Chủ nhật – Lễ Phục Sinh – trôi qua trong yên bình. Sáng họ đi nhà thờ, chiều họ tham gia các hoạt động mang tính gia đình, và một buổi tối thanh bình với âm nhạc, chuyện trò và đọc sách.
Chẳng ai bình luận về sự biến mất đột ngột của Justin. Anh ta được cho rằng đã cáo lỗi công tước Bewcastle vì thình lình nhớ ra có một cái hẹn ở thành phố, và, theo lời mẹ anh ta, từ khi trưởng thành, Justin luôn đến và đi bất cứ khi nào anh ta thích, và rõ là anh ta có cớ hợp lý để cáo từ. Mọi người chấp nhận lời giải thích gượng gạo của Basil về gò má và khớp ngón tay sưng phồng là do anh bị ngã vào bồn tắm – hay, nếu ai đó không tin thì cũng không thể hiện ra mặt.
Basil đã cam đoan với Christine và Hermione là Justin trông còn tệ hơn khi anh trở lại thư viện. Sau khi nói thế, anh ôm Hermione trước, rồi đến Christine – thật chặt và lâu.
“Oscar yêu em, Christine,” Basil ngập ngừng. “Cậu ấy yêu em cho đến phút cuối, kể cả khi cậu ấy không còn tin em.”
“Vâng, em biết điều đó,” là tất cả những gì nàng có thể nói.
“Và vì vậy mà bọn anh không được phép bỏ mặc em sau khi cậu ấy mất. Anh không yêu cầu em tha thứ cho mình – chỉ muốn em cho phép anh bù lại khoảng thời gian bị đánh mất trước đây.”
Nàng lại hỉ mũi vào khăn tay của công tước.
“Và nếu em muốn lấy Bewcastle,” Basil nói tiếp, “anh đảm bảo em sẽ nhận được sự chúc phúc của anh và Hermione.”
“À, đúng. Chị nghĩ ngài ấy rất yêu em, Christine, nếu không thì sao tối nay ngài ấy lại nói những lời đầy sát khí với Justin chứ?”
Họ rời khỏi thư viện, và Christine quay lại phòng khách đúng lúc bà Pritchard đang hát bằng giọng run run nhưng rất ngọt ngào một bản tình ca xứ Wales. Hermione và Basil về phòng để ngâm má anh trong nước lạnh.
Sáng sớm thứ Hai, trời đầy mây, gió mạnh và lạnh buốt. Một nhóm khá đông cưỡi ngựa đến từ Alvesley và màn chào đón diễn ra huyên náo, ầm ĩ. Chẳng bao lâu sau đã đến giờ ăn trưa. Huân tước Aidan thông báo anh sẽ hạ thủy những con thuyền trên hồ bất chấp trời xấu, thế là quanh bàn vang lên vô số lời tán thành hăng hái, rồi cuộc di tản thường lệ diễn ra từ phòng ăn đến phòng trẻ để chuẩn bị sẵn sàng cho bọn trẻ.
“Con phải chèo thuyền đưa Amy ra đảo, Wulfric,” nữ hầu tước Rochester chỉ đạo. “Có vài khung cảnh rất đẹp ở đó.”
Công tước đứng lên khỏi cái ghế ngay đầu bàn của anh.
“Con chắc là một ai khác sẽ sẵn lòng đưa cô ấy ra đó, thưa cô. Con đã hứa là sẽ dẫn phu nhân Derrick đi dạo – trừ khi cô ấy thấy mình không đủ sức đi.”
Ánh mắt anh chiếu vào Christine.
Đây là lần đầu tiên anh nhìn Christine kể từ khi anh đưa khăn tay cho nàng trong thư viện hai ngày trước. Bình thường nàng sẽ cười với anh, vì cả hai đều biết anh vừa nói dối. Nhưng tim nàng đang đập thình thịch và ngực nàng thắt lại. Đột nhiên nàng nhận ra nữ hầu tước đang chăm chú quan sát mình.
