Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Trái Tim Anh Ở Đó

Chương 14

Tác giả: Mary Balogh

Wulfric chẳng còn có thể bước chân vào bất cứ căn phòng nào của lâu đài Lindsey mà được hưởng sự vắng vẻ và tĩnh mịch. Tòa lâu đài đầy người nhà Bedwyn cùng những người khác có liên quan. Người nhà Bedwyn chưa bao giờ quá trầm lặng, nhưng giờ đây, với số thành viên đã được nhân lên và việc không gặp nhau trong một thời gian dài, họ khiến con người mình lúc trước giống như những ni cô và thầy tu ẩn dật.

Freyja và Joshua, nữ hầu tước và hầu tước Hallmere, là những người đầu tiên đến Lindsey từ London, mang theo cậu con trai hai tuổi Daniel và cô bé Emily ba tháng tuổi. Freyja đã lấy lại được vóc dáng.

Hoạt động ưa thích của cô hình như là vật lộn với cậu con trai lúc nào cũng cười khúc khích trên sàn nhà – không nhất thiết là trong phòng trẻ. Nếu Daniel không làm thế, thì cậu bé sẽ ngồi công kênh trên vai cha đi khắp nhà chứ chẳng bao giờ chịu im ắng tề chỉnh trong phòng trẻ với cô bảo mẫu.

Alleyne và Rachel – huân tước và nữ huân tước Alleyne Bedwyn, Morgan và Gervase – nữ bá tước và bá tước Rosthorn đến cùng ngày. Alleyne và Rachel mang theo hai cô con gái sinh đôi một tuổi rưỡi, Laura và Beatrice, và nam tước Weston, chú của Rachel, bệnh tim của ông đã đỡ. Morgan và Gervase mang theo hai cậu con trai – Jacques gần hai tuổi và Jules hai tháng tuổi. Rachel hình như lại có thai dù vẫn chưa lộ rõ bụng.

Rannulf và Judith, huân tước và nữ huân tước Rannulf Bedwyn, đến sau Alleyne và Morgan một ngày, cùng cậu con trai gần ba tuổi, William, và cô con gái Miranda một tuổi. Chỉ sau khi đến vài giờ, William cũng muốn được như cậu em họ, và thế là sau một lời yêu cầu nghiêm nghị có phần độc đoán được thừa hưởng từ cha mình, cậu đã được ngồi công kênh trên vai cha đi khắp nhà. Jacques cũng thế, dù cậu lịch sự hơn khi yêu cầu cha bằng cách giật mạnh núm tua trên chiếc ủng Hessian cho đến khi cha cậu nhận ra và đưa cả hai tay qua đầu.

Người giả làm ngựa chạy tán loạn, những kỵ sĩ liên tục thét lên là cảnh tượng thường thấy ở tiền sảnh và dưới cầu thang. Một trong hai cô bé sinh đôi cũng chơi trò kỵ sĩ, dù Wulfric chẳng phân biệt được hai đứa trẻ.

Aidan và Eve, huân tước và nữ huân tước Aidan Bedwyn, đến với bà Pritchard, dì của Eve, và ba đứa con – Davy mười tuổi, Becky tám tuổi, và Hannah gần một tuổi. Davy và Becky là con nuôi, nhưng cả Aidan và Eve đều sẽ không tha thứ nếu nghe chúng nhắc đến điều đó. Davy gọi họ là chú dì, trong khi Becky gọi là ba mẹ. Nhưng với Eve và Aidan, chúng đều như con ruột, giống Hannah. Davy trở thành nhân vật được tất cả các cậu bé ưa thích. Chúng tàn nhẫn bỏ rơi cha mình để xúm quanh người anh em họ tuyệt diệu lớn hơn bởi anh ấy thậm chí dám trượt xuống trên thành lan can khi bảo mẫu không trông thấy. Và Becky được tất cả bọn chúng tôn sùng – hầu hết các cô bé vây quanh Becky như gà con tụm lại chỗ gà mẹ.

Wulfric hơi bối rối chứ không khó chịu. Tiếng huyên thuyên giữa các em anh trở nên ầm ĩ và náo nhiệt hơn mỗi khi có thêm một người đến. Anh rút vào thư viện, lãnh thổ riêng của mình bất cứ khi nào có thể. Anh cũng tránh vào một nơi kín đáo trong khu vườn, chỉ một lần duy nhất.

Chú và cô của anh, hầu tước và nữ hầu tước Rochester là người trong gia đình đến sau cùng. Cô anh cũng là một người nhà Bedwyn ghê gớm như những người khác – bà mang theo một cô cháu gái nhà Rochester. Cô gái này ở đâu đó tại miền Bắc mãi đến tuổi hai mươi ba mới được đưa xuống London gặp họ hàng, rồi cô anh quyết định bảo trợ cho cô gái và sẽ giới thiệu cô với cả nữ hoàng cùng xã hội thượng lưu suốt Mùa Lễ Hội sắp tới. Cô anh cũng chẳng giấu giếm ý định mai mối tiểu thư Amy Hutchinson ấy cho cậu cháu lớn nhất của bà.

