu lên quan sát sắc mặt lão, gật đầu nói: “Sau khi phát bệnh, có lẽ ngài đã dùng nhiều cách trị liệu khác nhau – chỉ tiếc là đều không hiệu quả, mà ngược lại bệnh tình mỗi lúc một tệ hại hơn.”
Ánh mắt Giáo vương đã ẩn hiện vẻ nôn nóng, lên tiếng ngắt lời nàng: “Vậy thì, bao lâu mới khỏi?”
Tiết Tử Dạ dừng bút mỉm cười: “Giáo vương nên hỏi ‘có thể trị được không’ trước mới phải chứ?”
Giáo vương cũng cười, ánh mắt bỗng trở nên âm trầm: “Còn phải hỏi nữa sao? Nếu cả Dược Sư cốc chủ cũng không trị được, vậy thì mạng của bản tọa đúng là tuyệt rồi…”
“Đúng đó,” Tiết Tử Dạ cơ hồ hoàn toàn không phát giác ra sát khí dần tích tụ trong mắt Giáo vương, cười cười: “Giáo vương đã là nhân vật thuộc hàng địa tiên, những phương pháp phổ thông trên thế gian này đã không thể khiến ngài thọ thương nữa rồi – nếu không phải lần này tẩu hỏa nhập ma, vậy thì có lẽ đúng là không có gì làm khó được Giáo vương đại nhân ngài rồi.”
Nàng nói rất chậm rãi, ung dung hờ hững nghịch ngợm cây ngân châm trên tay, không đếm xỉa đến Giáo vương đang trong cơn nguy kịch đã không còn giữ được khả năng kiềm chế như thường ngày.
“Đừng vòng vo nữa!” Cánh tay Giáo vương bỗng nhiên vươn ra, chụp lấy cổ họng Tiết Tử Dạ, gân xanh nổi lên: “Nói, rốt cuộc là có trị được hay không? Không trị được thì ta bắt ngươi bồi táng!”
Tiết Tử Dạ bị bóp chặt cổ họng, bàn tay trượt đi, mũi ngân châm đâm vào ngón tay, nhưng cả kêu nàng cũng không thể phát ra tiếng.
Diệu Phong sắc mặt trắng bệch, vô thức bước lên một bước định cản lại, nhưng lại có chút ngần ngừ, phảng phất như có một sự ràng buộc vô hình cản y lại – dù sao thì từ nhỏ tới lớn suốt mười mấy năm nay y cũng chưa từng công nhiên phản kháng lại Giáo vương lần nào.
“Có… có thể trị!” Chỉ một chốc lát sau, Tiết Tử Dạ cuối cùng cũng rặn ra được mấy chữ đó.