“Ồ, không, tôi đi được, thưa đức ngài. Tôi đang chờ đợi chuyến tản bộ mà.”
Nữ hầu tước đằng hắng và Christine đứng dậy ngay vì sợ bị kẹt lại trong phòng ăn, một mình với người phụ nữ đó.
“Tôi sẽ đi lấy mũ và áo choàng.” Nàng nói với công tước.
Và chưa đầy mười phút sau nàng đã rảo bước ra khỏi lâu đài, đúng lúc gặp cả quân đoàn Bedwyn trên bậc thang với lũ trẻ. Họ mời nàng đi cùng, và nàng buộc phải từ chối, nói với họ là nàng chuẩn bị đi dạo cùng công tước.
Nàng thề rằng họ đón nhận lý do của nàng bằng những nụ cười cực kỳ đắc ý.
“Tôi tưởng,” nàng nói khi khoác tay công tước, “ngài đang muốn tận hưởng một buổi chiều yên tĩnh trong thư viện?”
“Vậy sao?” Anh hỏi nàng. “Nàng hiểu ta quá đấy, phu nhân Derrick.”
Họ đi bên nhau, im lặng trong một lúc. Trời vẫn đầy mây và lộng gió, giống cuối đông hơn đầu xuân.
“Tôi phải cảm ơn,” cuối cùng nàng cũng mở lời, “những gì ngài đã làm cho tôi vào tối hôm trước. Tôi thấy mình thật ngu ngốc vì chưa bao giờ nghi ngờ. Giờ đây, khi đã biết sự thật rồi tôi mới thấy mọi việc hiển hiện ngay trước mắt mà không nhận ra.”
“Thường thì những kẻ xảo quyệt nhất và những âm mưu thành công nhất là những thứ đơn giản nhất.
Sao nàng có thể nghi ngờ chứ? Anh ta cho nàng tình bạn, sự cảm thông và ủng hộ khi nàng cần chúng. Và làm sao chồng nàng hay anh chị chồng nàng có thể nghi ngờ chứ?
Anh ta là họ hàng, và họ biết – quá rõ – là anh ta rất yêu quý nàng. Vì thế mà họ hoàn toàn tin là anh ta sẽ bảo vệ nàng bất chấp mọi lý do và sự thật. Một người ngoài như ta dễ dàng nhận ra hai từ – tán tỉnh và Justin – luôn đi cùng nhau. Mà ta thì chưa bao giờ nghĩ nàng là kẻ tán tỉnh. Nàng rất buồn sao?”
“Về việc mất Justin à? Không. Tôi chỉ buồn là Oscar mất trước khi biết sự thật, rằng anh ấy chết với ý nghĩ tôi phản bội anh ấy. Anh ấy không phải là người mạnh mẽ. Tôi nghĩ, anh ấy là đối tượng hoàn hảo cho âm mưu này và ắt hẳn Justin đã nhận ra điều đó. Nhưng Oscar cũng là người rất ngọt ngào lúc tôi mới gặp anh ấy, và chúng tôi có thể có một cuộc hôn nhân hạnh phúc mặc dù anh ấy khác xa giấc mơ lãng mạn thuở thiếu nữ mà tôi đã dệt nên. Đúng, tôi buồn, nhưng cũng thanh thản. Hermione và Basil đã biết sự thật, thế là đủ. Giữa chúng tôi luôn có gút mắc kể từ khi vấn đề bắt đầu nảy sinh. Tôi rất cảm ơn ngài vì điều đó. Ngài không cần phải làm thế vì tôi.”
“Ta cần phải làm vậy.” Anh thản nhiên trả lời.
Anh không giải thích và nàng cũng không hỏi thêm. Họ im lặng đi bên nhau, xuyên qua bãi cỏ bên bờ hồ và hàng cây, rồi xuống lối đi đầy cỏ dại, ngang qua con dốc nàng lăn xuống vài ngày trước, đi giữa khu rừng nơi họ cãi nhau và nàng giật lấy cái kính một mắt của anh – mà vẫn chưa trả. Nàng nhận ra hẳn họ đang đi đến nơi mà anh muốn dẫn nàng đến chiều hôm đó – chuồng bồ câu ở phía bắc hồ nước.