“Chúng ta sẽ kiếm một người chồng cho Amy trước khi Mùa Lễ Hội kết thúc,” cô anh thẳng thắn thông báo với tất cả mọi người tại bàn ăn ngay buổi tối đầu tiên họ đến Lindsey.

“Hay có khi còn trước khi Mùa Lễ Hội bắt đầu. Hai mươi ba tuổi là quá lớn với một cô gái chưa chồng.”

“Cháu tới hai mươi lăm mới lấy chồng thì sao cô,” Freyja nhắc.

Phu nhân Rochester lấy cái kính cầm tay nạm đá quý đang đặt cạnh đĩa của bà và huơ về phía Freyja.

“Cháu cứ thích chờ đợi quá lâu, Freyja,” bà nói trước khi đổi hướng cái kính cầm tay sang Joshua. “Nếu chàng trai này không mau chóng mê hoặc và chế ngự cháu khỏi cái tính ương ngạnh thì đời cháu sẽ kết thúc như một bà cô không chồng. Đó chẳng phải là một số phận hay ho cho một cô gái, cho dù anh trai cô ta có là công tước.”

Joshua hấp háy chân mày với Freyja, và cô lườm lại anh như thể anh vừa tuyên bố mình quá hấp dẫn rồi quy kết nàng tội vô kỷ luật và bướng bỉnh.

Chưa tới năm phút sau, phu nhân Rochester phá vỡ cuộc chuyện trò bình thường bằng một nhận xét khác.

“Đã đến lúc cháu phải lấy vợ rồi đấy, Bewcastle. Ba mươi lăm là độ tuổi hoàn hảo nhưng cũng khá nguy hiểm với đàn ông. Nó hoàn hảo để lập gia đình nhưng cũng đáng báo động nếu chần chừ. Chẳng người đàn ông nào muốn đi khập khiễng vì bệnh gút trong khi cậu con thừa kế vẫn còn bé xíu.”

Năm cặp mắt Bedwyn – đó là chưa kể đến những cặp mắt không phải bẩm sinh là Bedwyn – quá háo hức dồn cả vào Wulfric.

“Cô nói đúng đấy, Wulf,” Alleyne khuyên. “Giờ anh đã ba mươi lăm rồi. Anh không thể trì hoãn – trì hoãn nữa là không hay đâu.”

“Nghe lời em đi, Wulf,” Rannulf thêm vào, “một người cha bị gút còn bị xếp đứng sau con ngựa và những đứa con trai sẽ chẳng bao giờ hiểu được đâu.”

“Cảm ơn cô,” Wulfric cất lời, anh cũng như những người khác đều thấy rõ ý định ghép đôi anh với tiểu thư Hutchinson của phu nhân Rochester. “Cháu chưa thấy bất cứ triệu chứng nào của bệnh gút. Và nếu cháu chọn được cô dâu, chắc chắn mọi người trong gia đình sẽ được biết sự lựa chọn và ý định của cháu.”

Tất cả mọi người nhà Bedwyn đều cười toe với anh – Joshua và Gervase cũng thế. Eva thì mỉm cười hồn hậu. Judith thì hỏi thẳng.

“Anh có kế hoạch đặc biệt nào cho dịp lễ này không Wulfric?” Câu hỏi của cô rõ ràng là để đánh lạc hướng khỏi chủ đề chỉ làm anh khó chịu, và thật sự khiến tiểu thư Hutchinson đau khổ dù cô ấy xinh đẹp, thanh lịch nhưng đồng thời cũng nhút nhất và rõ là kính sợ người đi kèm của mình. “Liệu chúng ta có thể tổ chức gì đó? Tất nhiên phải đi nhà thờ suốt Lễ Phục Sinh, nhưng sau đó chúng ta có thể tổ chức vài bữa tiệc không? Hay là hòa nhạc? Sân khấu nghiệp dư? Một chuyến dã ngoại nếu thời tiết cho phép? Rồi cả vũ hội nữa?”

“Trong những câu hỏi đó, em muốn Wulf trả lời câu hỏi nào trước vậy, em yêu?” Rannulf hỏi vợ mình.

“Sân khấu nghiệp dư.” Judith cười vui vẻ. “Liệu chúng ta có thể không anh?”

“Nếu chúng ta làm thế,” Freyja chen vào, nghiêng người nhìn chị dâu, “em sẽ hoàn toàn bị loại ra ngoài mất, Judith. Chị sẽ diễn rất hay và làm cho bọn em trông thật sự giống những kẻ nghiệp dư.”

“Chúng ta sẽ trù tính một trò tiêu khiển mà Judith có thể trổ tài diễn xuất và em có thể hòa giọng cùng anh, em yêu,” Joshua xen vào. “Chẳng ai để em ra rìa đâu.”

“Em thấy không cần phải tổ chức trò tiêu khiển,” Morgan nhận xét. “Chúng ta chưa bao giờ thiếu trò giải trí dù không được tổ chức, đúng không? Em có mang theo dụng cụ vẽ và đang háo hức mang giá vẽ ra đây.

Em chưa bao giờ được vẽ khu vườn theo đúng ý em – cô Cowper cứ lượn qua lượn lại sau lưng em, gợi ý em nên vẽ như thế nào. Hẳn cô ấy sợ Wulf sẽ nổi giận lôi đình nếu cô ấy không dạy dỗ em đàng hoàng và treo cổ cô ấy trong ngục tối. Cho đến ngày cô ấy rời khỏi đây, trăm phần trăm cô ấy tin rằng thật sự có một nhà ngục bên dưới lâu đài Lindsey.”

“Em nghĩ là không có à, Morg?” Alleyne hỏi, khiến tất cả mọi người đều sốc. “Ý em là Ralf và anh xạo khi bọn anh nói với cô ấy về cầu thang bí mật dẫn xuống ngục tối ư? Trời đất!”

“Chắc chắn bọn trẻ sẽ rất sung sướng nếu được chơi đùa trong khuôn viên đáng yêu này,” bà Pritchard góp lời với trọng âm xứ Wales nặng trịch.

“Nhưng chúng ta có thể tổ chức gì đó thật đặc biệt chứ, Wulfric?” Judith hỏi.

“Anh đang đợi những vị khách khác,” Wulfric trả lời.

Ngay lập tức anh thu hút sự chú ý của tất cả mọi người. Dù anh thường xuyên tổ chức tiệc tùng vì phải đáp lễ những lời mời, nhưng anh chưa bao giờ mời khách khứa lưu lại lâu đài. “Anh đã mời Mowbury đến đây cùng nữ tử tước, mẹ anh ta. Em trai và em gái của Mowbury cũng sẽ đến – là Justin Magnus, vợ chồng con cái phu nhân Renable, và phu nhân Wiseman với ngài Lewis. Cả Elrick, anh họ của Mowbury, cùng vợ và cô em dâu góa, phu nhân Derrick nữa.”

“Mowbury ư?” Aidan hỏi. “Có phải là anh chàng mọt sách với đầu óc để trên mây không Wulf? Và cả gia đình của anh ta ư? Em không biết là anh đặc biệt thân thiết với họ đấy.”

“Tất cả bọn họ sẽ đến đây sao?” Rannulf thêm vào. “Vì lý do quỳ quái gì thế, Wulf?”

Ngón tay Wulfric nắm lấy tay cầm của cái kính một mắt khi anh đặt thìa ăn món tráng miệng xuống.

“Anh không biết là anh cần phải giải thích với các em trai, em gái lý do anh chọn lựa khách mời đến nhà anh.”

“Nói cho công bằng đi Wulf,” Freyja lên giọng. “Em và Morgan chẳng thắc mắc lời nào. Nhưng có phải phu nhân Derrick là người phụ nữ mà anh kéo lên khỏi hồ Serpentine và đưa về tận nhà trong tình trạng ướt sũng trên ngựa của anh không?”

“Không thể nào!” Alleyne cười giòn tan và rồi tiếp tục nhe răng ra cười. “Wulf đã làm thế sao? Em không tin nổi! Kể thêm đi, Free.”

Dù anh đã cố thốt ra tên nàng một cách hết sức nhún nhường trong danh sách khách mời, nhưng Freyja, với sự trợ giúp của Joshua và Gervase, vẫn kể lại vanh vách những gì đã xảy ra ở công viên Hype Park hôm đó, không quên thêm mắm thêm muối vài chi tiết.

“Em cược là,” Rannulf nhận xét sau khi tất cả ngừng cười, “anh chẳng thích thú gì. Và giờ anh buộc phải mời cô ta và cả gia đình cô ta đến đây. Ông anh bất hạnh! Nhưng đừng sợ – bọn em sẽ bảo vệ anh khỏi cô ta.”

“Bọn em sẽ làm thành bức tường Bedwyn phẫn nộ,” Alleyne hứa, lại cười khùng khục. “Cô ta sẽ chẳng thể vượt qua bọn em đâu, Wulf. Anh sẽ được tự do lấy lại vẻ nghiêm trang.”

Wulfric đưa cái kính được nửa đường lên mắt.