Nàng nhận ra sự im lặng không phải lúc nào cũng đem lại cảm giác khó chịu, nhất là khi ý nghĩ của hai người hòa hợp với nhau. Và giữa họ có chút ít hòa hợp. Nàng biết nàng ngày càng thích anh, và dù nhận thức đó làm nàng đau khổ – vì, tất nhiên, sự khác biệt giữa họ quá lớn nên không thể vượt qua – nàng vẫn quyết định sẽ thư giãn và tận hưởng buổi chiều này. Rốt cuộc, nàng đã chấp nhận lời mời đến đây của anh. Và anh vừa mới làm một điều rất tuyệt diệu cho nàng.
Ta cằn phải làm vậy.
Cần làm thế vì nàng.
Nàng nhìn trộm nét mặt nghiêng nghiêng quý tộc, nghiêm nghị của anh. Thật lạ lùng, dù vẫn như mọi khi, sao giờ đây nó trở nên thân thương với nàng đến thế?
Cuối cùng họ cũng đến một trảng rừng trống, giữa đó là công trình bằng đá mà anh đã chỉ từ tòa tháp. Nó cao và tròn, có mái nhọn lợp tranh và những ô cửa sổ nhỏ ở tít trên cao. Một cầu thang dẫn xuống mặt sàn gỗ chìm sâu xuống dưới.
“À, chuồng bồ câu. Nó thật đẹp. Bên trong có nhiều bồ câu không?”
“Bồ câu ư? Không, nó bị bỏ hoang dưới thời cha ta và trở nên cũ nát. Ta luôn thích ngắm nhìn nó, nhưng ta chỉ quyết định sửa nó vài năm trước, chủ yếu tu sửa lại bên trong vì không muốn thu hút sự chú ý của ai, còn bên ngoài chỉ lợp lại mái. Để ta chỉ cho nàng.”
Anh bước xuống bậc thang, xoay khóa trong ổ trên cánh cửa, và mở cửa trước khi đứng sang một bên để nhường nàng vào trước.
Christine không biết nàng trông đợi gì. Nhưng những gì trông thấy làm nàng nín thở, nàng đứng bất động và nhìn chằm chằm trong kinh ngạc. Và nàng có thể nhìn rõ ràng dù không có ánh sáng mặt trời. Có sáu ô cửa sổ ở phía trên cao. Chúng đều lắp kính màu sặc sỡ trong mờ đắt tiền.
Nàng ngước lên nhìn trần. Những bức tường bằng đá, nhưng từ sàn đến trần có rất nhiều hốc, ắt hẳn để chim bay vào dưới cái thời có hàng trăm con chim sống trong này.
Nhưng giờ đây những cái hốc đó đã được lau chùi sạch sẽ. Mấy cái nằm thấp phía dưới đựng nến hay sách. Vài cái khác có cả bình mực hay mồi lửa.
Bên trong chuồng chim câu có một cái giường thấp với chăn lông cừu phủ ở trên, một bộ bàn ghế làm việc đơn giản, một cái ghế bành bằng da lớn, và một lò sưởi – rõ ràng là vừa được nhóm – có ống thông khói xuyên qua vách tường đối diện cửa ra vào. Rất nhiều khúc củi được dự trữ ở trong cái thùng cạnh lò sưởi. Thật là một nơi ẩn náu bé nhỏ tuyệt đẹp, và trông nó càng kỳ ảo hơn khi được tắm mình trong những luồng ánh sáng nhiều màu.
Nàng quay lại nhìn anh. Anh đứng ngay phía sau cánh cửa đã đóng, tay Cầm mũ, mắt không rời khỏi nàng.