“Tất cả khách khứa của anh sẽ được đối xử theo đúng phép lịch sự.

Nhưng để trả lời câu hỏi của em, Judith, thì sẽ có một vũ hội. Thư ký của anh đã gửi thiệp mời rồi và đang đợi những lời phúc đáp. Còn các hoạt động khác thì cứ tùy cơ ứng biến thôi.”

Anh thả rơi cái kính một mắt, lại cầm thìa ăn tráng miệng lên và tập trung vào món sữa trứng.

Cái quái quỷ gì đã ám ảnh anh vậy? Hãy cho ta một cơ hội, anh đã khẩn cầu nàng. Một cơ hội để làm gì? Để chứng tỏ điều gì đó mà anh không hề có sao? Anh chưa từng khẩn cầu ai. Anh chưa bao giờ cần phải làm thế. Chẳng thể thay đổi gì, nàng đã nói vậy. Và, dĩ nhiên là nàng đúng. Anh làm sao có thể thay đổi bản chất của mình chứ? Anh có muốn thay đổi không? Nàng hoàn toàn đúng. Chẳng gì có thể kéo họ lại với nhau và sống hạnh phúc mãi mãi cả.

Ngài sẽ hủy diệt tôi, nàng đã nói thế. Ngài sẽ rút kiệt mọi sinh khí và niềm vui trong tôi. Ngài sẽ dập tắt ngọn lửa sống động của tôi.

Anh không biết niềm vui là gì. Anh cũng không biết nhiều về sinh khí – chí ít là loại sinh khí đã khiến tinh thần nàng luôn sôi nổi và hăng hái, vẻ hoạt bát mà anh không thể diễn tả thành lời.

Liệu anh có thể đưa ra thứ gì đó mà nàng mong muốn không? Và – ngược lại – nàng có điểm gì phù hợp với vị trí nữ công tước không? Không chỉ là người đàn bà của anh hay vợ anh, mà là nữ công tước của anh? Anh đặt cái thìa xuống, xem xem tất cả mọi người đã ăn xong chưa, và nhìn cô anh với một chân mày nhướng lên. Ngay lập tức bà biết phải làm gì và đứng lên, dẫn tất cả phụ nữ rời phòng ăn.

* * *

Hôm đó là một ngày lạnh lẽo và đầy gió dù đã gần sang tháng Tư. Trời xám xịt và mưa lắc rắc. Nhưng may mắn là ông trời không trút xuống trận mưa ào ạt nào, và đường chính thông thoáng suốt chuyến đi. Christine gần như ước mong có một trận mưa lớn khiến họ mắc kẹt tại một nhà trọ nào đó cho đến hết dịp lễ. Nhưng đã quá trễ. Chắc họ đã gần đển lâu đài Lindsey. Ngay lúc nàng nghĩ thế thì cỗ xe ngựa đi chậm lại, rẽ vào giữa hai cột cổng cao chót vót rồi chạy trên một lối đi thẳng tắp giữa những hàng cây du.

“Chao ôi!” Melanie thốt lên, thức dậy sau một giấc ngủ gà gật dài và đưa tay lên chỉnh cái mũ bonnet cho ngay ngắn. “Tới rồi sao? Bertie, dậy nào. Em chịu đựng tiếng ngáy của anh quá lâu rồi. Em không hiểu làm sao mà một người có thể ngủ trên xe ngựa. Nó lắc và xóc nảy liên hồi ấy. Cậu có thấy thế không, Christine?”

“Tớ thấy chuyến đi khá dễ chịu mà.” Khi nàng lại gần cánh cửa sổ bên cạnh để nhìn ra ngoài, nàng có thể thấy một tòa lâu đài nguy nga ở phía trước. Tòa lâu đài không theo kiểu kiến trúc thời trung cổ hay Elizabethan[14] hay Georgian[15] hay Palladian[16], mà hình như là sự tổng hợp của tất cả các trường phái kiến trúc trên. Nó thật tráng lệ. Và làm người khác choáng ngợp.

[14] Kiểu kiến trúc thời Elizabeth đệ nhất.

[15] Phong cách kiến trúc thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19.

[16] Phong cách kiến trúc của kiến trúc sư người Ý Andrea Palladio.

Trước đó nàng không hề nhận ra mình bị say xe, nhưng lúc này nàng thấy nôn nao lạ thường. May là chuyến đi sắp kết thúc. Nhưng ý nghĩ đó càng khiến dạ dày nàng lộn nhào ở bên trong.

Xe ngựa rẽ và nàng thấy nó đang đi vòng quanh một vườn hoa hình tròn khổng lồ, rực rỡ với hoa tulip và thủy tiên nở muộn, chính giữa có một vòi phun bằng đá lớn, phun nước ít nhất cũng xa đến chín mét. Nó khiến đường đi vào càng trở nên lộng lẫy hơn.