Đó là khoảnh khắc chết người. Christine muốn tránh khoảnh khắc đó hơn. Nàng biết khoảnh khắc đó cuối cùng sẽ đến. Nàng đang bị mắc kẹt với công tước Bewcastle mà không có đường thoát ra – và chắc chắn không ai có thể vào trong.
Nhưng đã quá trễ để bảo vệ hay phủ nhận cảm xúc của nàng.
Công tước đi ngang qua nàng trước khi nàng có thể nghĩ ra từ gì để nói. Nàng tháo mũ và găng tay dù bên trong chuồng câu vẫn lạnh, rồi đặt chúng trên bàn lúc anh dừng lại để khơi ngọn lửa trong lò. Nó cháy bùng lên ngay, nhưng nàng chắc ngọn lửa không thể sưởi ám cả chuồng câu ngay được.
“Tại sao?” Nàng hỏi anh. “Khi mà cả lâu đài Lindsey rộng rãi và cả những dinh thự lớn khác là của ngài. Tại sao lại là nơi này?”
Nhưng không hiểu sao nàng biết câu trả lời. Như thể nàng đã từng trải qua giây phút này và biết anh sẽ nói gì. Nàng thấy hoảng sợ một cách ngu ngốc, như thể cả ngọn núi tuyết sắp đổ ập xuống người nàng.
“Người ta cảm thấy quá nhỏ bé, như thể không tồn tại trước sự rộng lớn, bao la. Thậm chí có khi ta quên mất mình còn là gì đó ngoài công tước Bewcastle.”
Nàng lúng túng nuốt xuống.
“Nhưng ở nơi này, ta có thể nhớ ra. Thật lạ là cả năm qua ta không hề đến đây – cho đến tuần trước, khi một ý nghĩ chợt đến là ta phải đem nàng đến nơi này.”
Và rồi nàng biết – đây là điều không thể tránh khỏi, rằng đây là cơ hội anh đã yêu cầu, rằng chuyến viếng thăm nơi ẩn náu bé nhỏ giữa điền trang rộng lớn của anh là những gì anh mơ ước và đã lên kế hoạch trước. Nó sạch sẽ và thoải mái, chưa từng có ai vào đây ngoài anh. Anh đã tự tay lau chùi, sắp xếp mọi thứ và nhóm lửa sẵn.
Nàng nhìn quanh tìm chỗ và quyết định ngồi lên cái ghế gỗ trước bàn làm việc. Nàng ngồi xuống, kéo hai mép áo choàng lại với nhau.
“Và ngài nhớ gì khi ngài ở đây?”
“Rằng ta còn là Wulfric Bedwyn nữa.” Tuyết đổ ập xuống đầu nàng.
Đúng. Đúng rồi. Đó chính là anh. Trong thời gian ở lâu đài Lindsey, nàng đã nhận ra thật sự có một con người ẩn giấu bên dưới vẻ ngoài ghê gớm của công tước Bewcastle. Tất nhiên, con người đó và công tước, đều là một và giống nhau. Chưa bao giờ nàng ngờ rằng lúc nào đó anh sẽ nổi giận, rằng có hai con người hoàn toàn khác nhau tồn tại trong cùng một cơ thể. Nhưng nàng không chắc nàng muốn biết nhiều hơn về con người đó hay hiểu rõ anh hơn. Trong gần ba năm qua, cuộc sống của nàng đã yên bình trở lại – và giờ Hermione cùng Basil lại yêu mến nàng như trước.
Vậy mà giờ đây con tim nàng nhức nhối trước lời anh – ta còn là Wulfric Bedwyn nữa.
“Hãy kể cho tôi nghe về… bản thân ngài.” Gần như nàng đang nói về anh, như thể Wulfric Bedwyn thật sự là một con người khác, chứ không phải người đàn ông lạnh lùng, tách biệt, đầy quyền uy đang đứng bên lò sưởi. “Không, câu hỏi đó không đúng. Chẳng có gì để nói về ngài. Hãy kể cho tôi nghe tuổi thơ của ngài.”
Nếu nàng muốn hiểu anh – dù nàng cố tránh điều đó – nàng sẽ phải bắt đầu với tuổi thơ của anh. Thật khó mà hình dung ra hình ảnh anh từng là một đứa bé con, rồi một đứa trẻ, rồi một cậu bé.
“Hãy đến ngồi ở ghế bành,” anh ra dấu bằng một tay, và khi nàng đã ngồi xuống đó, anh lấy tấm chăn lông cừu trên giường phủ lên lòng nàng trước khi ngồi lên bàn, một chân đặt trên sàn, một chân vắt vẻo. Anh cởi áo choàng rồi ném nó lên lưng ghế. Ánh sáng màu xanh và tím nhảy múa trên người anh.
“Ngày xưa ngài như thế nào?” Nàng hỏi anh.
“Ta đầy năng lượng và không bao giờ chịu đứng yên. Ta chỉ muốn lớn lên để được du lịch vòng quanh thế giới. Ta sẽ đi đến tận cùng châu Mỹ. Ta sẽ vượt Thái Bình Dương đến Trung Hoa. Ta sẽ khám phá sự huyền bí của châu Phi và trải nghiệm sự quyến rũ của vùng Viễn Đông. Ta muốn trở thành kiểu người hùng như Robin Hook[22], hay săn cướp biển. Khi chững chạc hơn – ở tuổi lên chín hay mười – ta nghĩ ta sẽ là thuyền trưởng trên chính con tàu của mình và trở thành sĩ quan chỉ huy một hạm đội hải quân hay tướng lĩnh của quân đội Anh và dù chiến đấu ở đâu cũng giành những chiến thắng huy hoàng. Nhưng trong khi chờ đợi để trưởng thành và đến với cuộc đời vẻ vang, ta là tên quỷ sứ ở nhà và vườn hoa. Ta là nỗi kinh hoàng của mọi thợ làm vườn, người giữ ngựa và người hầu trong nhà, là thách thức lớn nhất cha ta từng đối mặt và là nỗi tuyệt vọng của mẹ ta.”
[22] Một nhân vật anh hùng trong văn học dân gian của Anh. Một cung thủ và kiếm thủ cừ khôi, ông được biết đến với tinh thần tập hợp những người anh em “cướp của người giàu chia cho người nghèo”.
Anh lại đứng dậy và đến chỗ lò sưởi, dùng giày đẩy nhẹ mấy khúc củi vào để chúng cháy bùng hơn.
“Aidan và ta từng có một kế hoạch, hồi bé ta và cậu ấy vẫn còn thân thiết. Cả hai đồng ý sẽ tráo quần áo, nhân dạng, và cha ta sẽ không bao giờ nhận ra sự khác biệt. Aidan sẽ ở nhà và một ngày nào đó trở thành công tước, còn ta sẽ dong buồm khắp bốn biển và nắm lấy bất cứ cuộc phiêu lưu nào mà cuộc đời đem tới!”
Christine, lúc đó vẫn yên lặng, chợt giật mình thích thú. Anh đang đứng nhìn đăm đăm vào lò sưởi, hồi tưởng lại những gì đã qua. Sau vài phút anh quay lại nhìn nàng.
“Nhưng ngay từ khi sinh ra, ta đã bị định đoạt sẽ trở thành công tước với mọi nghĩa vụ và trách nhiệm đi kèm với nó. Aidan cũng vậy, sứ mệnh của cậu ấy là gia nhập quân đội. Ta và cậu ấy chỉ mơ được tráo đổi vị trí cho nhau, nhưng tất nhiên là không thể. Cuối cùng, ta phản bội cậu ấy.” Bên dưới tấm chăn lông cừu ấm áp, Christine cảm thấy lạnh toát cả người.