Cỗ xe đi được nửa vòng vườn hoa thì họ đến sân hiên trước cánh cửa chính đồ sộ. Christine thấy hai cánh cửa đang được mở ra trước khi xe ngựa rẽ lần cuối và cắt đứt tầm nhìn tòa lâu đài của nàng.

Melanie nói không ngừng từ lúc thức, nhưng Christine chẳng nghe được lời nào. Nàng nghĩ, giá mà mình có thể quay lại và nói không thay vì đồng ý ở Hyde Park – như thế có phải đơn giản bao nhiêu không! Giờ đây nàng có thể yên ổn và hài lòng ở nhà, như mọi ngày khác, chờ đến Lễ Phục Sinh với gia đình.

Nhưng nàng đã không từ chối, và vì vậy mà nàng ở đây. Tim nàng đập thình thịch khi một người hầu mặc đồng phục đẹp đẽ mở cửa xe ngựa và thang gấp được thả xuống. Giờ thì chẳng thể lui được nữa.

Nàng ghét sự bồn chồn của mình.

Thật sự ghét. Nàng đã nói với anh rằng tất cả là vô nghĩa, chẳng thể thay đổi gì cả, và sẽ chẳng có gì thay đổi. Nàng đã bảo anh cả hai sẽ cùng chịu đựng một Lễ Phục Sinh khổ sở nếu anh nhất quyết muốn nàng đến. Nhưng anh vẫn cứ khăng khăng và rốt cuộc là nàng ở đây.

Vậy thì tại sao phải lo sợ? Có gì mà lo sợ chứ? Cớ gì nàng lại nghĩ là sẽ khổ sở rồi làm mình mất tinh thần? Tại sao không chỉ đơn giản tận hưởng? Nàng lại có thể ngồi một góc và cười trước khuyết điểm của người khác, phải không nào? Chiến thuật đó không thành công lắm ở Schofield, nhưng như thế đâu có nghĩa là giờ nàng không thể áp dụng.

Chỉ có một người hầu đón họ bên ngoài lâu đài. Nàng suýt tưởng nhầm người quản gia đó là công tước nếu không thấy ông ta cúi người chào họ cung kính và mời họ đi theo ông ta vào trong, nơi công tước đang đợi. Melanie và Bertie đi theo ông ta vào trong.

Christine thì không.

Chiếc xe ngựa chở lũ trẻ nhà Renable và cô bảo mẫu vừa đỗ lại ngay sau lưng nam tước, và nàng lập tức nhận ra mọi chuyện có vẻ không được ổn. Pamela, sáu tuổi, lại sắp nôn, như trong suốt chuyến đi, và vì vậy cô bé cần sự chăm sóc và dỗ dành nhẫn nại của cô bảo mẫu. Ngay khi cửa xe mở, tiếng la nằng nặc của cô bé đã vọng ra đinh tai nhức óc. Phillip, tám tuổi, đang cười sằng sặc, ngạo nghễ theo kiểu mà các cậu bé hay có khi muốn đặc biệt chứng tỏ chúng là kẻ lớn hơn, và Pauline, ba tuổi hết khóc om sòm lại la thất thanh để kêu ca về anh trai. Chẳng phải thiên tài cũng có thể đoán ra ngay là cậu bé đang trêu chọc em gái – đó luôn là trò ưa thích của các cậu anh trai. Rõ ràng cô bảo mẫu không thể cùng lúc đương đầu với ba đứa trẻ trừ phi có người giúp. Christine sải bước về phía cỗ xe ngựa.

“Phillip,” Christine tươi cười với cậu bé và chuẩn bị nói gạt cậu, “điều khôi hài nhất vừa mới xảy ra đấy! Cháu có thấy người quản gia to cao kia không?” Nàng chỉ vào người quản gia. “Ông ta hỏi cô ai là quý ông lịch lãm trong chiếc xe ngựa này. Cô nghĩ ông ta tưởng nhầm cháu là người lớn. Thế có thích không chứ!” Phillip có vẻ rất khoái chí. Cậu bước xuống sân hiên với vẻ rất đạo mạo, ngực ưỡn ra, chẳng chút mệt mỏi, thế là Christine cúi người vào trong xe ngựa, bồng Pauline lên.