“Aidan không thích nghề nghiệp đã được chọn cho cậu ấy. Aidan là một cậu bé yêu hòa bình, yêu sự yên ổn. Cậu ấy thường lẽo đẽo theo sau cha ta như hình với bóng khi ông ấy đi thăm nom điền trang, và thường dành nhiều thời gian ở chỗ người quản lý. Cậu ấy năn nỉ cha ta và thuyết phục mẹ nài xin cho cậu ấy. Tất cả những gì Aidan muốn là sống yên bình với ruộng đất, nông trại và tự quản lý nó. Ta không hiểu sao định mệnh quái ác lại bắt ta ra đời trước cậu ấy. Sau khi cha mất, tất nhiên ta có thể để cho cậu ấy thực hiện ước mơ. Lúc đó ta mới mười bảy, Aidan mười lăm. Rồi cậu ấy đi học thêm vài năm nữa, nhưng khi quay về nhà, cậu ấy lại hăng hái ném mình vào việc đồng áng. Cậu ấy biết tường tận những nông trại xung quanh lâu đài Lindsey. Cậu ấy biết cách điều hành chúng. Trực giác của cậu ấy trong việc đó nhạy hơn ta. Cậu ấy cố khuyên ta – rõ ràng là những lời khuyên sáng suốt – rằng hãy sa thải người quản lý đã quá già của cha ta và để cậu ấy làm thay. Cậu ấy cố chỉ cho ta những gì cần làm để mở rộng điền trang và những sai sót của ta. Aidan nói đúng – cậu ấy yêu nơi này, hiểu nó hơn ta, thế nhưng ta là anh. Ta mua chức sĩ quan cho cậu ấy và triệu cậu ấy đến thư viện để thông báo điều đó. Aidan chẳng thể làm gì khác ngoài tuân lệnh ta, công tước Bewcastle quyền lực dù lúc đó ta còn rất trẻ. Ta không ngần ngại, và kể từ đó luôn sử dụng quyền lực của một công tước.”
“Và ngài chưa bao giờ tha thứ cho bản thân mình,” nàng chỉ nhận xét, chứ không hỏi. “Dù ngài đã làm điều đúng đắn.”
Anh đồng tình. “Đúng. Nhưng ta phải chọn lựa giữa vai trò công tước Bewcastle và vai trò một người anh – với cậu bé ta từng gắn bó. Đó là lần đầu tiên ta đối mặt với sự đấu tranh trong tư tưởng và phải chọn lựa. Ta đã chọn vai trò công tước và kể từ đó luôn quyết định như thế. Ta nghĩ mình sẽ tiếp tục làm vậy cho đến hết đời. Rốt cuộc ta là một quý tộc, ta có trách nhiệm với hàng trăm, có khi hàng nghìn người khác mà ta không thể và sẽ không tránh né trách nhiệm đó. Vì vậy, nàng thấy đấy, ta không thể hứa với nàng rằng ta sẽ trở thành một con người khác để phù hợp với hình mẫu trong mộng của nàng. Nàng thấy ta lạnh lùng, kín đáo, nghiêm khắc và ta là vậy. Nhưng ta không chỉ có thế.”
“Vâng,” nàng thốt lên, dù nàng không chắc có âm thanh nào thoát ra khỏi môi mình.
Anh đứng trước lò sưởi, tay chắp sau lưng, vẻ mặt lạnh lùng và ngạo mạn, khác hoàn toàn với những lời anh đang nói – mà cũng có khi không phải. Anh đã chọn lựa để cho vai trò công tước Bewcastle lấn át hết mọi thứ trong cuộc đời.
“Nàng thấy là ta không thể cho nàng điều mà ta không có. Ta chỉ có thể hy vọng nàng thấy được một con người đã sống gần ba mươi sáu năm thì sẽ phức tạp vô cùng. Vài ngày trước, nàng buộc tội ta đang đeo một cái mặt nạ, và nàng đã sai. Ta bao phủ công tước Bewcastle bên ngoài Wulfric Bedwyn, nhưng cả hai đều là ta. Ta không bớt tính người chỉ bởi ta chọn đặt trách nhiệm lên hàng đầu. Và rồi nàng thắc mắc liệu ta có phải gã quý tộc lạnh lùng, nhẫn tâm từ trong ra ngoài. Ta không phải. Nếu ta là thế, thì ta có thể bị nàng mê hoặc để rồi bị những ký ức về nàng ám ảnh không? Nàng hoàn toàn không phải kiểu người mà công tước Bewcastle quan tâm, hay chọn lựa để mà tán tỉnh.”