“Chúng ta đến nơi rồi, cưng,” Christine nói rồi bất chợt cười toe với cô bảo mẫu đang áp khuôn mặt xanh lét của Pamela vào người và nhìn nàng với vẻ biết ơn. “Chẳng mấy chốc nữa cháu sẽ có nguyên một phòng trẻ để khám phá. Như vậy chẳng thú vị sao? Cô chắc là ở đó cũng có những bạn nhỏ khác nữa – những người bạn mới của cháu đấy.” Nàng thầm nhăn nhó khi nhận ra Melanie, Bertie và người quản gia đã biến mất vào trong. Nhưng có một người khác xuất hiện ngay phía trước – một phụ nữ trung niên lăng xăng, rõ ràng là để đưa cô bảo mẫu và lũ trẻ vào nhà bằng một cửa khác. Phillip cúi đầu một cách vương giả về phía cô ta rồi thông báo em gái kế cậu bị say xe còn em gái út thì buồn ngủ, và cô bảo mẫu sẽ rất cảm kích sự giúp đỡ của cô ta.

“Cháu đúng là một quý ông tuyệt vời,” người phụ nữ nói với nụ cười tán đồng. “Và thật là quan tâm đến các em nữa.”

Christine gần như thấy một vầng hào quang xuất hiện trên đầu cậu bé.

“Tôi sẽ bồng cô bé, ma’am,” người phụ nữ đưa tay ra đón lấy Pauline trong khi cô bảo mẫu cùng Pamela chậm rãi đi tránh xa xe ngựa.

Nhưng Pauline không chịu. Cô bé ôm chặt cổ Christine làm lệch cái mũ bonnet của nàng, vùi mặt vào hõm vai nàng và gom hết sức lực để vùng vẫy không chịu người lạ.

“Cô bé bị mệt và còn lạ. Lát nữa tôi sẽ tự mình bồng cô bé lên phòng trẻ.”

Rồi nàng xoay người và vội vã đi đến cửa trước, dù nàng ngờ rằng nó đã bị đóng và cài then. Nhưng cánh cửa không bị cài then. Khi bước vào trong, nàng đột nhiên cảm thấy kinh hoàng bởi vẻ ngoài xốc xếch của mình và việc trở thành tâm điểm. Christine chỉ thấy được một phần khung cảnh xung quanh, nhưng chừng đó cũng đủ khiến nàng nhận ra sảnh ngoài rất rộng, cổ xưa và tráng lệ. Có một lò sưởi lớn đối diện cửa trước. Ngay trước lò sưởi và gần như choán hết chiều dài sảnh là một cái bàn to bằng gỗ sồi với rất nhiều ghế xung quanh. Xà nhà trên cao làm toàn bằng gỗ sồi. Tường nhà quét vôi trắng tinh, treo đầy cờ, huy hiệu và vũ khí. Một bên sảnh là bức bình phong bằng gỗ được chạm trổ tinh xảo với một ban công dành cho nhạc công ở trên đầu. Phía bên kia sảnh là một cầu thang lớn dẫn lên tầng trên.

Có lẽ nàng sẽ quan sát được nhiều hơn nếu không có quá nhiều người đang đứng thành một hàng đón khách kéo dài từ cửa trước tới chỗ cái bàn. Và tất cả mọi người – trời đất! – đang đợi nàng, vì Bertie và Melanie đang được dẫn đường đi về phía cầu thang.

Mắt Christine mất vài phút mới quen được ánh sáng bên trong. Nhưng khi đã nhìn quen, nàng có thể thấy công tước Bewcastle đứng cuối hàng người. Thật ra, anh đang tiến lên và chào đón nàng bằng một điệu cúi người lịch sự và vẻ mặt thật khó hiểu – như vậy không có nghĩa là nàng thường thấy bất cứ vẻ mặt nào dễ hiểu của anh. Anh mấp máy môi định cất lời, nhưng nàng nói trước.

“Tôi thật sự xin lỗi,” giọng nàng đột nhiên lớn khủng khiếp và nghe như hết hơi. “Pamela bị say xe, Phillip thì khó chịu và Pauline đang hoảng loạn. Tôi để cô bảo mẫu trông Pamela, thuyết phục Phillip ít nhất cũng cư xử như một quý ông trong năm phút, và bồng Pauline khỏi xe ngựa để dỗ dành cô bé. Nhưng cô bé bị mệt và lạ người, cừu con đáng thương, và ôm tôi chặt cứng. Vì vậy mà…” Nàng đột nhiên cảm thấy từ ngữ chạy lộn xộn trên môi. Nàng cười. “Vì vậy mà tôi đứng đây.”

Pauline rúc sát hơn, xoay đầu lén nhìn công tước và làm cái mũ bonnet của Christine lệch hẳn xuống.

“Chào mừng đến lâu đài Lindsey, phu nhân Derrick,” công tước Bewcastle cất lời, và trong một thoáng, dường như nàng thấy đôi mắt bạc bùng lên một ánh kỳ lạ. “Cho phép ta giới thiệu các thành viên trong gia đình.”

Anh xoay người và ra hiệu về phía người đứng đầu hàng người, một phu nhân lớn tuổi, kiêu kỳ mà Christine lập tức nhận ra là một trong những con rồng ghê gớm nhất của giới thượng lưu dù nàng chưa bao giờ được giới thiệu với bà.

“Xin giới thiệu cô của ta, nữ hầu tước Rochester và hầu tước Rochester.” Christine xoay xở nhún gối chào trang trọng hết mức với một đứa trẻ ba tuổi đang bồng trên tay. Nữ hầu tước khẽ gật đầu và nhìn khắp người Christine bằng ánh mắt bà-đã-xem-và-chẳng-thấy-gì-đặc-biệt. Hầu tước, chỉ bằng nửa khổ người vợ mình, cúi chào và lẩm bẩm câu gì đó rất khó nghe.

“Đây là huân tước và nữ huân tước Aidan Bedwyn,” công tước ra dấu về phía một quý ông có mái tóc đen và vẻ mặt khắc nghiệt đặc trưng kiểu quân đội, rất giống công tước nhưng khổ người vạm vỡ hơn, và một phụ nữ xinh đẹp tóc nâu đang mỉm cười với nàng trong lúc huân tước cúi chào nàng.

“Chào phu nhân Derrick,” nữ huân tước bắt chuyện, “cô bé sẽ ngủ trong vài phút nữa thôi.”

“Đây là huân tước và nữ huân tước Rannulf Bedwyn.”

Huân tước Rannulf chẳng giống công tước ngoại trừ vài đường nét trên gương mặt, đặc biệt là cái mũi. Rannulf là kiểu đàn ông to con với mái tóc dài dày gợn sóng, khiến nàng liên tưởng đến những chiến binh Saxon[17]. Nữ huân tước mảnh khảnh, gợi cảm và đầy nữ tính với mái tóc đỏ rực. Cô mỉm cười thân thiện lúc huân tước Rannulf cúi chào. “Chào phu nhân Derrick,” huân tước Rannulf cất lời, nháy mắt với nàng. “Phu nhân Renable nghĩ là cô đã bỏ chạy mất tăm rồi.”

[17] Những bộ tộc xâm chiếm người Germanic ở phía Nam và phía Đông nước Anh.

“Ồ, không.” Christine cười. “Nhưng cô bảo mẫu sẽ không thể sống sót qua ngày hôm nay nếu tôi không nhanh chóng đến giải cứu. Chuyến đi và lũ trẻ – đặc biệt là ba đứa trẻ bị nhốt chung với nhau suốt hai ngày – chẳng phải là một kết hợp hay lắm.”

“Đây là hầu tước và nữ hầu tước Hallmere,” công tước Bewcastle tiếp tục giới thiệu.

Chắc chắn nữ hầu tước là người họ Bedwyn, bởi cô nhỏ nhắn và trông rất giống anh trai Rannulf. Cô cũng có cái mũi của dòng họ Bedwyn – và vẻ kiêu kỳ như mọi người trong gia đình.

“Chào phu nhân Derrick,” nữ hầu tước lịch sự nghiêng đầu chào trong khi hầu tước – cao, đẹp trai, tóc vàng – cúi người chào nàng và tươi cười hỏi thăm nàng có một chuyến đi dễ chịu không.

“Vâng, chuyến đi rất dễ chịu, cảm ơn sự quan tâm của ngài.” Nàng đáp lại. “Đây là huân tước và nữ huân tước Alleyne Bedwyn.”

Christine thấy ngay huân tước Alleyne là người đẹp trai nhất nhà. Anh có mái tóc đen, vóc người mảnh khảnh và những đường nét hoàn hảo dù vẫn sở hữu cái mũi đặc trưng của dòng họ Bedwyn. Anh cũng có đôi mắt biết cười – có thể đó là vẻ giễu cợt, có thể chỉ đơn giản là sự hài lòng với cuộc sống. Chúng là đôi mắt láu lỉnh. Anh cúi người tao nhã chào nàng và hỏi nàng có khỏe không. Nữ huân tước Alleyne thì quá xinh xắn – cô ấy là hình mẫu hoàn hảo của “vẻ đẹp vàng[18]”.

[18] Các đường nét trên khuôn mặt, cơ thể đều tuân theo tỉ lệ vàng, tiêu chuẩn vàng của khuôn mặt khiến chúng ta cảm thấy mọi đường nét đều cân xứng và đẹp.

“Chú tôi tin rằng chú ấy quen người chồng quá cố của cô, phu nhân Derrick,” nữ huân tước nói. “Tôi sẽ giới thiệu cô với chú ấy sau, nếu tôi có thể – sau khi cô đã đưa cô bé tội nghiệp này về phòng trẻ và thu xếp xong đồ đạc.”