Christine vẫn ngồi bất động.
“Nhưng ta may mắn hơn những người khác. Ta có một tuổi thơ vui vẻ, vừa dữ dội lại vừa hạnh phúc. Cha mẹ thương yêu ta dù suốt tuổi thiếu niên ta chẳng có cha ở cạnh để mà kèm cặp.”
“Chuyện gì đã xảy ra?” Nàng hỏi.
Anh thấy nàng quyến rũ. Anh bị ám ảnh bởi những ký ức về nàng sao? Ám ảnh ư?
“Ông ấy bị một cơn đột quỵ năm ta mười hai tuổi, nhưng qua được, tuy vậy bác sĩ cảnh báo tim ông rất yếu, và có thể ngừng đập bất cứ lúc nào. Ông ấy là một trong những người giàu nhất, quyền lực nhất nước Anh. Ông ấy có nhiều tài sản hơn những người đàn ông khác, ông ấy có rất nhiều bổn phận và trách nhiệm. Vậy mà con trai cả của ông – người thừa kế của ông – lại là một đứa nổi loạn, bất trị.”
Gần như không thể tin được anh đang nói về chính mình.
“Dù ta vẫn ở lâu đài Lindsey, ta gần như bị cách ly khỏi gia đình mình. Ta bị hai gia sư quản thúc. Ta thường xuyên gặp cha, nhưng hiếm khi thấy mẹ. Aidan, rồi Rannulf, cuối cùng là Alleyne cũng đi học, như ta, và ta gần như không bao giờ gặp chúng – kể cả lúc chúng được nghỉ hè, về nhà. Ta gần như cô độc. Ta đấu tranh, la lối, hờn dỗi – và rồi ta lao đầu vào học. Ta có năm năm để học mọi thứ cần biết suốt phần đời còn lại. Tất nhiên chẳng ai nghĩ nó sẽ kéo dài đến năm năm, cứ tưởng chỉ một năm hay ít hơn. Cha ta mất năm ta mười bảy tuổi. Lúc hấp hối, ông ấy hôn tay ta và nói với ta rằng đôi khi tình yêu làm con người đau đớn, nhưng nó vẫn là tình yêu. Nàng thấy đấy, ông chẳng có chọn lựa nào khác. Ta là con trai ông và ông yêu ta. Nhưng ta cũng là người thừa kế của ông. Ta phải học để kế thừa vị trí của ông.”
Đột nhiên Christine nhận ra anh chưa từng kể chuyện này với ai khác – như nàng chưa bao giờ tiết lộ sự thật về cái chết của Oscar cho ai, ngoài anh. Nhận thức đó làm nàng hoảng sợ – và nước mắt nàng chực trào ra khóe mắt. Anh đang phơi bày tâm hồn anh trước nàng. Vì… Vì anh bị nàng mê hoặc và bị những ký ức về nàng ám ảnh. Vì anh cố ý đem nàng đến đây – lâu đài Lindsey, chuồng chim câu này, nơi ẩn náu của anh, chỉ bởi mục đích duy nhất ấy. Vì anh đã khẩn nài nàng cho anh một cơ hội.
Nàng nhận ra, nàng đã yêu anh quá nhiều. Và đến giờ…
Và đến giờ nàng đã không còn tin vào hạnh-phúc-mãi-mãi. Nàng không còn là cô gái thơ ngây mười năm trước, vội vàng đâm đầu vào mối tình mà nàng chắc chắn sẽ tránh nếu nàng cho mình đủ thời gian để tìm hiểu Oscar. Đến phút cuối nàng vẫn yêu anh, nhưng tận sâu trong tim nàng biết rằng chẳng bao lâu sau khi kết hôn nàng đã nhận ra sự yếu đuối của Oscar. Đó không phải là giấc mơ yêu nhau suốt đời của nàng.