“Đây là bá tước và nữ bá tước Rosthorn,” công tước ra dấu về phía cặp đôi đứng cuối hàng.

“Rất hân hạnh được biết chị, madame,” bá tước cất lời, giọng anh phảng phất chút trọng âm Pháp quyến rũ khi cúi người chào nàng. “Phu nhân Derrick,” nữ bá tước nói thêm, “cô thật tử tế khi trông nom cô bé. Cô bé có vẻ mệt lả rồi.”

Nữ bá tước lướt hai ngón tay vào gò má Pauline và mỉm cười với cô bé khi nó hé mắt ra nhìn trộm.

Christine nghĩ huân tước Alleyne có thể là người đẹp trai nhất nhà, nhưng nữ bá tước Rosthorn trẻ măng rõ ràng mới là người xinh đẹp nhất. Với mái tóc đen, thân hình mảnh khảnh và trẻ trung, mọi đường nét của cô đều hoàn hảo.

Ắt hẳn công tước Bewcastle đã kín đáo đưa ra một mệnh lệnh – có lẽ là một cái nhướng mày? – nên một cô hầu bước đến sảnh và im lặng đứng đợi cách đó vài mét.

“Nàng sẽ được dẫn đường đến phòng trẻ và phòng mình, ma’am. Và nửa tiếng nữa một người hầu sẽ dẫn nàng xuống phòng khách dùng trà.” Công tước Bewcastle thông báo. “Cảm ơn ngài,” Christine quay sang nhìn anh.

“Và khi Wulf nói nửa tiếng,” huân tước Alleyne khẽ cười khùng khục, “thì có nghĩa là đúng ba mươi phút.” Công tước trông nghiêm nghị và bình thản. Lý nào anh là người đã khăng khăng ép nàng đến đây? Hay lý nào anh đã mời cả gia đình Oscar chỉ để có thể mời nàng? Lúc này chẳng có gì trong đôi mắt anh ngoại trừ vẻ điềm tĩnh và lịch sự.

Ôi, nàng ghét mình làm sao vì đã vui mừng khi gặp lại anh. Nàng khao khát muốn nhìn thấy anh, nếu nàng thành thật. Có phải nàng đã cực kỳ quyết tâm làm ra vẻ khốn khổ không? Nhưng, chiêm ngưỡng tòa lâu đài và đại sảnh tuyệt đẹp, gặp gỡ gia đình quý phái của anh, nhìn thấy công tước trong chính môi trường của mình, nàng nhận thức rõ hơn bao giờ hết rằng dù họ có hợp nhau đến thế nào đi nữa – mà chắc chắn là không hề – thì họ vẫn không thể kết đôi.

Cái ý nghĩ nàng trở thành nữ công tước thật lố bịch, đó là đã nói rất nhẹ nhàng.

Nàng im lặng theo sau cô hầu đi về phía cầu thang – và thình lình cảm thấy bực bội. Nàng đã tưởng tượng hình ảnh của mình khi đến lâu đài Lindsey: thanh nhã và cao quý trong bộ váy mới, một quý cô hết sức thanh lịch, cùng với Melanie và Bertie chào hỏi công tước Bewcastle, cười lạnh nhạt với anh, luôn điềm tĩnh và kiểm soát tốt mọi tình huống.

Chứ không phải…

Thế đấy, dường như nàng lại hăng hái và nhiệt tình ở đâu đó giữa chiếc xe ngựa của Bertie và cửa trước lâu đài Lindsey. Dường như cái mũ bonnet của nàng đã lệch hẳn qua một bên – bên trái. Và lúc này, nàng có thể cảm thấy cái áo choàng vướng víu cuốn lấy mép váy khi nàng bước đi, khiến cho chân nàng lộ ra cao hơn mắt cá nhiều – may là nàng đang mang đôi ủng cổ ngắn.

Và chẳng phải nàng lại huyên thuyên với anh khi bước vào lâu đài chứ không phải đứng chờ anh đến đón rồi đường hoàng tươi cười chào lại anh với vẻ điềm tĩnh, thanh lịch sao? Đúng vậy. Nàng đã huyên thuyên – đủ lớn để mọi người nghe không sót lời nào. Và rồi nàng gặp các em trai, em gái, em dâu, em rể của anh và nữ hầu tước Rochester ngạo mạn trong bộ dạng xốc xếch, mũ lệch, má đỏ bừng và một đứa trẻ chẳng phải là con nàng trên tay.

Chừng đó đủ để một người muốn khóc.

Chừng đó đủ để thuyết phục công tước Bewcastle rằng chẳng có người đàn ông nào, kể cả thấp kém hơn anh, muốn trở thành người trong mộng của nàng.

Ý nghĩ đó khiến nàng muốn khóc to hơn.

Bình luận