Giờ đây nàng khôn ngoan và thận trọng hơn nhiều. Giờ đây nàng hoàn toàn biết rõ chẳng tồn tại hạnh-phúc- mãi-mãi chỉ dựa trên một lời cầu hôn và một từ đồng ý. Và đến giờ…
Và đến giờ anh là một người đàn ông khác hẳn mà nàng ngày càng thích, một con người mà nàng ngày càng phải miễn cưỡng thán phục. Làm sao nàng lại không thán phục một người đàn ông trọng danh dự và có trách nhiệm trước mọi thứ cơ chứ? Người nhận thấy trách nhiệm với hàng trăm, thậm chí là hàng nghìn người phụ thuộc còn quan trọng hơn ý thích cá nhân. Có thể anh đã phải trải qua một quá trình học tập ngột ngạt, thậm chí là khắc nghiệt, nhưng cha anh đã cân nhắc, không để nó hủy hoại tinh thần anh. Sau khi cha anh mất, anh có thể quay lưng lại với mọi thứ anh được dạy dỗ. Anh có thể trở thành chàng thanh niên ngông cuồng, phung phí như nhiều người khác trong hoàn cảnh đó. Rốt cuộc anh giàu có và có đủ quyền lực để làm thế.
Nhưng anh vẫn vững vàng. Từ tuổi mười bảy anh đã điềm nhiên khoác lên mình chiếc áo công tước Bewcastle.
Làm sao mà nàng không thán phục anh chứ? Và, lạy Chúa, làm sao nàng có thể không yêu anh?
Nàng cười với anh. “Cảm ơn ngài. Tôi hiểu ngài là một người rất cô độc. Cảm ơn ngài đã chỉ cho tôi nơi ẩn náu đẹp tuyệt này và đã kể về mình.”
Ánh mắt anh không rời nàng, nghiêm nghị và dữ dội hơn bao giờ hết, và chưa lúc nào bí hiểm như thế.
“Ta đã mơ. Suốt năm qua ta đã mơ đến việc nhìn thấy nàng ở đây, ngồi tại nơi nàng đang ngồi. Hôm nay ta sẽ không đưa ra bất cứ câu hỏi nào. Bây giờ không phải là lúc. Dù vậy, ta sẽ nói điều gì đó với nàng. Ta không mang nàng đến đây để quyến rũ nàng. Nhưng ta muốn nàng. Nàng biết thế. Giờ ta muốn nàng, ở đây, trên chiếc giường này. Ta muốn đấy là những cảm xúc thật sự ta dành cho nàng và có lẽ là những cảm nhận thật của nàng về ta. Không trách nhiệm, không bổn phận, không ràng buộc, không bận tâm ngày mai sẽ ra sao. Nàng sẽ nằm xuống cùng ta chứ? À, rốt cuộc ta cũng đưa ra một câu hỏi.”
Lý trí nàng tê liệt dù lúc đó nó chạy đua với hàng nghìn ý nghĩ. Cơ thể nàng chẳng cảm thấy gì ngoài sự chết lặng. Ngực nàng căng ra với khao khát, và một cơn đau nhói đâm xuyên bên trong cơ thể cùng nơi nữ tính kín đáo của nàng. Hơi thở nàng bị tước mất. Ngay đây ư? Ngay lúc này? Lần nữa sao? Ký ức về cái đêm bên hồ ở Schofield ồ ạt ùa về. Và câu trả lời của nàng chẳng khác những lời nàng từng nói đêm đó khi anh cũng hỏi cùng câu hỏi.
“Vâng.”
Anh tiến ba bước về phía nàng và đưa bàn tay phải ra. Nàng gạt tấm chăn lông cừu sang một bên và đặt tay mình vào tay anh.
Anh đưa nó lên môi.